Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
A. MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lý luận
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của dạy nói chung và dạy học Sinh
học nói riêng là tăng cường tính tích cực, khả năng sáng tạo, tự tìm hiểu và
khám phá những kiến thức mới của học sinh. Tính tích cực học tập - về thực
chất là tích cực nhận thức, đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và
có nghị lực cao trong quá trình chiếm lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức
trong hoạt động học tập liên quan trước hết với động cơ học tập. Động cơ đúng
tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu
tố tạo nên tính tích cực. Như vậy, việc cần làm trước hết là tăng cường sự hứng
thú của học sinh trong học tập, từ đó nâng cao tính tự giác. Chỉ có như vậy thì
mới thực hiện được nhiệm vụ dạy học.
2. Cơ sở thực tiễn
Trước tình hình chung hiện nay, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào
sản xuất và đời sống ngày càng được quan tâm và mở rộng. Kinh tế phát
triển, cuộc sống của con người ngày một nâng cao. Do đó, việc trang bị cho
người học những kiến thức cơ bản về kĩ năng sống, sinh hoạt trong gia đình
và thái độ tích cực trong việc xây dựng và bảo vệ môi trường xung quanh là
điều rất cần thiết. Để đạt được mục tiêu đó thì mỗi giáo viên cần phải định
hướng đào tạo và bồi dưỡng cho học sinh ý thức, thái độ tích cực trong
nhiều môn học khác nhau. Môn Sinh học là một trong những môn học có
nhiều ứng dụng trong thực tiễn cuộc sống, kiến thức của môn học này phục
vụ cho nhiều chuyên ngành khác phát triển. Vì vậy, một việc rất cần thiết là
ngay từ cấp cơ sở hệ thống trường THCS, giáo viên phải nghiên cứu khám
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 1
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
phá để nâng cao phương pháp trong một giờ dạy, tạo cho các em có hứng
thú, say mê và yêu thích bộ môn học này.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tôi chọn và nghiên cứu về đề tài “Nâng cao
sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh” trong quá trình dạy môn
sinh học tại trường THCS.
II. Mục đích của đề tài
Đề tài đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao sự hứng thú học tập của
học sinh đối với môn Sinh học, được thực hiện thông qua việc tăng cường sự
hấp dẫn của bộ môn đối với học sinh, thông qua đó hướng đến việc nâng cao
chất lượng bộ môn; cung cấp tư liệu cho giáo viên tham khảo và vận dụng vào
công tác giảng dạy.
III. Đối tượng nghiên cứu
Những biện pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối
với học sinh cấp THCS.
IV. Giới hạn của đề tài
Môn Sinh học cấp THCS chia theo 4 khối lớp, mỗi khối đi sâu nghiên
cứu những mảng kiến thức riêng. Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, tôi xin
tập trung vào những biện pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn trong
chương trình sinh học khối lớp 9.
B. NỘI DUNG
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 2
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
I. Thực trạng nghiên cứu
Sinh học là bộ môn khoa học gắn liền với cuộc sống. Khi tìm hiểu và
nghiên cứu về bộ môn này, học sinh sẽ càng thấy yêu thiên nhiên, đất nước và
con người hơn. Chương trình sinh học THCS gồm nhiều phần kiến thức khác
nhau, với mỗi phần kiến thức đó đều có thể bắt gặp nhiều ví dụ, hình ảnh sinh
động từ thực tế. Điều này muốn nói môn Sinh học có sức hấp dẫn rất lớn đối
với học sinh.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy ở các trường THCS, vị trí của bộ môn
và tình yêu của học sinh đối với bộ môn còn rất hạn chế. Rất dễ thấy thực trạng
học sinh thờ ơ với môn học. Đối với học sinh khối lớp 6, nguyên nhân là do
các em bắt đầu làm quen với phương pháp học tập mới, số lượng môn học tăng
lên nhiều dẫn đến sự kém thích nghi. Đối với những học sinh của các khối lớp
còn lại, sự thờ ơ đến từ quan niệm xem bộ môn này là môn phụ, không giữ vai
trò quan trọng, vì vậy các em không chú ý cũng như không đầu tư nhiều thời
gian để học và tìm hiểu.
Một lí do khác dẫn đến học sinh chưa thích học môn Sinh học xuất phát
từ phía giáo viên. Sự kém dầu tư về giáo án, phương pháp giảng dạy cũng như
chưa tạo ra được môi trường học tập thân thiện càng làm tăng thêm sự nhàm
chán trong mỗi tiết học.
Những lí do trên đã góp phần giải thích cho kết quả chưa cao của bộ
môn, sự thiếu nhiệt tình, thiếu tích cực và tự giác từ phía học sinh trong mỗi
giờ học.
II. Đề xuất giải quyết thực trạng
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 3
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
Để nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh, tôi xin
nêu một số đề xuất sau:
- Nâng cao hơn nữa lòng yêu nghề từ phía người thầy.
- Tạo không khí học tập thoải mái.
- Đa dạng hóa các hoạt động học tập của học sinh.
- Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
- Tăng cường công tác độc lập của học sinh.
- Gắn kiến thức với thực tiễn.
- Dạy học đảm bảo tính vừa sức, chú ý tới đặc điểm cá biệt và tính tập thể trong
quá trình dạy học.
III. Nội dung
1. Nâng cao hơn nữa lòng yêu nghề từ phía người thầy
Trong hoạt động dạy - học, hai nhân tố không thể thiếu đó là giáo viên
và học sinh. Với dạy học tích cực, người giáo viên đóng vai trò tổ chức, hướng
dẫn để học sinh thực hiện các hoạt động học tập khám phá kiến thức. Không
phải là người trực tiếp chỉ ra kiến thức, giáo viên chỉ ra con đường để học sinh
khám phá kiến thức mới.
Có nhiều cách để học sinh tiếp cận với kiến thức mới, nhưng để kiến
thức đến một cách tự nhiên, dễ hiểu và lưu lại trong bộ nhớ lâu nhất đòi hỏi
người giáo viên phải có sự nghiên cứu, suy nghĩ và lựa chọn ra cách thức phù
hợp với đối tượng học sinh của mình. Điều đó chỉ thực hiện được khi giáo viên
phải say sưa với nghề nghiệp, dành tình yêu cho công việc cũng như cho các
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 4
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
em học sinh. Rõ ràng khi có tình yêu với công việc đang làm thì chúng ta sẽ tận
tụy hơn và cống hiến hết mình hơn. Bản thân các em học sinh khi cảm nhận
được tình yêu nghề từ phía người thầy của mình thì các em sẽ có thêm nhiều
động lực và học tập được nhiều điều từ niềm say mê đó.
Như vậy, lòng yêu nghề từ phía người thầy sẽ làm nên sức mạnh tác
động đến tình cảm và thái độ học tập của học sinh. Học sinh từ chỗ thờ ơ với
môn học tiến đến để ý hơn một chút qua việc thầy truyền cảm hứng và tiếp
theo là sự quan tâm rõ rệt. Làm được như vậy là người thầy đã thành công một
nửa trên con đường dẫn học sinh đến với kiến thức.
Làm thế nào để có thể nâng cao lòng yêu nghề? Mỗi người giáo viên khi
đã đặt ra câu hỏi này chắc chắn sẽ có câu trả lời riêng cho chính mình.
2. Tạo không khí học tập thoải mái
Bất kì một công việc nào muốn có kết quả cao đều cần có một môi
trường làm việc thuận lợi. Môi trường đó không đơn thuần là không khí trong
sạch để hít thở, là nguồn ánh sáng phù hợp để nhìn rõ mà còn là sự thân thiện,
hòa đồng trong mối quan hệ với những người xung quanh. Một giờ học quá gò
bó, căng thẳng sẽ khó kích thích được tư duy sáng tạo của học sinh, khiến học
sinh nhanh chóng cảm thấy nhàm chán. Vì vây, người giáo viên cần tạo ra cho
học sinh một không khí học tập thoải mái nhất trong mỗi giờ lên lớp.
Một số cách tạo không khí học tập thoải mái cho học sinh như sau:
2.1. Thay đổi cách kiểm tra bài cũ
Thông thường, phần kiểm tra bài cũ được giáo viên tiến hành ở đầu giờ.
Đây là việc làm theo đúng tiến trình dạy học. Tuy nhiên, sự lặp đi lặp lại cách
làm đó sẽ khiến học sinh nhàm chán, đôi khi gây áp lực, tạo sự căng thẳng cho
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 5
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
học sinh trong suốt tiết học hôm đó. Chúng ta có thể lồng ghép các câu hỏi
kiểm tra kiến thức đã học trong quá trình dạy bài mới ở nhiều bài để làm giảm
bớt đi sự căng thẳng không đáng có.
VD 1: Khi dạy mục III bài 5 - Menđen giải thích kết quả thí nghiệm,
giáo viên có thể lồng ghép câu hỏi kiểm tra bài cũ bằng cách:
Giáo viên yêu cầu học sinh cho biết: cây đậu Hà Lan hạt vàng, trơn có
thể có những kiểu gen nào? Làm cách nào để có thể xác định kiểu gen của các
cây đậu có hạt vàng, trơn đó? → kiểm tra kiến thức của học sinh về phép lai
phân tích.
VD 2: Khi dạy mục I bài 17 - ARN, sau khi tìm hiểu xong về cấu trúc
hóa học của phân tử ARN, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời câu hỏi: Em hãy
so sánh cấu trúc hóa học của ARN với cấu trúc hóa học của ADN. → kiểm tra
kiến thức của học sinh về cấu trúc hóa học của phân tử ADN.
2.2. Thay đổi cách đặt vấn đề vào bài mới
Đặt vấn đề vào bài cũng giống như khi chúng ta viết phần mở bài cho
một bài văn. Bài văn có gây ấn tượng, tạo hứng thú cho người đọc hay không
phụ thuộc rất nhiều vào phần mở bài. Nếu chúng ta được đọc những câu mở
đầu chứa đựng nhiều âm thanh, hình ảnh hay gợi nhiều vấn đề khác nhau, kích
thích sự tò mò tìm hiểu xem những phần tiếp theo sẽ có điều gì mới thì chắc
chắn sự theo dõi sẽ không chỉ dừng lại ở đó. Trong một giờ học cũng vậy, nếu
ngay từ phần đặt vấn đề giáo viên đã tạo ra sự hứng thú, vui tươi cho học sinh
thì chắc chắn trong những phút tiếp theo các em sẽ hào hứng, phấn chấn và
nhiệt tình hơn với những hoạt động do giáo viên tổ chức.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 6
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
Giáo viên thường đơn giản hóa phần đặt và dẫn dắt vấn đề để vào bài
mới bằng cách nêu tên bài học hôm nay là gì, tiết học hôm nay là tiết bao
nhiêu. Rõ ràng là tên bài học cũng như số tiết chưa đủ nếu không muốn nói là
hầu như không có tính hình ảnh, nhạc điệu hay kích thích trí tò mò của học
sinh. Vậy nên khó trách việc “đầu không xuôi nên đuôi không lọt”.
Một số cách để có phần dẫn dắt vào bài mới hấp dẫn hơn:
- Mở đầu bằng một câu hát.
VD: Khi mở đầu cho bài 1 - Menđen và Di truyền học, giáo viên có thể
bắt nhịp cho cả lớp hát bài “Cả nhà thương nhau”: “Ba thương con vì con
giống mẹ, mẹ thương con vì con giống ba. Cả nhà ta cùng thương yêu nhau. Xa
là nhớ, gần nhau là cười.” Tại sao con lại mang những đặc điểm giống cha và
giống mẹ? Di truyền học gọi tên hiện tượng đó là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu
qua nội dung của bài hôm nay.
- Mở đầu bằng một câu truyện vui.
VD: Mở đầu cho bài 2 - Lai một cặp tính trạng, giáo viên yêu cầu học
sinh cho biết: Da trắng và da đen có phải là có phải là một cặp tính trạng tương
phản không? HS trả lời.
GV kể cho học sinh nghe câu truyện vui:
Hai chàng sinh viên nói chuyện với nhau.
Sinh viên 1: “Đố cậu, Bao Công mà lấy Bạch Tuyết thì sinh ra con có da
như thế nào?”
Cậu sinh viên 2 suy nghĩ. (Giáo viên cho học sinh đoán về câu trả lời của
cậu sinh viên 2).
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 7
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
Cậu sinh viên 2 gãi đầu gãi tai: “Tớ chịu thôi! Khó quá!”
Cậu sinh viên 1 cười: “Dễ thế mà cậu không biết, nếu Bao Công mà lấy
Bạch Tuyết thì sẽ sinh ra Lọ Lem.” → Giáo viên dẫn dắt tiếp: về mặt di truyền
học thì câu trả lời của cậu sinh viên 1 có đúng không? Chúng ta cùng tìm hiểu
qua nội dung bài hôm nay.
- Mở đầu bằng một đoạn phim hay hình ảnh.
VD: Khi dẫn dắt vào bài mới bài 44 - Ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sinh
vật, giáo viên có thể cho học sinh theo dõi một đoạn phim ngắn về thế giới
động vật trong tự nhiên. → GV yêu cầu học sinh kể tên những sinh vật quan
sát được qua đoạn phim, dẫn dắt vào bài: các sinh vật trong đoạn phim trên
được gắn bó với nhau bằng nhiều mối quan hệ. Tên gọi của các mối quan hệ đó
là gì? Chúng ta cùng tìm hiểu nội dung bài hôm nay.
Một điều cần lưu ý là: đặt vấn đề hay góp phần là tăng tính hấp dẫn cho
bài học, tạo hứng thú cũng như làm cho không khí học tập trở nên thoải mái
hơn. Tuy nhiên, giáo viên cũng cần chú ý đến thời gian cho phần đặt vấn đề để
tránh ảnh hưởng đến thời lượng dành cho bài mới. Cần lựa chọn cách đặt vấn
đề cho phù hợp với nội dung của từng bài, sát với những yêu cầu cần giải quyết
trong mỗi bài học để những điều đã đưa ra sẽ liên quan đến kiến thức một phần
hoặc xuyên suốt nội dung bài học.
2.3. Người giáo viên cần thay đổi trong cách giao tiếp với học sinh
Trong hoạt động dạy học luôn đòi hỏi sự tương tác qua lại thường xuyên
giữ thầy và trò, giữa trò với trò. Ở đây, chúng ta nhấn mạnh vào quá trình
tương tác giữa thầy với trò. Về phương diện chung, quá trình giao tiếp sẽ mang
lại hiệu quả cao khi những đối tượng giao tiếp có sự tôn trọng, quan tâm và
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 8
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
chia sẻ với nhau một cách chân thành nhất. Một trong những điều kiện để học
sinh có thể học sâu là các em phải có cảm giác thoải mái. Và một trong những
yếu tố giúp mang lại cảm giác thoải mái cho các em là khi các em cảm thấy
mình được tôn trọng. Hơn ai hết, người giáo viên phải nhận thức được tầm
quan trọng của vấn đề trên đối với công tác giáo dục. Khi cảm thấy mình được
tôn trọng có nghĩa là các em sẽ thêm phần tự tin vào bản thân mình, sẽ đáp lại
bằng thái độ tôn trọng, yêu quý đối với thầy cô, nhờ đó mà cũng sẽ yêu thích
hơn bộ môn những thầy cô giáo đó đang giảng dạy.
Nói đến giao tiếp giữa những người làm công tác giáo dục và được giáo
dục trong nhà trường nhằm giải quyết các tình huống sư phạm nảy sinh trong
hoạt động giáo dục và giáo dưỡng là đang đề cập đến ứng xử sư phạm. Hoạt
động ứng xử có được là nhờ ở sự xuất hiện những tình huống trong hoạt động
giáo dục. Giao tiếp sư phạm và ứng xử sư phạm đều nhằm đạt tới mục đích nào
đó về giáo dục, song cái khác trong ứng xử sư phạm chính là thái độ mang màu
sắc cá nhân và thủ thuật biểu hiện thái độ đó qua từng cử chỉ, lời nói, sắc mặt,
… của các chủ thể tham gia ứng xử.
Trong quá trình giao tiếp với học sinh, người giáo viên cần có thái độ
nhẹ nhàng, vui vẻ, tạo cho học sinh cảm giác được yêu thương nhưng khi cần
vẫn phải nghiêm khắc để học sinh hiểu được giới hạn của sự thoải mái. Đối với
những tình huống sư phạm khó, giáo viên rất cần giữ bình tĩnh để tránh những
ứng xử nóng vội làm phá vỡ sự thân thiện, không khí thoải mái đã được xây
dựng trong suốt giờ học, đồng thời không được để học sinh cảm thấy mình bị
xúc phạm hoặc thiếu tôn trọng, nếu điều này xảy ra thì sẽ cần một thời gian rất
dài để học sinh có thể lấy lại được sự tin tưởng, tình yêu đối với người thầy.
Như K.D.Usinxki đã từng viết: “Trong nhà trường cần thiết phải có sự nghiêm
khắc và vui vẻ nhưng không nên biến tất cả mọi việc thành trò đùa. Mềm mỏng
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 9
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
phải nghiêm túc, danh dự cần có sự theo dõi, lòng nhân từ không được yếu
đuối, sự quy củ không được cầu kỳ. Điều cơ bản là hoạt động của lí trí phải
được thường xuyên”.
Để có thể làm chủ và xử lí tốt các tình huống sư phạm xảy ra trên lớp
học, để có được quá trình giao tiếp mang lại hiệu quả đòi hỏi người giáo viên
phải không ngừng học tập, rèn luyện bản thân về mọi mặt. Chỉ có như vậy thì
người giáo viên mới có đủ bản lĩnh và kinh nghiệm để giải quyết tốt các tình
huống sư phạm cũng như chiếm được sự tin yêu từ phía học trò.
3. Đa dạng hóa các hoạt động học tập của học sinh
Quá trình dạy học gồm một chuỗi dài những hoạt động nối tiếp nhau,
trong mỗi hoạt động học sinh phải thực hiện những nhiệm vụ riêng biệt để đạt
được mục tiêu nhất định nào đó. Thử hình dung nếu tất cả các hoạt động đều
được diễn ra theo cùng một cách, tại cùng một địa điểm với những phương tiện
giống nhau thì liệu có mang lại sự thích thú cho học sinh, có khơi dậy được tư
duy sáng tạo và tính tích cực của học sinh không?
Một trong năm yếu tố thúc đẩy dạy và học tích cực là mức độ và sự đa
dạng các hoạt động học tập của học sinh. Như vậy, sự đa dạng các hoạt động
học tập là một động lực thúc đẩy hứng thú, lòng nhiệt tình từ phía người học.
Dưới đây là một số lưu ý và ví dụ cụ thể khi thiết kế các hoạt động học tập
nhằm tăng tính hấp dẫn cho bài dạy.
3.1. Đổi mới khâu soạn bài và thiết kế các hoạt động dạy học
Giáo án của giáo viên giống như bức tranh thu nhỏ về lớp học cùng các
hoạt động diễn ra trong giờ học đó được sắp xếp theo ý tưởng của giáo viên.
Ngay từ khâu soạn bài, giáo viên cần phải tư duy để thiết kế những hoạt động
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 10
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
của thầy - của trò sao cho phù hợp nhất với mỗi mục tiêu cần đạt được của bài
học. Thiết kế trên bài soạn càng chi tiết bao nhiêu thì sẽ càng sát với những
diễn biến thực trên thực tế lớp học bấy nhiêu, nhờ đó giáo viên càng thêm chủ
động và tự tin.
Trước hết, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung của bài học trong SGK,
kết hợp nghiên cứu những tài liệu tham khảo khác như sách giáo viên, sách
thiết kế bài giảng, sách chuyên ngành,… để chỉ ra được mục tiêu chính là
những yêu cầu về kiến thức, kĩ năng và thái độ cần hướng học sinh tìm hiểu và
đạt được. Đây là công việc rất quan trọng, việc thiết kế các hoạt động sau này
phụ thuộc vào những mục tiêu đang được hướng đến để có cách khai thác phù
hợp.
Tiếp theo, giáo viên xác định số lượng hoạt động, hình thức tổ chức và
nội dung các hoạt động nhằm đạt được các mục tiêu ở trên. Việc thay đổi đa
dạng các hoạt động học tập của học sinh là cần thiết để góp phần tạo ra sự
hứng thú, tránh nhàm chán đơn điệu. Tuy nhiên, đa dạng hóa không có nghĩa là
trong bài soạn nào cũng tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh hoặc nội dung
nào cũng đem ra thảo luận. Với mỗi yêu cầu cần đạt được trong mỗi mục, giáo
viên có thể đưa ra những hướng thiết kế hoạt động khác nhau. Tuy nhiên, để
hướng đến sự thích thú, say mê của học sinh với mỗi hoạt động đó thì giáo viên
cần lựa chọn cách tổ chức phù hợp nhất, làm sao để học sinh phát huy tối đa
khả năng và hiểu biết của bản thân, đồng thời có sự liên kết chặt chẽ với tập
thể.
Trong quá trình thiết kế, giáo viên nên có sẵn những dự kiến và phương
án giải quyết cho những tình huống không theo ý muốn có thể xảy ra để có thể
chủ động điều chỉnh nhằm tránh sự lúng túng, kéo dài thời gian, thậm chí là
không đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 11
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
3.2. Chuẩn bị các đồ dùng dạy học chu đáo
Các đồ dùng dạy học là kênh quan trọng để học sinh khai thác, phát hiện
kiến thức mới hoặc củng cố kiến thức đã học. Trong quá trình tổ chức các hoạt
động dạy học, giáo viên không thể bỏ qua vai trò của các đồ dùng, phương tiện
dạy học. Việc lựa chọn được những đồ dùng phù hợp và có chất lượng không
chỉ làm tăng hiệu quả của việc khai thác, phát hiện kiến thức mà còn tạo ra sự
thích thú cho học sinh. Đặc biệt, bộ môn Sinh học có rất nhiều vấn đề gắn với
thực tiễn, vậy nên các phương tiện trực quan sinh động là rất cần thiết và có ý
nghĩa lớn.
Ngay từ khâu soạn bài, giáo viên đã phải xây dựng kèm theo đó là danh
sách các đồ dùng dạy học có liên quan. Từ danh sách này, giáo viên phải kiểm
tra trên thực tế tại các phòng đồ dùng xem các đồ dùng đó có đủ để đáp ứng về
số lượng và chất lượng hay không, nếu không thì phương án giải quyết là gì.
Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho học sinh chuẩn bị
những đồ dùng nhất định. Khi được tự chuẩn bị, học sinh sẽ phải nghiên cứu
tài liệu để hiểu về vấn đề được giao tức là các em đã được học tập thêm một
lần nữa.
Giáo viên cũng cần dành thời gian để tìm hiểu kĩ về các đồ dùng dạy học
nhằm xác định cách thức sử dụng, hướng khai thác kiến thức từ mỗi đồ dùng
và khai thác được những nội dung gì.
VD 1: Khi sử dụng mô hình cấu trúc không gian của phân tử ADN để
khai thác phát hiện kiến thức mới, giáo viên phải hướng học sinh chỉ ra được
các nội dung về số mạch đơn, cấu trúc phân tử (thẳng hay xoắn), chiều xoắn, số
cặp nu trong mỗi chu kì xoắn, cách liên kết giữa các đơn phân trên mỗi mạch
cũng như trên hai mạch với nhau.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 12
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
VD 2: Khi sử dụng tranh vẽ “Một số dạng đột biến gen” (h21.1 SGK)
để khai thác phát hiện kiến thức mới, giáo viên phải hướng học sinh chỉ ra
được: số cặp nu và trình tự sắp xếp các nu trong đoạn gen a như thế nào? Số
cặp nu và trình tự sắp xếp các nu trong các đoạn gen b, c, d có gì khác so với
đoạn gen a? → Từ đó hướng học sinh đến kết luận về đột biến gen và các dạng
đột biến gen.
3.3. Tổ chức các hoạt động dạy học
Từ thiết kế trên giáo án, giáo viên tiến hành tổ chức các hoạt động dạy
học thực tế. Đây là công việc khó, đòi hỏi giáo viên phải linh hoạt, có kinh
nghiệm để xử lí tốt các tình huống mới phát sinh trong quá trình hoạt động của
học sinh. Nếu tổ chức tốt, học sinh làm việc thuận lợi và có hiệu quả sẽ khiến
các em phấn chấn, thích thú. Ngược lại, nếu tổ chức không tốt, không những
mục tiêu đề ra về kiến thức, kĩ năng không đạt được mà còn làm cho học sinh
có cảm giác chán nản, mệt mỏi.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động, giáo viên cần hạn chế tối đa thời
gian chết và thời gian chờ đợi. Những khoảng thời gian như vậy sẽ là tác nhân
có hại cho tính tích cực, dễ gây mệt mỏi khiến cho không khí trong lớp học
trầm xuống. Giáo viên cần tạo tính liên tục, sự móc nối giữa các hoạt động với
nhau để học sinh không ngừng dòng tư duy.
Tích hợp các hoạt động học mà chơi (các trò chơi giáo dục) và thay đổi
xen kẽ các hoạt động, nhiệm vụ học tập là rất cần thiết. Trong quá trình hoạt
động của học sinh, giáo viên cần đảm bảo có sự hỗ trợ đúng mức để tăng
cường tính tích cực của học sinh. Khi nhu cầu cần hỗ trợ của học sinh nhiều mà
giáo viên lại không quan tâm, học sinh bị bỏ rơi dẫn đến chán nản. Trong
trường hợp này, sự hỗ trợ với mức độ ít của giáo viên sẽ có hiệu quả làm tăng
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 13
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
tính tích cực của học sinh. Nhưng khi nhu cầu hỗ trợ của học sinh ít mà lại
nhận được quá nhiều sự hỗ trợ từ phía giáo viên sẽ khiến các em cảm thấy
nhàm chán, không còn tích cực hoạt động nữa.
Một số cách tổ chức các hoạt động học tập:
- Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Khăn phủ bàn”.
Đây là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập mang tính hợp tác kết hợp giữa
hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm. Kĩ thuật này nhằm kích thích, thúc đẩy
sự tham gia tích cực của học sinh; tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá
nhân học sinh; phát triển mô hình có sự tương tác giữa học sinh với học sinh.
Để tiến hành kĩ thuật này, giáo viên chia học sinh thành nhóm (4
người/nhóm), mỗi người ngồi vào một vị trí đã được sắp xếp. Mỗi nhóm được
nhận một tờ giấy có chia các ô dành cho hoạt động của từng cá nhân, ở giữa là
ô trống dành cho kết quả chung của nhóm sau khi đã thống nhất ý kiến. Giáo
viên đưa ra câu hỏi chung cho mỗi nhóm. Các cá nhân tập trung vào các câu
hỏi được giáo viên giao cho, hoạt động độc lập trong khoảng vài phút, viết đáp
án vào ô của mình. Khi mọi người đều đã xong, cả nhóm bắt đầu chia sẻ và
thảo luận về các câu trả lời. Tiến hành viết những ý kiến chung của cả nhóm
vào ô giữa tấm khăn phủ bàn.
VD: Khi dạy mục III bài 11 - Phát sinh giao tử và thụ tinh, giáo viên có
thể tổ chức hoạt động học tập theo kĩ thuật “Khăn phủ bàn” với câu hỏi cho
mỗi nhóm cũng như mỗi thành viên trong nhóm là: Giảm phân và thụ tinh có ý
nghĩa gì?
- Tổ chức dạy học theo nhóm sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 14
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
Đây là kĩ thuật tổ chức hoạt động học tập hợp tác kết hợp giữa cá nhân,
nhóm và liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích
thích sự tham gia tích cực của học sinh.
Để thiết kế, giáo viên cần lựa chọn nội dung/chủ đề phù hợp, xác định
một nhiệm vụ phức hợp cần giải quyết ở vòng 2 dựa trên các nhiệm vụ khác
nhau đã thực hiện ở vòng 1. Học sinh được chia thành các nhóm, giao nhiệm
vụ cụ thể cho mỗi thành viên trong nhóm.
Trong quá trình tiến hành, ở vòng 1 giáo viên tổ chức cho học sinh hoạt
động theo nhóm 3 hoặc 4 người, mỗi nhóm được giao một nhiệm vụ, đảm bảo
mỗi thành viên trong nhóm đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ
được giao, mỗi thành viên đều trình bày được kết quả câu trả lời của nhóm. Ở
vòng 2, giáo viên hình thành nhóm 3 hoặc 4 người mới là sự kết hợp giữa mỗi
thành viên trong mỗi nhóm trên, các câu trả lời và thông tin của vòng 1 được
các thành viên nhóm mới chia sẻ đầy đủ với nhau. Sau khi chia sẻ xong thông
tin ở vòng 1, nhiệm vụ mới sẽ được giao cho nhóm vừa lập để giải quyết. Các
nhóm mới trình bày, chia sẻ kết quả nhiệm vụ ở vòng 2.
VD: Khi dạy mục II bài 19 - Mối quan hệ giữa gen và tính trạng, giáo
viên có thể tổ chức hoạt động của học sinh sử dụng kĩ thuật “Các mảnh ghép”.
Giáo viên chia lớp thành các nhóm, các nhóm được phân công thực hiện một
trong ba nhiệm vụ ở vòng 1 là:
Nhiệm vụ 1: Nêu bản chất của mối quan hệ gen → mARN.
Nhiệm vụ 2: Nêu bản chất của mối quan hệ mARN → protein.
Nhiệm vụ 3: Nêu bản chất của mối quan hệ protein → tính trạng.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 15
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
Sau khi các nhóm đã hoàn thành nhiệm vụ vòng 1 và tiến hành trao đổi
các thành viên, giáo viên nêu nhiệm vụ của vòng 2: Nêu bản chất của mối quan
hệ gen → mARN → protein → tính trạng. Các thành viên của nhóm mới sẽ
giải quyết nhiệm vụ của vòng 2.
- Tổ chức dạy học theo nhóm có sử dụng phiếu học tập.
Ngoài những kĩ thuật dạy học trên, giáo viên còn có thể tổ chức dạy học
theo phiếu học tập. Với cách tổ chức này, giáo viên cần nghiên cứu kĩ nội dung
của bài để chọn ra những phần phù hợp, thiết kế các bảng biểu hoặc đưa ra
những câu hỏi, bài tập với định hướng kèm theo để học sinh thảo luận nhóm và
hoàn thành
Như vậy, có nhiều cách để giáo viên có thể tổ chức các hoạt động học
tập nhằm phát hiện, tìm tòi kiến thức mới. Điều quan trọng là thiết kế và tổ
chức như thế nào để mọi thành viên đều phát huy được năng lực cá nhân cũng
như biết cách phối hợp với tập thể nhằm tăng cường sự liên kết và khả năng
thu nhận, tích lũy kiến thức.
4. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học.
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là vấn đề được đề cập
nhiều trong những năm gần đây. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông
tin đã có những đóng góp to lớn cho đời sống xã hội nói chung cũng như giáo
dục nói riêng.
Không thể phủ nhận những mặt tích cực của công nghệ thông tin khi
giúp cho công việc soạn giảng của giáo viên có sự thay đổi theo hướng tích cực
hơn. Mặt khác, khi được hỗ trợ bởi công nghệ thông tin thì khả năng truyền tải
ý tưởng của giáo viên cũng dễ dàng và phong phú hơn. Những bài giảng khi
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 16
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
được thiết kế trên máy sẽ có nhiều điều kiện để thay đổi cho hợp lí theo ý
tưởng của tác giả, có nhiều phương tiện phụ trợ giúp bài giảng trở nên sinh
động và hấp dẫn hơn với học sinh.
Một điều nữa cũng nói lên lợi ích của việc sử dụng công nghệ thông tin
trong dạy học là giúp người giáo viên dễ chia sẻ với nhau những kinh nghiệm
giảng dạy của mình. Những bài giảng hay, những vấn đề mới có thể được trao
đổi giữa nhiều người với nhau trong một thời gian ngắn, qua đó bản thân mỗi
giáo viên lại tiếp thu thêm những điều bổ ích cho chính mình.
Tuy nhiên, cách thức sử dụng và khai thác những lợi ích từ công nghệ
thông tin phục vụ cho giảng dạy của giáo viên cũng cần được nghiên cứu kĩ.
Có thể giải thích điều này là do còn một bộ phận giáo viên chưa được tiếp cận
nhiều và chưa có kĩ năng để sử dụng thành thạo các phần mềm hỗ trợ cho công
tác giảng dạy, vậy nên trong quá trình dạy học còn gặp rất nhiều khó khăn, lúng
túng. Mặt khác, không phải với bất kì nội dung kiến thức nào thì việc sử dụng
công nghệ thông tin cũng chiếm ưu thế.
Giáo viên có thể khai thác sử dụng công nghệ thông tin để dạy toàn bộ
nội dung của một bài hoặc nội dung một phần nào đó trong bài mới. Các tranh,
ảnh, băng hình, bảng biểu,… được chiếu lên qua máy chiếu sẽ thay thế cho hệ
thống tranh, ảnh, bảng phụ ngoài thực tế và mức độ đa dạng sẽ được tăng lên
rất nhiều. Hệ thống câu hỏi, gợi ý khi được chiếu lên trên màn hình sẽ rõ ràng
hơn, dễ theo dõi hơn so với khi giáo viên chỉ dùng cách nói.
Để có thể sử dụng hiệu quả công nghệ thông tin trong dạy học, giáo viên
cần phải đầu tư nhiều thời gian để học tập, nghiên cứu cho thành thạo cách
thiết kế bài giảng, cách khai thác các ứng dụng khác. Đồng thời, giáo viên cần
nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy để thiết kế những hoạt động dạy học phù hợp,
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 17
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
có kế hoạch sắp xếp và khai thác hợp lí các tranh, ảnh, mô hình, băng hình,…
sưu tầm được theo trật tự nhất định phù hợp với nội dung kiến thức từng phần.
Bên cạnh việc hướng dẫn để học sinh khám phá, phát hiện kiến thức mới, giáo
viên cũng cần tạo cho học sinh làm quen dần với cách thức lưu giữ lại thông tin
trong vở để tiện theo dõi về sau.
VD: Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy mục I bài 16 - ADN và
bản chất của gen.
Giáo viên giới thiệu: ADN có một đặc tính quan trọng là tự nhân đôi
(sao chép) đúng mẫu ban đầu. Quá trình tự nhân đôi của ADN diễn ra như thế
nào? Chúng ta sẽ cùng tìm hiểu ngay sau đây.
Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, chiếu nội dung của phiếu học tập lên
màn hình để nêu yêu cầu và hướng dẫn học sinh hoàn thành.
Phiếu học tập số 1
Nhóm: - Thời gian: 8’
Hãy quan sát đoạn băng sau kết hợp nghiên cứu thông tin SGK mục I để
hoàn thành nội dung của bảng dưới đây về quá trình tự nhân đôi của ADN.
Đặc điểm Nội dung
1. Nơi xảy ra
2. Phạm vi xảy ra
3. Diễn biến
4. Kết quả
5. Các nguyên tắc
tự nhân đôi
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 18
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
GV chiếu đoạn băng hình về vị trí của ADN trong tế bào cũng như diễn
biến của quá trình tự nhân đôi ADN để các nhóm quan sát, sau đó cho hình ảnh
chạy tự động để học sinh thảo luận nhóm và hoàn thành bảng.
Kết thúc thời gian hoạt động nhóm, giáo viên gọi đại diện 1 - 2 nhóm lên
báo cáo, giáo viên chiếu kèm theo nội dung phiếu học tập của các nhóm. Các
nhóm còn lại bổ sung ý kiến.
Giáo viên chiếu nội dung hoàn chỉnh của phiếu học tập để học sinh so
sánh, tự hoàn thiện vào vở. Giáo viên có thể sử dụng lại đoạn băng để phân tích
rõ hơn.
5. Tăng cường công tác độc lập của học sinh
Công tác độc lập của học sinh được thể hiện ở việc các em tự nghiên cứu
tài liệu, tự tìm hiểu các vấn đề liên quan đến nội dung bài học trong thực tế, tự
tư duy suy nghĩ để tìm ra câu trả lời cho một vấn đề nào đó. Làm được như vậy
là bản thân học sinh đã tự xây dựng cho mình thái độ và phong cách học tập
tích cực.
Với công tác độc lập của học sinh, khi được giao nhiệm vụ vừa sức hoặc
nếu tự học sinh làm việc theo hứng thú, say mê mà kết quả thu được tốt thì học
sinh sẽ rất phấn chấn và làm việc ngày càng nhiệt tình hơn. Từ sự độc lập suy
nghĩ, tích lũy kiến thức cho bản thân sẽ giúp học sinh tự tin hơn trong các hoạt
động tập thể, rộng hơn là tự tin hơn trước các vấn đề khác nhau của cuộc sống,
tránh sự dựa dẫm phụ thuộc vào người khác.
Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh thực hiện công tác độc lập qua
giao nhiệm vụ về nhà tìm hiểu, chuẩn bị một nội dung nào đó. Giáo viên cũng
có thể cho học sinh thực hiện công tác độc lập ngay tại lớp như tự nghiên cứu
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 19
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
mục nào đó trong SGK, tự quan sát một hình vẽ, một đoạn phim,… để tìm ra
câu trả lời cho một câu hỏi. Khi giao nhiệm vụ cho học sinh, giáo viên cần chú
ý đến tính vừa sức với từng đối tượng để tạo ra cho học sinh sự hứng thú học
tập.
VD: Khi dạy bài 42 - Ảnh hưởng của ánh sáng lên đời sống sinh vật,
trước đó giáo viên có thể giao nhiệm vụ cho từng học sinh về nhà tìm hiểu
những môi trường sống có chế độ chiếu sáng khác nhau và thu thập mẫu vật về
một số loài cây sống trong những môi trường khác nhau đó.
Hoặc trước đó vài tuần, giáo viên có thể hướng dẫn để học sinh độc lập
gieo hạt cây rau cho cây sinh trưởng, phát triển rồi đặt vào trong một hộp tối có
khoét một lỗ nhỏ để quay về phía có ánh sáng, nhằm theo dõi tính hướng sáng
của ngọn cây.
6. Gắn kiến thức với thực tiễn
Sinh học là một bộ môn rất gần gũi với thực tiễn cuộc sống, vì vậy sẽ là
thiếu sót nếu giáo viên không biết khai thác lợi thế này vào trong hoạt động
dạy học nhằm tăng sức hấp dẫn đối với học sinh. Sự gần gũi của kiến thức lí
thuyết với thực tế giúp học sinh dễ dàng kiểm chứng, liên hệ đã trở thành một
trong những yếu tố thúc đẩy tính tích cực của học sinh. Một khi kiến thức được
kiểm chứng sẽ bồi đắp thêm lòng tin của học sinh đối với bộ môn, đối với khoa
học.
Dạy học Sinh học không chỉ hướng học sinh đến việc khám phá, phát
hiện kiến thức về thế giới quanh ta mà còn hướng đến giáo dục con người biết
trân trọng, bảo vệ thiên nhiên, môi trường xung quanh mình. Gắn kiến thức
với chính những gì có thực trong cuộc sống là một công việc quan trọng để mỗi
cá nhân nhận thức được vai trò của bản thân với cộng đồng, với thế giới tự
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 20
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
nhiên cũng như những tác động ngược lại của các yếu tố đó đến bản thân mỗi
người.
Trong quá trình dạy học, ngay từ khâu soạn bài, giáo viên phải luôn đặt
cho mình câu hỏi: Mỗi nội dung kiến thức có trong bài được gắn với những
vấn đề nào trong cuộc sống? Làm thế nào để học sinh nhận thấy sự liên quan
đó? Làm thế nào để giáo dục học sinh kĩ năng, thái độ sống đúng đắn thông
qua mỗi vấn đề? Với bài dạy cụ thể trên lớp, từ những định hướng nói trên,
giáo viên tìm cách để cho học sinh kết nối kiến thức vừa tìm hiểu với chính
thực tiễn cuộc sống, với những gì diễn ra xung quanh có liên quan, nhờ đó một
lần nữa khắc sâu kiến thức hoặc khai thác những khía cạnh khác rộng hơn, sâu
hơn của vấn đề.
VD: Khi dạy bài 54 - Ô nhiễm môi trường, giáo viên yêu cầu học sinh
liên hệ và đánh giá ngay tình hình môi trường ở địa phương xem có ô nhiễm
hay không, nếu có thì ở mức độ nào, nguyên nhân gây ra tình trạng đó là do
đâu và bản thân học sinh tự suy nghĩ về hành động của mình trong thời gian tới
nhằm bảo vệ môi trường.
7. Dạy học vừa sức, chú ý tới đặc điểm cá biệt và tính tập thể trong quá
trình dạy học
Dạy học vừa sức có nghĩa là trong dạy học phải tạo nên khó khăn vừa
sức, những yêu cầu và nhiệm vụ học tập đề ra phải tương ứng với giới hạn cao
nhất của vùng phát triển trí tuệ gần nhất. Dạy học vừa sức không có nghĩa là
học sinh học đến đâu thì dạy đến đó, mà bao giờ cũng đề ra những khó khăn và
dưới sự chỉ đạo của người giáo viên, người học bằng sự nỗ lực của mình cũng
đều khắc phục được. Dạy học như vậy mới đảm bảo đi trước sự phát triển, thúc
đẩy sự phát triển của học sinh.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 21
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
Sự khó khăn vừa sức với người học khác với sự quá tải về trí lực và thể
lực. Sự quá tải đó sẽ làm yếu đi sự nỗ lực ý chí, khả năng làm việc sẽ bị hạ thấp
rõ rệt và làm cho học sinh sớm mệt mỏi.
Tính vừa sức đòi hỏi phải phù hợp với đặc điểm lứa tuổi. Mỗi độ tuổi
gắn với sự trưởng thành của những cơ quan trong cơ thể và những chức năng
của các cơ quan đó, cũng như sự tích lũy những kinh nghiệm về mặt nhận thức
và mặt xã hội, với loại hoạt động chủ đạo của lứa tuổi đó. Lứa tuổi thay đổi thì
nhu cầu trí tuệ và hứng thú nhận thức của trẻ cũng thay đổi.
Trong cùng một lứa tuổi, học sinh cũng có sự khác nhau về hoạt động hệ
thần kinh cấp cao, sự phát triển về thể chất và tinh thần, về năng lực, hứng thú,
… Vì vậy, sự vừa sức phải chú ý đến những đặc điểm cá biệt.
Mặt khác, điều kiện dạy học ở nước ta là dạy từng lớp, mỗi lớp khoảng
30 - 50 học sinh, điều đó đòi hỏi giáo viên phải tiến hành dạy học và giáo dục
cả lớp như một tập thể học tập, tạo điều kiện và tổ chức các công tác học tập
của tất cả học sinh, đồng thời phải tính đến những đặc điểm cá biệt của từng
học sinh nhằm đạt được hiệu quả dạy học và góp phần phát triển những tư chất
tốt đẹp của các em.
Để đảm bảo tính vừa sức và chú ý tới những đặc điểm cá biệt trong điều
kiện dạy - học tiến hành với cả tập thể cần chú ý:
- Xác định mức độ, tính chất khó khăn trong quá trình dạy học để thiết
lập những cách thức chủ yếu tạo nên động lực học tập, mở rộng khả năng nhận
thức của học sinh, suy nghĩ những biện pháp tiến hành chung với cả lớp và với
học sinh.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 22
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
- Phối hợp hình thức lên lớp, hình thức độc lập công tác của học sinh với
hình thức học tập nhóm tại lớp.
Trước tập thể lớp, giáo viên đề ra nhiệm vụ chung và dưới sự chỉ đạo
của giáo viên, từng cá nhân suy nghĩ để tìm ra cách giải quyết. Trong thời gian
đó, giáo viên giúp đỡ những học sinh yếu kém. Với cách tổ chức như vậy thì
chỉ là sự làm việc cùng nhau của những cá nhân cùng học.
Một hình thức tổ chức tiết học khác là giáo viên chỉ đạo việc thực hiện
theo nhóm những ý kiến, những ý tưởng hoặc những cách giải quyết vấn đề
khác nhau của từng người để đi đến kết luận chung của cả nhóm, sau đó cử đại
diện của mình trình bày ý kiến. Trên cơ sở đó, cả lớp trình bày và đi đến kết
luận chung, còn giáo viên lúc này đóng vai trò là người chỉ đạo, người cố vấn,
người trọng tài.Với hình thức này thì sự phối hợp giữa cá nhân và tập thể đạt
hiệu quả cao hơn rất nhiều.
Cũng có thể từ một nhiệm vụ chung, mỗi nhóm được phân công giải
quyết những nhiệm vụ bộ phận, và từng thành viên suy nghĩ độc lập để đi đến
cách giải quyết chung của cả nhóm. Các nhóm cử người trình bày lần lượt cách
giải quyết từng nhiệm vụ của mình. Lớp thảo luận và đi tới cách giải quyết
nhiệm vụ chung.
Với cách tổ chức như vậy, học sinh làm việc không đơn thuần là ngồi
cạnh nhau, mỗi người tìm cách giải quyết không đơn thuần cho bản thân mình
mà là cho cả tập thể. Trong lớp xuất hiện không khí thúc đẩy nhau tích cực suy
nghĩ, có sự đồng cảm với nhau, hợp tác và kiểm tra lẫn nhau.
Cách tiến hành dạy học như vậy không chỉ giáo dục tinh thần tập thể cho
học sinh, mà từng học sinh giúp đỡ lẫn nhau nên nhiệm vụ học tập trở nên vừa
sức hơn với mỗi người.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 23
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
VD: Khi dạy bài 9 - Nguyên phân, mục II - Những diễn biến cơ bản của
NST trong quá trình nguyên phân, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hoạt
động theo nhóm như sau:
- Yêu cầu chung: trình bày diễn biến cơ bản của NST trong quá trình
nguyên phân.
- Nhiệm vụ của từng nhóm: (phát phiếu học tập kèm theo)
Nhóm Nhiệm vụ
1; 4 Hoạt động của NST ở kì trung gian, bộ NST của tế bào ở kì này.
2; 5 Hoạt động của NST trong các kì: kì đầu, kì giữa, kì sau, kì cuối.
3; 6 Bộ NST trong tế bào ở từng kì: kì đầu, kì giữa, kì sau, kì cuối.
Các nhóm thực hiện nhiệm vụ riêng được giao, các thành viên trong mỗi
nhóm tự nghiên cứu tài liệu và tham gia đóng góp ý kiến, cùng thống nhất câu
trả lời chung của nhóm.
Đại diện các nhóm trả lời, có sự trao đổi thông tin giữa những nhóm thực
hiện chung nhiệm vụ. Giáo viên là người chỉ đạo việc thảo luận, trao đổi thông
tin và chốt lại câu trả lời đúng của các nhóm.
Giáo viên tiếp tục chỉ đạo lớp thảo luận để tìm ra câu trả lời cho yêu cầu
lúc đầu thông qua kết quả hoạt động nhóm ở trên.
IV. Tính khả thi và kết quả thực hiện đề tài
1. Tính khả thi và kết quả thu được
Đề tài đã được áp dụng đối với học sinh khối lớp 9 trong năm học 2012 -
2013. Đối tượng áp dụng trên cả học sinh đại trà và học sinh mũi nhọn tham dự
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 24
Nâng cao sức hấp dẫn của bộ môn Sinh học đối với học sinh
các kì thi học sinh giỏi cấp huyện, cấp tỉnh môn Sinh học. Một số kết quả thu
được cụ thể như sau:
1.1. Sự quan tâm của học sinh đối với môn học
Để đánh giá về sự quan tâm của học sinh đối với môn học, tôi sử dụng
phiếu hỏi thăm dò trên tổng số 76 học sinh của khối lớp 9 về thái độ của các
em dành cho bộ môn. Phiếu hỏi này đã được sử dụng 2 lần, lần 1 là đầu năm
học, lần 2 là kết thúc học kì I của năm học. Kết quả được thể hiện ở bảng sau:
Thái độ của học sinh
Thời điểm điều tra
Không
quan
tâm
Ít
quan
tâm
Quan
tâm
Quan tâm
nhiều
Đầu năm học 19,7% 44,8% 35,5% 0%
Kết thúc học kì I 7,9% 39,5% 42,1% 10,5%
Từ kết quả điều tra trên cho thấy, học sinh đã có sự chuyển biến trong
thái độ đối với môn học theo chiều hướng tích cực, được thể hiện ở sự giảm
xuống rõ rệt của tỉ lệ học sinh không quan tâm và tăng lên khá mạnh của nhóm
học sinh quan tâm nhiều đến bộ môn. Điều này chứng tỏ, trong quan niệm của
học sinh đã có sự thay đổi cũng như những điều chỉnh của giáo viên theo các
nhóm biện pháp trên đã có tác động tích cực tới hứng thú học tập của học sinh.
1.2. Thái độ học tập của học sinh
- Học sinh học và chuẩn bị bài tốt hơn.
Theo quy định riêng của giáo viên bộ môn, mỗi học sinh phải có một
quyển vở ghi lí thuyết và một quyển vở để làm bài tập về nhà cũng như bài tập
tại lớp, cả hai loại vở trên đều phải được học sinh mang đến lớp trong mỗi buổi
học.
Đặng Thị Thanh Thủy/THCS Hòa Phong - Mỹ Hào Page 25