Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn làm văn trong chương trình thpt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.67 KB, 20 trang )

A. Đặt vấn đề
I. Lí do chọn đề tài
Môn Ngữ văn có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc rèn
luyện kĩ năng nói, viết, nghe, đọc; góp phần giáo dục tư tưởng,
tình cảm, hình thành nhân cách cho học sinh, hướng tới những
tình cảm tốt đẹp như lòng nhân ái, tôn trọng lẽ phải, sự công
bằng…Vì thế, việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói
chung và phân môn Làm văn nói riêng càng được đặt ra như
một vấn đề cấp bách. Dạy học làm sao để phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động tư duy sáng tạo của người học, bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên.
Là một giáo viên dạy môn Ngữ văn ở trường THPT, tôi
luôn trăn trở làm gì, làm như thế nào để nâng cao hiệu quả dạy
học phần Làm văn, bởi nhiều lẽ:
+ Thứ nhất là bởi dạy văn là công việc rất khó, dạy Làm
văn lại càng khó hơn.Vì dạy văn là một khoa học, đồng thời
cũng là một nghệ thuật. Dạy Văn suy cho cùng là hướng tới
đích: Giải mã văn bản của người và tạo lập văn bản của mình.
Nếu trò không biết cách tạo lập được văn bản thì coi như không
“tiêu hóa” được kiến thức của hai phân môn Văn học và Tiếng
Việt. Con tằm ăn lá dâu để nhả ra tơ hay nhả ra lá dâu là được
quyết định ở khâu làm văn này. Do đó, việc dạy học Làm văn là
công việc khó khăn nhất, quan trọng nhất trong môn học. Và
nếu không làm được văn thì việc học văn giỏi đến mấy cũng trở
nên vô nghĩa.
+ Thứ hai, việc học văn, làm văn lại càng quan trọng hơn
với lứa tuổi học sinh THPT. Đây là lứa tuổi mà các em tạo lập
cho mình những bước đệm vững chắc, những hành trang cơ bản
để bước vào đời, lứa tuổi chuẩn bị trở thành một công dân thực
thụ. Bài làm văn không chỉ góp phần quyết định việc đỗ, trượt
Đại học (với những em khối thi có môn Ngữ văn) mà còn mang


đến nhiều giá trị khác. Khi rời ghế trường phổ thông các em sẽ
phải hòa mình, va chạm với muôn mặt đời thường. Vì vậy, cần
hơn bất kì lúc nào, môn Ngữ văn nói chung và phân môn Làm
văn nói riêng phải giúp các em kiến tạo nên “năng lực người”,
tạo cho các em khả năng tạo lập và lĩnh hội văn bản. Đó là nấc
1
thang quan trọng giúp các em tiến những bước vững chắc trên
đường đời.
+ Thứ ba, xuất phát từ thực tế chất lượng, hiệu quả dạy
học phần Làm văn còn nhiều bất cập. Gần đây không ít những
bài văn gây “sốc” mà gần nhất là hai bài văn của học sinh lớp 7
và lớp 10 ở Hà Nội (Bài văn về nhân vật Cám và bài văn về
“Canh gà Thọ Xương”). Không ít học sinh hơn 10 năm học
văn, làm văn vẫn viết những bài văn mà người đọc không hiểu,
diễn đạt ngây ngô, vụng dại, viết mà không ý thức rõ kiểu văn
bản…thậm chí không biết viết một văn bản nhât dụng thông
thường như Đơn xin nghỉ học…Trong tạp chí Thế giới trong ta,
tờ báo Nghề ở Việt Nam dành cho thầy cô giáo đứng lớp, nhiều
người đã rung lên hồi chuông báo động về thực trạng dạy văn,
học văn.
Có thể thấy, nguyên nhân dẫn đến thực trạng ấy có nhiều,
song liên quan trực tiếp và đầu tiên là việc dạy, học Làm văn ở
trường THPT chưa được thầy, trò quan tâm đúng mức.
Với những lí do trên, bản thân tôi thấy trăn trở và kiên trì
học hỏi, tìm tòi, thử nghiệm, có thất bại, có thành công và sau
một thời gian cố gắng, tôi đã làm được một số việc nhất định.
Vì vậy, tôi mạnh dạn xin được trình bày một vài kinh nghiệm
“Để góp phần nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Làm văn
trong chương trình THPT”
II. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên cứu

1. Phạm vi đề tài
Phương pháp để dạy học phần Làm văn sao cho đạt chất
lượng, hiệu quả cao đã có không ít những công trình nghiên
cứu từ xưa đến nay, từ chương trình cũ cho đến chương trình
đổi mới. bản thân tôi cũng không dám chắc mình đã nắm được
hết, thấu tỏ mọi nhẽ về phương pháp dạy Làm văn. Song với
tâm huyết của mình và trong khuôn khổ của một sáng kiến kinh
nghiệm, tôi chỉ xin bàn một số giải pháp cụ thể mà tôi đã áp
dụng trong quá trình giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT
Hậu Lộc I.
2. Đối tượng nghiên cứu: Phân môn Làm văn trong chương
trình Ngữ văn ở THPT
2
3. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài này, tôi sử dụng các phương pháp thống
kê, phân loại, so sánh, phân tích, tổng hợp.
B. Giải quyết vấn đề
I. Thực trạng dạy và học phân môn Làm văn ở THPT
1. Nội dung chương trình
+ Tỉ lệ tiết dạy Làm văn trong chương trình khá nhiều,
chiếm hơn 1/3 dung lượng của môn Ngữ văn. Cụ thể, ở chương
trình Cơ bản, lớp 10 có 35/105 tiết, lớp 11 có 37/123 tiết, lớp
12 là 31/105 tiết; ở chượng trình Nâng cao, lớp 10 có 43/140
tiết, lớp 11 có 46/140 tiết, lớp 12 là 51/140 tiết. Các tiết Làm
văn được bố trí xen kẽ với các tiết Văn học và Tiếng Việt theo
chủ trương tích hợp ba phân môn trong môn Ngữ văn. Đó là
một chủ trương đúng đắn, phù hợp và đã phần nào phát huy
được thế mạnh của bộ môn. Song, sự chẻ nhỏ các tiết Làm văn
cũng khiến giáo viên gặp khó khăn khi bao quát, hệ thống, xâu
chuỗi kiến thức của phân môn trong cả cấp học.

+ Mặt khác, việc biên soạn một số tiết dạy trong chương
trình chưa thực sự hiệu quả. Ví dụ như tiết 62 Nghị luận về một
tác phẩm, một đoạn trích văn xuôi (Ngữ văn 12, Cơ bản, tập 2)
ngữ liệu đưa ra khảo sát chưa phù hợp với nội dung bài học.
Nội dung tiết học là nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích
văn xuôi nhưng ngữ liệu đưa ra chỉ có hai đề nghị luận về tác
phẩm, không có đề nghị luận về đoạn trích. Hơn nữa cả hai đề
đều thuộc nội dung chương trình Ngữ văn 11 nên sẽ rất khó
khăn cho học sinh khi phải nhớ lại kiến thức cũ để khảo sát
theo yêu cầu đề bài.
2. Về phía giáo viên
Với tâm lí thi gì dạy nấy nên phần Làm văn trong chương
trình chưa được quan tâm đúng mức. Trong phân môn này, các
tiết luyện tập khá nhiều nhưng phần lớn chưa được giáo viên
phát huy hết tác dụng mà rất dễ biến thành các tiết “nhàn” để
cho các tiết đọc văn “lấn sân”.
3. Về phía học sinh
+ Do tâm lí xã hội nên đa phần học sinh ngại học các môn
Khoa học xã hội trong đó có môn Ngữ văn. Số lượng học trò ở
3
khối C, D ngày càng teo dần. Phần đông các em học lệch chỉ
quan tâm đến các môn theo khối, còn lại chỉ học đối phó miễn
sao lên được lớp, qua tốt nghiệp. Chính vì vậy mà đa số các em
rỗng kiến thức cơ bản về Làm văn dẫn đến tâm lí ngại viết văn,
không biết “làm” thế nào cho ra “văn”.
+ Với những học sinh học khối C, D, phần đông các em
có quan niệm, tâm lí: Học văn là học các tác phẩm văn chương
cụ thể để thi. Vì vậy, thường ít hứng thú tiết Làm văn và các em
chưa thấy được tầm quan trọng của nó. Trong các giờ luyện tập
các em thường ngại việc, thụ động chờ thầy cô nhận xét, đánh

giá hoặc có tham gia làm việc nhưng thờ ơ, đối phó, qua loa
cho xong. Ở các tiết trả bài, các trò chỉ lo lắng, quan tâm đến
điểm số mà ít chú ý đến đọc lời phê của thầy cô.
Từ thực trạng trên, tôi thiết nghĩ cần phải có cách dạy phù
hợp để sao cho nâng cao hiệu quả phần Làm văn trong chương
trình.
II. Giải pháp khắc phục
1. Nắm chắc mục đích và nội dung chương trình phân môn
Làm văn ở THPT.
Có thể thấy quan điểm sáng tác văn chương của chủ tịch
Hồ Chí Minh đến nay vãn còn nguyên giá trị. Trước khi viết,
Người thường đặt ra các câu hỏi “Viết cho ai?” “Viết làm gì?”,
từ đó mới xác định “Viết cái gì?”, “Viết như thế nào?”. Thiết
nghĩ, dạy học làm văn cũng phải như vậy. Trước khi xác định
cách dạy sao cho hiệu quả nhất, theo tôi cần phải nắm chắc dạy
phần Làm văn nhằm mục đích gì? Để đạt được mục đích ấy,
nội dung chương trình của cả cấp học đã kết cấu như thế nào?
1.1. Mục đích của phân môn Làm văn
Phân môn Làm văn ở THPT có nhiệm vụ cung cấp cho
học sinh kiến thức về các kiểu loại văn bản. Từ đó các em biết
cách tạo lập các kiểu văn bản ấy trong nhà trường cũng như
trong cuộc sống. Như vậy, đích hướng tới là dạy học sinh làm
văn chứ không phải dạy một môn khoa học nghiên cứu về làm
văn; dạy học sinh tạo lập văn bản một cách thành thạo chứ
không phải dạy các em trở thành nhà thơ, nhà văn.
4
Vậy, học làm văn để làm gì? “Mục đích của phần làm
văn trong nhà trường là giúp người học biết suy nghĩ trước một
vấn đề văn học, xã hội hay một hiện tượng trong cuộc sống và
biết diễn đạt, trình bày những suy nghĩ đó một cách sáng sủa,

rõ ràng…Học làm văn là học cách rèn luyện để có cả hai khả
năng: biết nghĩ và biết diễn đạt suy nghĩ”(Ngữ văn 12, Nâng
cao, tập 2, trang 206)
1.2. Nội dung chương trình phân môn Làm văn
Môn Ngữ văn là môn học tích hợp. Do đó nội dung kiến
thức, kĩ năng giữa ba phần Văn học, Tiếng Việt và Làm văn có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau, được sắp xếp đan lồng, xen kẽ.
Chính vì thế, khá nhiều giáo viên cảm thấy lúng túng trong việc
nhận diện tính hệ thống của phân môn để có cách dạy cho phù
hợp. Nếu nhìn bao quát thì nội dung chương trình khá khoa
học.
* Lớp 10:
Phần Làm văn tập trung ôn tập và rèn luyện lại các kiểu
văn bản đã học ở trung học cơ sở như tự sự, miêu tả, biểu cảm,
thuyết minh, nghị luận. Ôn nhưng không lặp lại lí thuyết mà
chủ yếu vận dụng qua thực hành, tích hợp với phần Văn học.
Trong các kiểu văn bản, chương trình Làm văn 10 chú trọng
củng cố khắc sâu văn tự sự, thuyết minh và nghị luận.
+ Văn tự sự có các bài:
- Lập dàn ý bài văn tự sự
- Miêu tả biểu cảm trong bài văn tự sự.
- Luyện tập viết đoạn văn tự sự
- Tóm tắt văn bản tự sự
- Chọn sự việc chi tiết tiêu biểu trong bài văn tự sự
Ngoài ra trong sách Nâng cao còn cung cấp thêm một số
kinh nghiệm học văn, làm văn như: Quan sát, thể nghiệm đời
sống, Đọc tích lũy kiến thức, Liên tưởng, tưởng tượng.
+ Văn thuyết minh có các bài củng cố như:
- Các hình thức kết cấu của văn bản thuyết minh
- Lập dàn ý bài văn thuyết minh

- Tính chuẩn xác hấp dẫn của văn bản thuyết minh
- Phương pháp thuyết minh
5
- Luyện tập viết đoạn văn thuyết minh
- Tóm tắt văn bản thuyết minh
+ Văn nghị luận có các bài như:
- Đề văn nghị luận
- Luận điểm trong văn nghị luận.

- Lập dàn ý bài văn nghị luận
- Lập luận trong văn nghị luận
- Các thao tác nghị luận
- Luyện tập viết đoạn văn nghị luận
* Lớp 11:
Phần Làm văn tập trung vào các thao tác nghị luận chưa
học như: Lập luận phân tích, lập luận so sánh, lập luận bác bỏ
và lập luận bình luận. Bốn thao tác được chia đều cho hai học
kì và thao tác nào cũng được luyện tập cả về nghị luận xã hội,
nghị luận văn học. Cuối cùng là vận dụng kết hợp các thao tác
lập luận đó.
Ngoài ra, ở lớp 11 các em còn được học cách tóm tắt văn
bản nghị luận.
* Lớp 12:
Phần Làm văn tập trung vào tổng kết, củng cố các dạng
bài nghị luận và kĩ năng hoàn chỉnh bài văn:
+ Nghị luận xã hội với ba dạng bài: Nghị luận về một tư
tưởng, đạo lí; nghị luận về một hiện tượng đời sống và nghị
luận về một vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.
+ Nghị luận văn học với ba dạng chủ yếu: Nghị luận về một
bài thơ, đoạn thơ; nghị luận về một tác phẩm, một đoạn trích

văn xuôi và nghị luận về một ý kiến bàn về văn học.
+ Kĩ năng hoàn chỉnh bài văn bao gồm: Kĩ năng xây dựng
kết cấu bài văn nghị luận; kĩ năng lựa chọn, nêu luận điểm và
sử dụng luận cứ; kĩ năng mở bài, thân bài, kết bài; kĩ năng diễn
đạt và trình bày một bài văn…
Như vậy nhìn tổng thể, chúng ta nhận ra rằng nội dung
trọng tâm của cả cấp học là văn nghị luận và mỗi năm các em
thực hành viết 7 bài văn với chương trình Cơ bản, 8 bài với
chương trình Nâng cao. Ngoài ra, một số văn bản ứng dụng mới
6
đưa vào chương trình, mỗi lớp các em sẽ được học một vài loại
văn bản mới như: Lớp 10 là “Lập kế hoạch cá nhân” và “Viết
quảng cáo”; Lớp 11 học văn bản “Phỏng vấn và trả lời phỏng
vấn, Bản tin; lớp 12 học Phát biểu theo chủ đề và phát biểu tự
do, Xây dựng đề cương diễn thuyết, Văn bản tổng kết
Thông qua khảo sát toàn bộ nội dung cấu trúc của phân
môn Làm văn trong cả cấp học, tôi nhận thấy một số điểm cần
lưu ý trong quá trình dạy như sau:
Thứ nhất, nội dung ở mỗi lớp đều có phần lí thuyết, phần
thực hành trong đó ưu tiên, chú trọng phần thực hành với 2/3
dung lượng của phân môn. Ngay cả những bài thiên về kiến
thức kĩ năng mới thì kĩ năng cũng được hình thành thông qua
hoạt động thực hành phân tích ngữ liệu. Hai phần có mối quan
hệ chặt chẽ với nhau: Thực hành để củng cố sâu hơn lí thuyết
và ngược lại, dùng lí thuyết để xử lí những hiện tượng trong xã
hội, văn học.Vì vậy, dạy phần Làm văn, giáo viên không nên
đơn thuần truyền thụ kiến thức mà phải giúp trò thành thạo kĩ
năng.
Thứ hai, nguyên tắc tích hợp được thể hiện khá rõ. Có tích
hợp ngang giữa các phân môn Làm văn, Tiếng Việt, Văn học.

Làm văn là mảnh đất thực hành để củng cố và khắc sâu kiến
thức Tiếng Việt, Văn học. Không những thế, nhiều kiến thức
Làm văn còn soi sáng giúp cho việc đọc hiểu văn bản văn học
sâu hơn.
Mặt khác, còn có tích hợp dọc ngay trong phân môn Làm
văn, điều này được thể hiện rõ nhất trong các bài thiên về thực
hành và bài tổng kết. Đây là những bài có mục đích hệ thống
hóa kiến thức, kĩ năng xuyên suốt từ bậc THCS lên THPT. Vì
vậy, khi dạy những bài này, giáo viên nên gợi dẫn để học sinh
nhớ lại kiến thức và kĩ năng đã có, trên cơ sở đó nâng cao thêm.
Hơn nữa có thể sử dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
“Bản đồ tư duy” để giúp học sinh nhớ dễ dàng và lâu hơn.
Như vây, nhìn vào mục đích và nội dung chương trình,
chúng ta có thể thấy: Nếu thầy và trò dạy tốt và học tốt phần
Làm văn thì các em sau khi ra trường có thể tạo lập các văn bản
một cách thành thạo là điều không khó. Thế nhưng, vì sao học
7
nhiều như vậy mà trò vẫn tạo ra nhiều sản phẩm gây “sốc”
trong dư luận? Điều đó phần lớn liên quan đến phương pháp
dạy học. Từ cái nhìn tổng thể về nội dung chương trình của
phân môn kết hợp với kiến thức, công cụ lí luận, điều kiện thực
tế của trường, tôi hình thành cho mình phương pháp dạy phù
hợp, hiệu quả. Đó là phân các bài học theo nhóm và tìm ra
phương pháp dạy phù hợp với từng kiểu bài.
2. Phân loại và cách dạy từng nhóm bài
2.1. Phân loại
Từ cấu trúc nội dung chương trình của phân môn Làm
văn, tôi chia thành bốn nhóm bài như sau:
- Nhóm bài lí thuyết về làm văn
- Nhóm bài luyện tập, rèn kĩ năng

- Nhóm bài kiểm tra và trả bài
- Nhóm bài tổng kết, ôn tập
2.2. Cách dạy từng nhóm bài
2.2.1. Nhóm bài lí thuyết về làm văn
Đây là nhóm bài vừa củng cố, hệ thống vừa cung cấp kiến
thức và kĩ năng Làm văn mới cho học sinh. Ở nhóm bài này cần
chú ý đặc biệt đến tính tích hợp giữa Văn học và Làm văn, phân
biệt nội dung và cấp độ của một số thuật ngữ như: Phương thức
biểu đạt, thao tác lập luận, luận đề, luận điểm, luận cứ, lập luận,
diễn đạt…Để dạy có hiệu quả nhóm bài này, theo tôi nên tiến
hành theo 5 bước sau:
+ Bước 1: Giúp học sinh quan sát và nhận diện nội dung
bài học
Đây là bước đầu tiên các em tiếp xúc với bài học, vì
vậy, giáo viên có thể dẫn dắt học sinh tìm hiểu nội dung bằng
hệ thống câu hỏi: Bài học nêu lên vấn đề gì? Kết cấu bài học
gồm mấy phần, nội dung cơ bản và mối quan hệ giữa các
phần? Nội dung nào là quan trọng nhất? Điều em quan tâm
nhất trong bài học này là gì?
Tuy nhiên, ở khâu này cần phải lưu tâm với những
bài, những phần sách giáo khoa viết chưa phù hợp, thiếu tiện
lợi khi sử dụng. Ví dụ như tiết 62 Nghị luận về một tác phẩm,
một đoạn trích văn xuôi và tiết 84 Diễn đạt trong văn nghị luận
8
(Ngữ văn 12, tập 2) các ngữ liệu đưa ra chưa thực sự ích dụng
(như đã trình bày ở trên). Giáo viên có thể trao đổi với học sinh
để tìm ra những ngữ liệu phù hợp hơn. Chẳng hạn ở tiết 62, tôi
chọn các ngữ liệu là các tác phẩm và trích đoạn trong chương
trình Ngữ văn 12 ở một số bài vừa học xong(như Vợ chồng A
Phủ tiết 55, 56 hoặc Vợ nhặt tiết 60, 61). Điều đó sẽ vừa giúp

cho việc khảo sát ngữ liệu nhanh chóng, thuận lợi vừa phục vụ
trực tiếp cho việc ôn tập những tác phẩm quan trọng trong nội
dung ôn thi cuối cấp.
Ở tiết 84 Diễn đạt trong văn nghị luận, thay vì sử dụng
ngữ liệu là một đoạn văn của Xuân Diệu trong Lời tựa cho tập
“Lửa thiêng”, tôi chọn những đoạn văn tiêu biểu trong bài làm
của trò. Điều đó sẽ tránh cho học sinh sự xa lạ, khó hiểu, “hàn
lâm” và tăng sự gần gũi, sinh động, thiết thực của tiết học
+ Bước 2: Hướng dẫn học sinh phân tích ngữ liệu
Ở bước này, học sinh tiến hành phân tích, xử lí ngữ liệu
theo yêu cầu của giáo viên dưới dạng câu hỏi hoặc bài tập. Giáo
viên có thể dựa vào gợi dẫn trong sách giáo khoa để tạo lập hệ
thống câu hỏi khai thác thông tin, xử lí ngữ liệu một cách chi
tiết, cụ thể và phù hợp nhất. Trong khâu này, học sinh cần phát
huy tính tích cực, tự tìm hiểu, tự phân tích và rút ra nhận xét
mang tính cá nhân. Với giáo viên không nên chỉ chú ý đến kết
quả phân tích, xử lí ngữ liệu mà còn giúp các em hình thành và
rèn luyện cách phân tích và xử lí thông tin
+ Bước 3: Tổ chức học sinh trao đổi, thảo luận
Giáo viên gọi cá nhân hoặc tổ nhóm trình bày cụ thể
kết quả đã tìm hiểu được, đồng thời biện giải cơ sở, con đường
đi đến kết quả đó. Ở phần này, giáo viên nên khuyến khích
động viên các em tranh luận, phản biện về các vấn đề, nội dung
mà bạn khác đã nêu ra theo gợi dẫn. Như vậy, sẽ vừa giúp các
em rèn luyện khả năng lập luận, nói trước tập thể vừa tìm ra nội
dung bài học mà giáo viên không phải quá “khó nhọc”. Đồng
thời, qua đó, các em cũng tự rút ra kết luận cho chính mình.
+ Bước 4: Bổ sung, điều chỉnh và chốt
Những kết luận mà học sinh rút ra là rất quan trọng
và cần được trân trọng, cổ vũ, động viên. Song không phải kết

9
luận nào học sinh tìm ra cũng đã trọn vẹn, chính xác. Vì nhiều
vấn đề khoa học nhất là các thuật ngữ, khái niệm các em phải
được hiểu chính xác và thống nhất. Vậy nên giáo viên khi đứng
trước kết quả lao động của các em cần phải bổ sung điều chỉnh
và chốt một cách đầy đủ, chính xác, ngắn gọn nội dung kiến
thức các em cần có trong bài học.
+ Bước 5: Củng cố, khắc sâu
Mặc dù trọng tâm của bài học là hình thành kiến thức,
kĩ năng ở dạng lí thuyết và sẽ có tiết luyện tập phía sau.Song,
giáo viên cũng nên dành một phần thời gian của tiết học để cho
các em làm một bài tập ứng dụng nội dung kiến thức vừa được
hình thành. Như vậy, sẽ giúp các em củng cố, khắc sâu hơn lí
thuyết và những bài tập còn lại ở tiết luyện tập phía sau các em
sẽ giải quyết một cách dễ dàng hơn.
2.2.2. Nhóm bài luyện tâp, rèn kĩ năng
Đây là nhóm bài có chức năng củng cố lại những lí thuyết
đã được học và rèn luyện kĩ năng làm văn cho các em. Vì vậy,
kết cấu của bài học thuộc nhóm này thường ở dạng bài tập. Với
quan điểm làm sao để vô hiệu hóa bệnh lười, lệ thuộc sách bài
tập có sẵn lời giải của học sinh và tránh lí thuyết viển vông,
tăng cường tính thực hành, không biến thành giờ “nhàn”, tôi
thực hiện bằng cách:
+ Hướng dẫn học sinh phân nhóm các kiểu, dạng bài tập
trong sách giáo khoa và gợi dẫn các em thực hành giải một
phần hoặc một bài trong số đó. Các bài tập còn lại các em sẽ tự
giải quyết.
+ Thời gian còn lại tôi tạo ra những bài tập tương tự từ
sản phẩm của học sinh ở các bài viết. Ở phần này, tôi thấy các
em háo hức hơn vì bài tâp mới mẻ nhưng gần gũi khác với

những ví dụ khô cứng mang tính “hàn lâm” ở sách giáo khoa.
Chẳng hạn như tiết 102 Luyện tập về cách tránh lỗi diễn đạt có
nhiều khả năng hiểu khác nhau, tiết 118 Luyện tập về cách
tránh một số lỗi lôgic (Ngữ văn 12, Nâng cao, tập 2) ngoài
những bài tập trong sách giáo khoa thì các bài làm văn của các
em là những bài tập sinh động, thiết thực.
2.2.3. Nhóm bài kiểm tra và trả bài
10
a. Kiểm tra
Một trong những nguyên nhân khiến học sinh ngại làm
văn, thậm chí mỗi khi chuẩn bị đến giờ làm văn là các em cảm
thấy nặng nề như sắp phải “chịu đòn tra tấn” là ở đề văn. Khi
trò phải ngồi cắn bút trước một đề văn vừa dài vừa khó, nặng
về tái hiện kiến thức, không kích thích hứng thú làm bài thì khó
có thể đòi hỏi một bài văn hay. Vì vậy, theo tôi cần đổi mới
cách ra đề, lưu tâm loại đề mở để học sinh được phát huy cá
tính sáng tạo. Dù khó khăn nhưng nên cố gắng ra đề sao cho
vừa lạ vừa quen, giừa chất văn lại có thể phân hóa được đối
tượng và gắn với thực tiễn ở trường, ở lớp. Ví dụ như một số đề
sau:
+ Đề 1: Em nghĩ gì về phong trào chống tiêu cực trong thi
cử và bệnh thành tích trong giáo dục ở trường, lớp em?
+ Đề 2: Dân gian có câu: “Ở hiền gặp lành”. Nhương
nam cao lại cho rằng: “hiền” chỉ kém “hèn” một chữ “i” thôi!
Em suy nghĩ gì về điều này.
+ Đề 3: Trong tác phẩm “Chí Phèo”, nhà văn Nam Cao
đã miêu tả Thị Nở là một người đàn bà vừa xấu, vừa nghèo,
vừa dở hơi lại có dòng giống mả hủi. Vậy mà có người lại cho
rằng Thị là người thông minh, nhân hậu, đẹp nhất làng Vũ Đại.
Suy nghĩ của em về những ý kiến trên.

+ Đề 4: Cùng nói về cái đói, cái nghèo nhưng ở “Vợ
nhặt” của Kim Lân, ta thấy cái đói đã se duyên cho một mối
tình, cái nghèo lại làm nên điều kì diệu. Còn ở “Chiếc thuyền
ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu, ta lại thấy cái nghèo sẽ
sinh ra tội ác và là căn nguyên của thói xấu. Vì sao vậy?
Tôi không dám nghĩ trên đây là những đề văn hay nhưng
phần nào cũng khiến học sinh không chán nản, uể oải, có hứng
thú làm bài và bộc lộ cá tính, năng lực đọc hiểu của bản thân.
b. Trả bài:
Để trả được bài cho học sinh đúng thời hạn quy định và
tiết trả bài có chất lượng, giáo viên cần tích cực chấm bài. Công
việc chấm bài và trả bài là một việc làm thường xuyên của
người giáo viên. Dựa vào kết quả bài làm được định lượng
bằng điểm số, giáo viên có thể đánh giá được năng lực, tri thức
11
và ý thức học tập của học sinh, qua đó phần nào tự đánh giá
công việc giảng dạy của mình và có những điều chỉnh thích hợp
nhằm nâng cao chất lượng dạy, học. Vì vậy để giờ trả bài có tác
dụng thúc đẩy sự cố gắng vươn lên của học sinh, tôi đặc biệt
qua tâm chú ý đến một số công việc sau:
+ Chấm bài: Giáo viên phải có sự đầu tư về thời gian và
trí lực. Chấm bài văn không nên chấm theo kiểu “thủ - vĩ”
nghĩa là chỉ đọc phần mở bài và kết bài để đánh giá và cho
điểm. Tuyệt đối không viết lời phê, chấm điểm theo định kiến,
ấn tượng đối với học sinh. Điều này dễ dẫn đến việc không thấy
được sự tiến bộ của học sinh có học lực yếu, trung bình; sự chủ
quan của học sinh khá giỏi. Đặc biệt, giáo viên không nên tỏ rõ
sự chê bai trên bài làm học sinh. Thay vào đó là những lời nhận
xét đánh giá, chỉ ra chỗ sai cụ thể. Nội dung lời phê phải khái
quát được những ưu, khuyết của bài làm thể hiện trên các

phương diện: nhận thức đề, bố cục và nội dung bài làm, hình
thức bài làm (bao gồm: diễn đạt, dùng từ, trình bày ). Từ đó,
giúp các em thấy được ưu, nhược ở mỗi bài làm. Lời phê phải
gãy gọn, sáng rõ và thể hiện sự nâng niu trân trọng những kết
quả của các em, dù là nhỏ nhất để động viên khích lệ các em.
Không nên dùng những lời nhận xét chung chung, ít bổ ích, chỉ
mang tính xếp loại. Khi cho điểm, cần chú ý đến tương quan
giữa nội dung lời phê và điểm số. Giáo viên chấm bài làm văn
thực chất là đánh giá, là “đo” năng lực nhận thức và vận dụng
kiến thức, kỹ năng các phân môn Làm văn, Văn học, Tiếng
Việt của học sinh để giải quyết vấn đề do đề bài đặt ra. Việc
đánh giá này được thực hiện bằng “bộ công cụ” là đáp án và
biểu điểm cho từng tiêu chí cụ thể trong đáp án mà giáo viên
xây dựng trên cơ sở yêu cầu của đề bài.
Ngoài ra, do tính đặc thù của bài làm văn là mang dấu ấn
cá nhân, thể hiện ở những cảm nhận, phân tích, lý giải, đánh giá
vấn đề, nhất là với những học sinh có năng khiếu, nên giáo viên
cần quan tâm đến độ mở khi xây dựng đáp án, biểu điểm chấm
bài làm văn. Điều đó không chỉ đánh giá đúng năng lực mà còn
kích thích sự tìm tòi, bày tỏ quan điểm cá nhân của học sinh,
tạo hứng thú cho các em khi đối diện với một đề bài mới, lạ.
12
+ Trả bài: Ngoài các bước cơ bản mà giáo viên tốt nghiệp
Đại học sư phạm chuyên ngành Ngữ văn phải thành thạo, tôi
chú trọng khâu sửa lỗi cho trò. Ở khâu này, công nghệ thông tin
thực sự phát huy hiệu quả. Tôi thường chiếu lên màn hình
những đoạn văn của học sinh cho các em phát hiện lỗi, thực
hành ngay tại chỗ, mỗi giờ tập trung vào một số loại lỗi cơ bản
thường gặp. Sau mỗi một kì các em tạm thanh toán nạn “mù
chính tả” về một phương diện nào đó thuộc từ, ngữ, câu hoặc

đoạn văn. Thêm nữa, tâm lí tuổi các em rất thích được thể hiện
mình, cũng rất thích được động viên, khen thưởng, những bài
tốt, những đoạn văn hay được đưa lên làm ví dụ mẫu khiến học
trò cảm thấy môn Văn không còn quá khó, việc học làm văn
không đến nỗi nhọc nhằn. Và tôi thấy đó cũng là thành công
bước đầu.
2.2.4. Nhóm bài tổng kết và ôn tập.
Đây là nhóm bài có nhiệm vụ ôn tập, củng cố lại toàn bộ
kiến thức về làm văn trong một năm học. Để tránh nặng nề, khô
khan và tạo hứng thú cho học trò, tôi thường soạn bộ câu hỏi ôn
tập và tổ chức lớp dưới hình thức trò chơi theo kiểu “Đường lên
đỉnh Ôlimpia”. Lớp sẽ được chia thành các nhóm, cá nhân của
các nhóm sẽ lần lượt lên bắt thăm câu hỏi, mỗi lượt câu hỏi cho
các thành viên phải tương đương nhau về độ khó, dễ. Cuối buổi
tổng kết, tổ nào trả lời đúng được nhiều câu hỏi hơn sẽ được
nhận một phần quà. Quà có khi chỉ rất nhỏ nhưng tuổi trẻ có
tính “ganh đua” nên khiến các thành viên đều hết sức cố gắng,
nỗ lực ở mức cao nhất để không ảnh hưởng đến đồng đội. Với
cách học mà chơi, chơi mà học như vậy, tôi thấy tiết ôn tập sinh
động và hiệu quả hơn.
Với những lớp học theo khối C, D, tôi cho các em ôn tập
theo từng mảng vấn đề và trình bày trước lớp. Sau đó sơ đồ hóa
theo bản đồ tư duy để các em khắc sâu nhớ kĩ.
Dù áp dụng theo cách nào đi nữa cũng nên luôn ưu tiên để
học sinh được làm việc nhiều nhất, nhanh nhất và hiệu quả
nhất.
13
Sau quá trình tìm tòi, áp dụng các cách dạy làm văn mà
các chuyên gia nghiên cứu hướng dẫn và thực tiễn công tác
giảng dạy tôi nhận thấy quá trình dạy học Làm văn cần lưu ý:

- Thứ nhất, về mục đích phải giúp cho học sinh phân loại
được các phương thức biểu đạt, các kiểu văn bản, các dạng văn
bản, các thao tác nghị luận… để từ đó biết suy nghĩ và diễn đạt,
trình bày suy nghĩ trước một vấn đề.
- Thứ hai, về vai trò của thầy: Giáo viên tuyệt đối không
làm thay, chỉ là người tổ chức hướng dẫn, hướng tới người học
và dạy cách thức, hình thành phương pháp học.
- Thứ ba là phải đảm bảo tính dân chủ, tránh áp đặt, ban
phát chân lí một chiều, khuyến khích được trí tuệ tập thể, tinh
thần hợp tác, làm việc theo nhóm.
- Thứ tư là luôn ghi nhớ sáu điểm quan trọng trong
phương pháp dạy học làm văn: Nguyên tắc tích hợp - Ưu tiên
thực hành - dạy cách nghĩ và thể hiện suy nghĩ - tích cực ứng
dụng công nghệ hiện đại - đa dạng hóa các hình thức luyện tập
– linh hoạt và sáng tạo trong các khâu lên lớp.
III. Kết quả.
Trên đây là những việc tôi áp dụng vào thực tiễn quá trình
giảng dạy của mình trong những năm học vừa qua. Về cơ bản,
tôi nhận thấy những tín hiệu đáng mừng. Có thể làm một phép
so sánh như sau:
Trước khi thực hiện đề tài Sau khi thực hiện đề tài
- Tâm lí: Học sinh ít hứng thú
với giờ làm văn, chán nản, coi
thường
- Tâm lí: học sinh háo hức,
thích thú, tâm lí thoải mái đón
đợi.
- Nhận thức: Chưa thấy được
tầm quan trọng của việc học
làm văn, chỉ quan tâm đến

điểm số, không hoặc ít chú ý
đến lời phê.
- Nhận thức: Thấy rõ tầm quan
trọng của việc học làm văn.
Các em thấy trưởng thành, tự
tin hơn sau mỗi bài văn, trân
trọng những nhận xét của giáo
viên và tích cực sửa lỗi của
mình.
- Hành vi: Ngại việc, uể oải, - Hành vi: Không cảm thấy
14
thụ động chờ đợi thầy cô nhận
xét, đánh giá; tham gia các
hoạt động của lớp trong giờ
làm văn một cách chiếu lệ, đối
phó.
ngại làm văn, tích cực tham
gia các hoạt động trong giờ
làm văn, chủ động thể hiện
năng lực cá nhân qua việc
chấm, chữa bài cho bạn, cho
mình.
Số liệu minh chứng: Từ sự chuyển biến tích cực trong
tâm lí, nhận thức, hành vi của học sinh, tôi thấy kết quả giảng
dạy của bản thân và các đồng nghiệp trong tổ bộ môn khá tốt:
- 93% học sinh có điểm tổng kết cuối năm môn Ngữ văn
đạt loại trung bình trở lên.
- Học sinh tham gia thi học sinh giỏi cấp tỉnh đạt chất
lượng cao, góp phần vào kết quả chung của tổ chuyên môn: Tỉ
lệ : Năm học 2011- 2012 đạt 100% trong đó có 2 giải nhất, xếp

thứ 2 toàn tỉnh; năm học 2012-2013 đạt 75 %, xếp thứ 5 toàn
tỉnh.
- Về thi đại học: Có nhiều em thi Đại học đạt điểm khá,
giỏi góp phần vào kết quả chung của bộ môn: Năm học 2011
-2012, học sinh đạt điểm thi môn Văn bình quân 7,12 xếp thứ 2
toàn tỉnh.
C. Kết luận
Với những suy nghĩ và định hướng về cách dạy học Làm
văn như đã trình bày ở trên, tôi nhận thấy việc học văn, làm văn
với các em không quá khó, quá nhọc nhằn. Việc dạy văn, học
văn trở thành niềm vui chiếm lĩnh sự sống chứ không phải gánh
nặng trau dồi tri thức. Điều đó vừa đáp ứng được yêu cầu về
giảm tải, đảm bảo nguyên lí học đi đôi với hành, vừa phát triển
được năng lực cá nhân theo hướng bồi dưỡng trí tuệ cảm xúc và
rèn kĩ năng nói, viết một cách linh hoạt. Mặc dù, phương pháp
dạy học Làm văn vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn và để phát huy
được hiệu quả của phân môn là điều không dễ dàng. Thế nhưng
không có cớ gì để chúng ta dừng chân trên dặm đường thiên lí
giúp các thế hệ tương lai có được bản lĩnh để hiểu biết, khám
phá, sáng tạo, “ diễn tả cái gì mình suy nghĩ, mình cần bày tỏ
15
một cách trung thành, sáng tỏ, chính xác, làm nổi bật điều
mình muốn nói”(Phạm Văn Đồng).
Xác nhận của thủ trưởng đơn
vị
Thanh Hóa, ngày 7 tháng 6 năm
2013
Tôi xin cam đoan đây là
SKKN
của mình viết, không sao

chép
nội dung của người khác.
Bùi Thị Thanh Hoàng Thị Hà
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Ngữ văn Cơ bản, Nâng cao 10, 11, 12
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Ngữ
văn -
NXB Giáo dục Việt Nam- 2010.
3. Phân phối chương trình THPT môn Ngữ văn, Tài liệu chỉ
đạo chuyên môn, thực hiện từ năm học 2011-2012.
4.Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ
Văn THPT
Nguyễn Thúy Hồng - Nguyễn Quang Ninh, Nhà xuất bản Giáo
Dục – 2008
16
5. Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà
trường
Nguyễn Huy Quát – Hoàng Hữu Bội, Nhà xuất bản Giáo Dục –
2001
6. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên THPT chu
kì III
( 2004- 2007) – Môn Ngữ văn - Quyển 1, Bộ GD ĐT - Vụ
giáo dục Trung học Nhà xuất bản Giáo Dục – 2005
17
A. Phần mở
đầu…………………………………………………
1
I. Lí do chọn đề
tài………………………………………………
1

II. Phạm vi, đối tượng và phương pháp nghiên
cứu…………
2
1. Phạm vi đề
tài………………………………………………….
2
2. Đối tượng nghiên
cứu…………………………………………
2
3. Phương pháp nghiên
cứu……………………………………
2
B. Giải quyết vấn
đề……………………………………………
2
I. Thực trạng dạy và học phân môn Làm văn ở
THPT………
2
1. Nội dung chương trình
………………………………………
2
2. Về phía giáo
viên……………………………………………….
3
3. Về phía học
sinh……………………………………………….
3
II. Giải pháp khắc
phục………………………………………….
3

1. Nắm chắc mục đích và nội dung chương trình phân
môn Làm văn ở
THPT………………………………………………
3
1.1. Mục đích của phân môn Làm
văn…………………………
3
1.2. Nội dung chương trình phân môn Làm
văn………………
4
2. Phân loại và cách dạy từng nhóm
bài………………………
6
2.1. Phân
loại…………………………………………………….
6
2.2.Cách dạy phù hợp với từng nhóm 6
18
MỤC LỤC
19
Mục lục

20

×