Tải bản đầy đủ (.ppt) (32 trang)

Chuyên đề Hóa Lí Nâng cao hiệu quả dạy học bằng việc giải thích các tính chất hiện tượng trong đời sống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (763.51 KB, 32 trang )


PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HÒN ĐẤT
TRƯỜNG THCS GIỒNG KÈ
*****
TỔ TỰ NHIÊN
NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC BẰNG
VIỆC GIẢI THÍCH CÁC TÍNH CHẤT, HIỆN
TƯNG TRONG ĐỜI SỐNG.
Năm học: 2012 – 2013

LỜI NÓI ĐẦU

Theo Luật Giáo dục mục tiêu của giáo dục là đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức
khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghóa xã hội . Bên cạnh đó yêu cầu của
phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học
năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng ham mê học tập và
ý chí vươn lên. Như vậy để thực hiện tốt những yêu cầu đã đề
ra trong mục tiêu Giáo dục về công tác giảng dạy của giáo
viên và việc học tập của học sinh và cũng để hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao trong năm học 2012-2013 nói riêng và phổ
cập đúng độ tuổi nói chung. Muốn đạt được điều này thì hoạt
động dạy và học là một vấn đề hết sức quan trọng đối với giáo
viên và học sinh. Với giáo viên bộ môn điều quan trọng nhất
không chỉ là làm sau giúp các em nắm được kiến thức cơ bản
của lớp đang học để làm nền tảng cho các lớp tiếp theo, mà
còn phải đào tạo các học sinh trở thành những người năng động
sáng tạo, biết tiếp thu tri thức khoa học kỹ thuật hiện đại.



Biết vận dụng và thực hiện các giải pháp hợp lí cho những vấn
đề trong cuộc sống xã hội và trong thế giới khách quan là một
vấn đề mà nhiều nhà giáo dục đã và đang quan tâm .

Vấn đề trên không nằm ngoài mục tiêu giáo dục của Đảng và
Nhà nước ta trong giai đoạn lòch sử hiện nay. Đổi mới phương
pháp dạy học được hiểu là tổ chức các hoạt động tích cực cho
người học, kích thích, thúc đẩy, hướng tư duy của người học vào
vấn đề mà học sinh cần phải lónh hội. Từ đó khơi dậy và thúc
đẩy lòng ham muốn, phát triển nhu cầu tìm tòi, khám phá,
chiếm lónh của người học để phát triển, phát huy khả năng tự
học của học sinh. Đối với học sinh bậc THCS cũng vậy, các em
là những đối tượng người học nhạy cảm việc đưa phương pháp
học tập theo hướng đổi mới là cần thiết và thiết thực. Tuy nhiên
để tiếp thu các phương pháp đổi mới Giáo dục trong dạy học thì
không phải học sinh nào cũng có điều kiện làm được và lónh hội
một cách dễ dàng nhất là đối với môn hóa học và môn vật lí là
hai môn học khó có rất nhiều kiến thức có liên quan trong thực
tế đời sống hằng ngày.

Vì vậy đối với giáo viên trong quá trình giảng dạy việc truyền thụ
lí thuyết và thực hành thì chưa đủ mà trong các bài học giáo viên
còn phải đưa ra một số ví dụ có liên quan đến đời sống hằng
ngày, giải thích các hiện tượng trong tự nhiên để giúp học sinh
khắc sâu kiến thức lâu hơn, về nhà các em có thể ứng dụng vào
thực tế ở gia đình, xóa bỏ các hiểu biết sai lệch có hại cho dời
sống như là mê tín dò đoan, hiểu được các ý nghóa khoa học của
các câu ca dao, tục ngữ…
Muốn làm tốt được điều này thì giáo viên phải đầu tư thật nhiều

vào công tác chuyên môn và trong mỗi tiết dạy phải nghiên cứu
kó lưỡng, chuẩn bò thật nhiều các câu hỏi, các kiến thức có liên
quan trong thực tế để góp phần giúp học sinh đạt kết quả tốt hơn
trong năm học 2012-2013.Từ những suy nghó trên tập thể tổ Tự
Nhiên thảo luận, thống nhất và đưa ra một số biện pháp cụ thể và
thích hợp để làm nên chuyên đề “Nâng cao hiệu quả dạy học
bằng việc giải thích các tính chất, hiện tượng trong đời sống”.

Vấn đề nói trên cũng là khó khăn với không ít giáo viên
nhưng ngược lại nếu áp dụng được điều này là góp phần xây
dựng trong bản thân mỗi giáo viên một phong cách và phương
pháp dạy học hiện đại giúp cho học sinh có hướng tư duy mới
trong việc lónh hội kiến thức với mục đích góp phần sao cho
học sinh học dễ hiểu, thiết thực, gần gũi với đời sống và lôi
cuốn học sinh khi học…. Đồng thời cũng giúp giáo viên hoàn
thành nhiệm vụ được giao trong năm học này.
Qua tìm hiểu thêm ở sách báo, học hỏi ở đồng nghiệp, tham
dự các buổi học chuyên môn hè, một số kinh nghiệm của ông
cha ta, internet và đúc kết kinh nghiệm của nhiều năm giảng
dạy trước vì vậy ở năm học này giáo viên tổ Tự Nhiên cùng
nhau làm nên chuyên đề cho năm học 2012-2013 để nhằm
giúp học sinh dễ tiếp thu bài hơn và cuối năm đạt kết quả học
tập được tốt hơn.

PHẦN I: THỰC TRẠNG
Qua nhiều năm giảng dạy thực tế cho thấy:
- Môn hoá học và vật lí trong trường phổ thông là một trong
những môn học khó, đặc biệt đối với môn Hóa học các em mới
vừa làm quen ở năm lớp 8 nên còn mới mẽ đốùi với học sinh do
đó nếu không có những bài giảng và phương pháp phù hợp với

thế hệ học trò dễ làm cho học sinh thụ động trong việc tiếp thu
bài mới.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đúng mức đối tượng giáo dục:
Chưa đặt ra cho mình nhiệm vụ và trách nhiệm nghiên cứu,
hiện tượng dùng đồng loạt cùng một cách dạy, một bày giảng
cho nhiều lớp, nhiều thế hệ học trò là không ít. Do phương
pháp ít có tiến bộ mà người giáo viên đã trở thành người cảm
nhận, truyền thụ tri thức một chiều. Giáo viên nên là người
hướng dẫn học sinh chủ động trong quá trình lónh hội tri thức.

-Theo sách giáo khoa hiện hành thì để dễ dàng tiếp thu bài
mới, nhanh chóng lónh hội được tri thức thì người học phải biết
tự tìm tòi, tự khám phá, có như thế thì khi vào lớp mới nhanh
chóng tiếp thu và hiểu bài một cách sâu sắc được. Tuy nhiên,
phần lớn học sinh hiện nay đều không nhận thức được điều đó.
Học sinh chỉ đợi đến khi lên lớp, nghe giáo viên giảng bài rồi
ghi vào những nội dung đã học vì vậy giáo viên cần phải có
kiến thức liên hệ thực tế để giúp học sinh nhớ bài lâu hơn.
- Do gia đình các em quá khó khăn nên một số em học sinh
không có đầy đủ điều kiện học tập như thiếu dụng cụ học tập,
sách tham khảo, thông tin internet,

PHẦN II : GIẢI PHÁP
Từ thực tiễn dạy học, tôi đã thấy rằng: “Nâng cao hiệu quả dạy
học môn lí- hóa bằng việc giải thích các tính chất, hiện tượng
trong đời sống.” sẽ tạo hứng thú, khơi dậy niềm đam mê; học
sinh hiểu được vai trò và ý nghóa thực tiễn trong môn học. Để
thực hiện được, người giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài giảng,
xác đònh được kiến thức trọng tâm, tìm hiểu, tham khảo các vấn
đề thực tế liên quan phù hợp với từng bài học, đôi lúc cần quan

tâm đến tính cách sở thích của đối tượng tiếp thu, hình thành
giáo án theo hướng phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh, phải mang tính hợp lý và hài hoà; đôi lúc có khôi hài
nhưng sâu sắc, vẫn đảm nhiệm được mục đích môn học. Nâng
cao hiệu quả dạy và học bằng việc giải thích các hiện tượng
thực tiễn có liên quan đến bài học” bằng cách:

+ Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống hằng ngày,
thường sau khi đã kết thúc bài học. Cách nêu vấn đề này có
thể tạo cho học sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm
cách giải thích hiện tượng ở nhà hay những lúc bắt gặp hiện
tượng đó, học sinh sẽ suy nghó, ấp ủ câu hỏi vì sao lại có hiện
tượng đó? Tạo tiền đề thuận lợi khi học bài học mới tiếp
theo. - Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày
thường qua các phương trình phản ứng hoá học cụ thể trong
bài học. Cách nêu vấn đề này có thể sẽ mang tính cập nhật,
làm cho học sinh hiểu và thấy được ý nghóa thực tiễn bài học.
Giáo viên có thể giải thích để giải toả tính tò mò của học
sinh. Mặc dù vấn đề được giải thích có tính chất rất phổ
thông.

- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường
thông qua những câu chuyện ngắn có tính chất khôi hài, gây
cười có thể xen vào bất cứ thời gian nào trong suốt tiết học.
Hướng này có thể góp phần tạo không khí học tập thoải
mái.Đó cũng là cách kích thích niềm đam mê học .
-Tiến hành tự làm thí nghiệm qua các hiện tượng thực tiễn
xung quanh đời sống ngày thường ở đòa phương, gia đình … sau
khi đã học bài giảng. Cách nêu vấn đề này có thể làm cho học
sinh căn cứ vào những kiến thức đã học tìm cách giải thích hay

tự tái tạo lại kiến thức qua các thí nghiệm hay những lúc bắt
gặp hiện tượng, tình huống đó trong cuộc sống. Giúp học sinh
phát huy khả năng ứng dụng môn học vào đời sống thực tiễn.
- Nêu hiện tượng thực tiễn xung quanh đời sống ngày thường từ
đó liên hệ với nội dung bài giảng để rút ra những kết luận
mang tính quy luật. Làm cho học sinh không có cảm giác khó
hiểu.

* CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ TỔ CHỨC THỰC HIỆN:
Để tổ chức thực hiện được giáo viên có thể dùng nhiều phương
tiện, nhiều cách như: bằng lời giải thích, hình ảnh, đoạn phim,
có thể tiến hành dạy trong hoàn cảnh dùng máy chiếu hay
không dùng máy chiếu … Điều này cần phụ thuộc vào điều
kiện ở mỗi trường, căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể và phong cách
dạy khác nhau của mỗi giáo viên.
Dưới đây là một số ứng dụng, giải thích các tính chất, hiện
tượng trong đời sống có liên quan đến bài học.
1. Vai trò của Ozon trong đời sống và công nghiệp như thế
nào? Ozon có khả năng “cải tạo” nước thải, có thể khử các
chất độc như: Phenol, hợp chất nông dược, chất trừ cỏ, các hợp
chất hữu cơ gây bệnh … có trong nước thải và Ozon có thể tác
dụng với các ion kim loại (sắt, thiếc, chì, mangan…).

Biến nước thải thành nước sạch vô hại. Trên tầng cao khí
quyển Trái đất, Ozon tồn tại thành một tầng khí quyển riêng,
có khả năng hấp thụ tia tử ngoại phát ra từ mặt trời. Vì các tia
tử ngoại làm cho người, động thực vật bò đột biến gen, gây
bệnh nan y … Gần đây do công nghiệp phát triển, các nhà máy
sinh ra khí thải, động cơ phản lực … thải vào khí quyển một
lượng bụi và khí ô nhiễm, thì Ozon lại góp phần oxi hoá chất

gây ô nhiễm. Cũng chính vì vậy tầng Ozon bò mỏng dần, có
một số nơi tầng Ozon bò thủng và gây ra không ít hiện tượng
như: bảo, lũ lụt, cháy rừng, bệnh nan y … Dựa vào vấn đề trên
ta giáo dục học sinh về bảo vệ môi trường và qua bài học, học
sinh hiểu được tầm quan trọng của Ozon, vừa có ý thức bảo vệ
môi trường và kích thích sự tìm hiểu về vấn đề này

2. Vì sao cồn có thể sát khuẩn?
Cồn là dung dòch Ancol etylic ( C2H5OH) có khả năng thẩm
thấu rất cao, có thể xuyên qua màng tế bào tiến sâu vào trong
gây đông tụ protein làm cho tế bào bò chết (Do protein là cơ
sở sự sống của tế bào). Thực tế chỉ có cồn 75% là có khả
năng sát trùng tốt nhất, vì nếu cồn > 75% thì nồng độ cồn quá
cao làm cho protein bò đông tụ nhiều, làm protein trên bề mặt
vi khuẩn đông cứng hình thành một lớp vỏ cứng ngăn không
cho cồn thấm vào nên vi khuẩn không bò chết. Nếu cồn quá
loãng (< 75%) thì hiệu quả sát trùng kém. Trong y tế, cồn
được sử dụng đại trà khi tiêm, rửa vết thương … nhưng có ít
người quan tâm tại sao lại dùng cồn? Trong khi học, nếu học
sinh được biết sẽ rất tốt cho cuộc sống.

3.Vì sao lại không dùng xăng pha chì nữa?
Xăng pha chì là thêm Tetraetyl chì có tác dụng tiết kiệm 30%
xăng dầu khi sử dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ, chì oxit
bám vào các ống xả, thành xi lanh nên thực tế xăng còn hoà
tan thêm vào Dibrom etan thì chì oxit sẽ bò chuyển thành Chì
bromua (PbBr2), dễ bay hơi, thoát ra khỏi xi lanh, ống xả, thải
vào không khí làm ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Vì chì
sẽ ở trong môi trường khí, tồn tại trong thực vật, động vật nên
khi tiếp xúc với khí thải, động thực vật bò bệnh sẽ làm ảnh

hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ con người. Ngoài ra hơi
Brom bay ra gây nguy hiểm tới đường hô hấp, làm bỏng da.
Hiện nay, nước ta đã nghiêm cấm không sử dụng xăng pha
chì, nhưng không ít một bộ phận học sinh và nhân dân không
hiểu vì sao. Nên thông qua bài học liên quan, giáo viên có thể
làm rõ tại sao.

4.Tại sao phải ăn muối có Iod?
Ăn muối để bổ sung hàm lượng Iod cho cơ thể, trong cơ thể
một người trưởng thành có chứa 20 – 50mg Iod chủ yếu tập
trung tuyến giáp trạng, thiếu Iod trong tuyến này thì cơ thể sẽ
bò một số bệnh: Bướu cổ, nặng hơn là dẫn đến đần độn, phụ nữ
thiếu Iod dẫn đến vô sinh, có biến chứng sau khi sinh… Qua
đây giúp các em tự nhận thấy tầm quan trọng của muối Iod.

5.Vì sao nước biển lại mặn?

Nước biển là một hỗn hợp nhiều muối thành phần chính là Natri
clorua (NaCl) nên có vò mặn.Trong 1m khối nước biển có
khoảng 27kg muối NaCl, 5 kg muối magie clorua, 1 kg muối
canxi sunfat và một khối lượng nhỏ những muối khác.

6.Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vò ngọt?
Cơm chứa một lượng lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước
bọt của người có các enzim. Khi nhai kỹ trộn đều, tuyến nước
bọt làm tăng cơ hội chuyển hoá một lượng tinh bột theo phản
ứng thuỷ phân thành đường mantozơ, glucozơ gây ngọt .Vấn đề
này có thể cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của sự
chuyển hoá tinh bột trong khi ăn. Đó cũng là một hiện tượng tự
nhiên đều cảm nhận được trong các bữa cơm của chúng ta.


7. Vì sao tay một người dính cồn iod cầm bánh mì thì có chấm
xanh trên bánh?

Do cồn iod là hỗn hợp tan của Iod và Ancol etylic (C2H5OH),
Iod gặp tinh bột tạo ra phức màu xanh dương. Điều này cũng có
thể giải thích khi bôi cồn iod lên phía trong quả chuối xanh lại
cũng có hiện tượng tương tự (do trong chuối xanh có tinh bột)
Nhưng nếu là chuối chín thì không thấy hiện tượng này (do
chuối chín chuyển tinh bột thành đường Glucozo (C6H12O6).
Người ta sử dụng tinh bột để nhận biết iod và ngược lại.

7. Hoá chất trong cơ thể của con người như thế nào?
Các nhà khoa học đã tính được rằng:
- Lượng nước trong cơ thể của mỗi người chúng ta chỉ đủ giặt
một chiếc áo sơ mi.
- Lượng Fe đủ để làm một cái đinh 5 phân.
- Lượng đường chỉ đủ cho làm một nữa cái bánh ngọt nhỏ.
- Lượng vôi trong toàn bộ xương của cơ thể đủ để xây một cái
chuồng gà con.
- Lượng mỡ dùng nấu được 7 bánh xà phòng.
- Lượng P đủ để sản xuất 2200 đầu que diêm.
- Lượng S đủ để giết chết 1 con bọ chét.
Đây là tình huống có chút khôi hài nhưng có thể giúp học sinh
nắm được cơ bản thành phần nguyên tố trong cơ thể con người
có thể đưa vào bài giảng về thành phần nguyên tố.

8.Vì sao không nên ăn hoa quả ngay sau bữa ăn?
Trái cây có loại đường đơn là monosaccarit và một số loại axit
sẽ kết hợp với axit trong dạ dày tạo ra Axit tactaric, Axit citric

làm cho dạ dày đầy hơi. Một số loại hoa quả có hàm lượng
Tanin và Pectin cao, chúng sẽ kết hợp với dòch vò, chất xơ và
protein trong thức ăn, dễ tạo thành những hạt rắn, khó tiêu
hóa. Nên ăn hoa quả sau bữa ăn khoảng 1-3 giờ.
9.Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than đá tác dụng với khí O2 trong không khí tạo ra khí
CO2, phản ứng tỏa nhiệt. Nhiệt tỏa ra được tích góp dần dần,
khi đạt đến nhiệt độ cháy của than thì than tự bốc cháy.

10. Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc ong, kiến, nhện có axit hữu cơ tên là axit fomic
(HCOOH). Vôi là chất bazơ nên trung hòa axit làm ta đỡ đau.

11. Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Ban ngày, do có ánh sáng mặt trời nên cây xanh tiến hành quá
trình quang hợp, hấp thụ CO2 và giải phóng khí O2.Nhưng ban
đêm, do không có ánh sáng mặt trời, cây xanh không quang
hợp, chỉ có quá trình hô hấp nên cây hấp thụ khí O2 và thải ra
khí CO2 làm cho phòng thiếu khí O2 và quá nhiều khí CO2.

12.Tại sao khi đánh rơi nhiệt kế thủy ngân thì không được dùng
chổi quét mà nên rắc bột S lên trên?

Thủy ngân (Hg) là kim loại ở dạng lỏng, dễ bay hơi và hơi thủy
ngân là một chất độc. Vì vậy khi làm rơi nhiệt kế thủy ngân nếu
như ta dùng chổi quét thì thủy ngân sẽ bò phân tán nhỏ, làm tăng
quá trình bay hơi và làm cho quá trình thu gom khó khăn hơn. Ta
phải dùng bột S rắc lên những chỗ có thủy ngân, vì S có thể tác
dụng với thủy ngân tạo thành HgS dạng rắn và không bay hơi.
Quá trình thu gom thủy ngân cũng đơn giản hơn.


13.Vì sao khi luộc rau muống nên cho vào trước một ít muối
ăn (NaCl)?
Do nhiệt độ sôi của nước ở áp suất là 100oC, nếu ta thêm NaCl
thì lúc đó làm cho nhiệt độ của nước muối khi sôi (dung dòch
NaCl loãng) là > 100oC. Do nhiệt độ sôi của nước muối cao
hơn của nước nên rau chín nhanh hơn, thời gian luộc rau không
lâu nên rau ít mất vitamin. Vì vậy khi đó rau muống sẽ mềm
hơn và xanh hơn

14 .Tại sao khi nấu, xào thòt, đậu phụ không nên cho muối ăn
(chứa NaCl) vào quá sớm?

Vì trong đậu, thòt chứa protein (protit), vốn có tính keo khi gặp
những chất điện ly mạnh, sẽ bò ngưng tụ thành những “óc đậu”
khi nấu, xào nếu như cho muối ăn vào sớm, gây khó khăn cho
thẩm thấu vào đậu, thòt và bò đông tụ cứng lại không có lợi cho
tiêu hoá…

15.Hàn the là chất gì?
Hàn the có thành phần chính là chất Natri tetraborat (hay là
Borac), ở dạng tinh thể ngậm nước. Tinh thể trong suốt, tan
nhiều trong nước nóng, không tan trong cồn 90o.Trước đây,
người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia cho vào giò lụa,
bánh phở, bánh cuốn, … để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm
thấy dai và giòn. Ngay từ năm 1985, Tổ chức Y tế thế giới đã
cấm dùng hàn the làm chất phụ gia cho thực phẩm vì nó độc,
có thể gây sốc, suy tim, co giật và hôn mê,

16.Vì sao khi cơm khê người ta thường cho vào nồi cơm một

mẩu than củi?

Do than củi xốp có tính hấp phụ, nên hấp phụ được mùi khét
của cơm làm cho cơm đỡ mùi khê.

17. Vì sao rau muống đang xanh, khi vắt chanh vào thì
chuyển sang màu đỏ?
Do trong rau có một số chất hoá học được gọi là chất chỉ thò
màu, trong chanh có 7% axit citric. Vắt chanh vào nước rau
làm thay đổi độ axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. (Axit
làm q tím -> màu đỏ.)

18. Ma trơi là gì? Ma trơi thường gặp ở đâu?

“Ma trơi” chỉ là cái tên gọi mê tín mà thực chất, trong cơ thể
(xương động vật) có chứa một hàm lượng P khi chết phân huỷ
tạo 1 phần thành khí PH3 (Photphin) khi có lẫn một chút khí
P2H4 (Diphotphin), khí PH3 tự bốc cháy ngay trong điều kiện
thường tạo thành khối cầu khí bay trong không khí. Điều trùng
lặp ngẫu nhiên là người ta thường gặp “Ma trơi” ở các nghóa đòa
càng tăng lời đồn có ma. Vấn đề này để giải thích hiện tượng
trong đời sống “Ma trơi”. Tránh tình trạng mê tín dò đoan, làm
cho cuộc sống lành mạnh hơn.

19.Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nước chảy đá mòn”, câu này
mang hàm ý của khoa học hoá học như thế nào?
Trong đá thông thường chủ yếu là CaCO3 nên trong nước sẽ tồn
tại phương trình điện ly các ion. Khi nước chảy sẽ cuốn theo các
ion , hoặc Vì trong nước có lẫn khí CO2 nên sẽ xảy ra phản ứng
hóa học. Khi nước chảy sẽ cuốn Ca(HCO3)2 trôi theo, qua thời

gian đá sẽ bò mòn dần. Hiện tượng này thường thấy ở những
phiến đá ở những dòng chảy đi qua. Nếu không để ý, trong xây
dựng sẽ có ảnh hưởng không ít.

20. Ca dao“Lúa chiêm lấp ló đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Câu này mang hàm ý của khoa học như thế nào?
Câu ca dao nhắc nhở người làm lúa: Vụ chiêm khi lúa đang trổ
đòng đòng mà có trận mưa rào, kèm theo sấm chớp thì sẽ rất tốt
và cho năng suất cao sau này. Do trong không khí có ~ 80% khí
N2 và ~ 20% khí O2, khi có chớp (tia lửa điện) sẽ tạo điều kiện
cho N2 hoạt động: Sau đó khí NO2 sẽ tan vào trong nước mưa.
Nhờ hiện tượng này, hàng năm làm tăng 6 - 7 kg N cho mỗi
mẫu đất.


21. Vì sau sét hay đánh vào vật thể cao chót vót đứng đơn độc?

Vì tầng mây thấp trong các đám mây giông thường mang điện. Loại điện
năng này thường gây cảm ứng cho mặt đất, đồng thời làm cho mặt đất
sản sinh ra loại điện tích khác với tính chất của dòng điện trong tầng
mây thấp. Nghóa là tầng mây thấp nếu tích điện dương thì mặt đất lại
mang điện âm và ngược lại. Mặt đất mang loại điện tích này gọi là “điện
tích cảm ứng”. Loại điện tích cảm ứng này trên một phạm vi nhỏ thường
mang tính chất giống nhau như điện dương (âm). Dòng điện cùng một
tính chất thường bài xích nhau. Kết quả của sự bài xích này khiến cho
điện tích trên mặt đất phân bố lại từ đầu. Lực bài xích này xen theo sự
phân lực của phương hướng mặt đất, ở những nơi mặt đất gồ ghề thì sự
phân lực thường nhỏ hơn ở những vùng mặt đất bằng phẳng, vì thế điện
tích thường chuyển dòch đến những nơi mặt đất gồ ghề gấp khúc. Từ đó

ở những vùng đất này mật độ điện tích nhiều hơn và dày hơn.

Vì vậy những vật thể cao chót vót mang điện tích cảm ứng nhiều hơn
mặt đất, có khả năng hút sóng điện mạnh hơn, nên nó hút tia điện một
cách dễ dàng.

Chính vì vậy khi trời mưa chúng ta không nên đứng trú mưa hoặc đứng
gần dưới những vật thể cao như cột cờ, cây cao, tháp nhọn, cột điện… bởi
vì tia sét rất thích những nơi đó.

22. Tại sao bình thủy giữ được nước nóng lâu dài?
Do bình thủy được cấu tạo là một bình thủy tinh gồm hai lớp: ở
giữa là một lớp chân không để ngăn cản sự dẫn nhiệt.Hai mặt
đối diện của hai lớp thủy tinh được tráng bạc để phản xạ các
tia nhiệt trở lại nước đựng trong bình. Bình được đậy thật kín
để ngăn cản sự truyền nhiệt bằng đối lưu ra bên ngoài nên nó
giữ nóng được lâu.

23. Tại sao vào các lễ, tết của người Khơme người ta thả lồng đèn
bay lên được?

Do lồng đèn được cấu tạo hình trụ, rỗng bên ngoài được dán giấy
kín phần xung quanh và trên cùng, còn phần đáy được quấn vải
nén lại tẩm dầu lửa. Sau đó đốt cho lửa cháy sáng tạo ra khí nóng
bay lên cao (do trọng lượng riêng giảm) phần không khí ở trên
(trong lồng đèn) chưa nóng kòp đi xuống và khí nóng cứ đi lên tạo
dòng đối lưu và khí nóng lớn đẩy lồng đèn bay cao lên.

×