Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

skkn rèn luyện năng lực viêt văn cho học sinh trung học phổ thông qua phản biện văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.01 KB, 36 trang )

Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

RÈN LUYỆN NĂNG LỰC VIẾT VĂN CHO HỌC SINH THPT
QUA PHẢN BIỆN VĂN HỌC
*******
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Chỉ thị số 3004 của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, ngày 15 – 8 - 2013 đã
nêu rõ từng nhiệm vụ trọng tâm của ngành giáo dục năm học 2013 – 2014.
Trong đó, tồn ngành tiếp tục thực hiện Chỉ thị 02/CT-TTg, ngày 22/1/2013,
của Thủ tướng Chính phủ về đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục đào tạo theo
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, nhằm nâng cao chất lượng dạy và học,
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của cơng cuộc cơng
nghiệp hố, hiện đại hố, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Một trong
những giải pháp trọng tâm vẫn phải là đổi mới phương pháp dạy học. Vận dụng
các hình thức, phương pháp, kĩ thuật dạy học sao cho đạt hiệu quả cao nhất theo
yêu cầu của mục tiêu giáo dục là một trong những cách đổi mới thiết thực nhất.
1.2. Từ thực tế của đời sống xã hội, ngành GD&ĐT đặt ra yêu cầu phải
đào tạo được thế hệ người toàn diện, năng động, sáng tạo trong cơng việc. Đồng
thời có ý thức chủ động, tích cực bày tỏ quan điểm, lập trường trước những vấn
đề nảy sinh trong đời sống xã hội, hướng tới chân lí của mọi vấn đề. Trong dạy
học, tất cả các bộ môn cần rèn luyện cho học sinh biết tranh luận, phản biện vấn
đề, tạo thói quen tốt trong nhìn nhận, đánh giá các vấn đề trong cuộc sống. u
cầu mang tính cấp thiết ấy cũng góp phần thực hiện mục tiêu kết hợp dạy
“người” với dạy “chữ”, lí thuyết phải gắn với thực hành. Khả năng phản biện
của học sinh trong quá trình học tập sẽ giúp học sinh phát huy được tính chủ
động, sáng tạo trong học tập, rèn luyện được khả năng làm việc độc lập, làm
việc theo nhóm.
1.3. Xu hướng chung của những nền giáo dục tiến bộ trên thế giới là xây
dựng một nền giáo dục thực sự dân chủ. Phản biện của học sinh trong quá trình
dạy học, viết văn là một biểu hiện tích cực của một nền giáo dục dân chủ. Rèn


luyện năng lực viết văn qua phản biện văn học là một trong những cách góp
phần xây dựng những giờ học đầy ắp khơng khí dân chủ và một nền giáo dục
dân chủ, tiến bộ.
1


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

1.4. Giáo dục Việt Nam đang trên đường đổi mới theo xu hướng chung
của giáo dục thế giới : dạy học hướng vào phát triển năng lực cho người học.
Rèn luyện năng lực viết văn là một trong những nội dung quan trọng trong quá
trình dạy học văn. Làm tốt việc này, chắc chắn chất lượng dạy và học văn sẽ
được nâng lên một mức đáng kể. Đồng thời cịn góp phần quan trọng phát triển
các kĩ năng sống cho học sinh.
1.5. Đặt trong bối cảnh chung của ngành GD hiện nay, phát huy khả năng
phản biện của học sinh trong dạy học văn nói chung, rèn luyện năng lực viết văn
qua phản biện văn học nói riêng cũng góp phần quan trọng vào việc xây dựng
trường học thân thiện, học sinh tích cực. Đẩy nhanh q trình đổi mới căn bản
tồn diện giáo dục Việt Nam, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng lần
thứ XI.
Với những lí do trên, chúng tơi đã mạnh dạn đưa việc “Rèn luyện năng
lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học” vào quá trình dạy học
văn. Đặc biệt, việc xuất hiện đề thi phản biện trong kì thi tuyển sinh Đại học
năm 2013 càng thôi thúc chúng tôi tổng kết và viết thành sáng kiến, báo cáo hội
đồng khoa học nhà trường và hội đồng khoa học Sở GD&ĐT Hưng Yên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Theo quan sát của cá nhân thì ở Việt Nam, cho đến nay đã có nhiều ý
kiến về việc cần đưa phản biện và phản biện văn học vào nhà trường, cũng như
rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh trong quá trình dạy học văn. Các ý
kiến được đăng tải trên các báo, tạp chí, các website. Tuy nhiên, vẫn chưa có

một cơng trình nghiên cứu chính thức nào về vấn đề “Rèn luyện năng lực viết
văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học”.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ Văn – THPT, rèn luyện và
nâng cao năng lực viết văn cho học sinh, góp phần thực hiện thành công công
cuộc đổi mới phương pháp dạy học văn. Đồng thời, phát huy tối đa tiềm năng
học tập, nghiên cứu, sáng tạo của học sinh ở bộ môn Ngữ Văn, cấp THPT. Bồi
dưỡng và nâng cao kĩ năng làm việc độc lập, làm việc theo nhóm, đặc biệt là
góp phần hình thành kĩ năng phản biện tích cực cho HS trong học tập hiện tại
cũng như trong cuộc sống sau này.
4. Nhiệm vụ, phương pháp nghiên cứu
2


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Nghiên cứu và vận dụng những phương pháp rèn luyện năng lực viết văn
cho học sinh thông qua phản biện văn học.
Sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau :
- Những phương pháp chính : Nghiên cứu lí luận ; Thực hành thơng qua
hệ thống đề thi ;
- Những phương pháp kết hợp : Phân tích, suy luận logic ; So sánh ; Diễn
dịch; Quy nạp ;
5. Giả thuyết khoa học
Hiện nay, năng lực viết văn của học sinh THPT phần lớn là yếu, thậm chí
cả những học sinh có kiến thức văn học khá sâu, rộng vẫn rất lúng túng khi viết
bài làm văn, đặc biệt là việc bộc lộ ý kiến phản hồi, quan điểm riêng. Nếu được
hướng dẫn rèn luyện năng lực viết văn theo hướng vận dụng phản biện thì có
thể nâng cao được năng lực viết văn cho học sinh. Từ đó, nâng cao chất lượng
dạy học bộ mơn văn trong nhà trường THPT.

6. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về Phản biện khoa học, Phản biện xã hội, Phản biện trong
dạy học. Đề xuất những phương pháp rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh
THPT. Thực nghiệm tại trường THPT Trần Hưng Đạo. Chỉ ra ưu điểm, tồn tại
trong vận dụng.
7. Kế hoạch nghiên cứu, thời gian hoàn thành
- Từ tháng 6/2012 đến tháng 4/2013 : nghiên cứu và hoàn thành đề tài :
“Phát huy khả năng phản biện của học sinh THPT trong dạy học văn”. Đề tài
này đã hoàn thành và được Hội đồng khoa học Sở GD&ĐT Hưng Yên đánh giá
cao. Đồng thời, vận dụng thử nghiệm phản biện văn học vào việc rèn luyện
năng lực viết văn cho học sinh THPT.
- Song song với việc nghiên cứu, hoàn thành đề tài trên, từ tháng 1/2013:
nghiên cứu, vận dụng, hoàn thiện đề tài “Rèn luyện năng lực viết văn cho học
sinh THPT qua phản biện văn học”. Nếu kết quả tốt, sẽ viết thành sáng kiến
KN vào năm 2014.

PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC
RÈN LUYỆN NĂNG LỰC VIẾT VĂN CHO HỌC SINH THPT
QUA PHẢN BIỆN VĂN HỌC
3


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

1.1. Cơ sở lí luận
Cơ sở lí luận để chúng tơi nghiên cứu đề tài này được kế thừa những nội
dung cơ sở lí luận của đề tài SKKN năm 2013 (Phát huy khả năng phản biện
của học sinh THPT trong dạy học văn). Trong đó chúng tơi đã nêu lên những cơ

sở lí luận cụ thể sau :
- Về thuật ngữ và khái niệm : chúng tôi đã nêu các thuật ngữ, khái niệm
sau : Phản biện (Opponency), Tư duy phản biện, Phản biện xã hội, Phản biện
khoa học, Phản biện trong dạy học, Lập luận phản biện.
- Đồng thời, chúng tơi cũng đã trình bày rõ : Ý nghĩa của phản biện trong
dạy học ; Cấu trúc của phản biện ; Hình thức phản biện.
- Ở đây, chúng tơi xin trình bày bổ sung khái niệm Năng lực và Năng lực
viết văn. Đồng thời, làm rõ những tiêu chí đánh giá năng lực cảm thụ văn
chương cũng như những tiêu chí đánh giá năng lực viết văn của học sinh.
+ Năng lực : Khái niệm này được sử dụng rộng rãi từ lâu. Theo quan
điểm của những nhà tâm lý học “Năng lực là tổng hợp các đặc điểm, thuộc tính
tâm lý của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất
định, nhằm đảm bảo cho hoạt động đó đạt hiệu quả cao”. Các năng lực hình
thành trên cơ sở của các tư chất tự nhiên của cá nhân nhưng khơng phải hồn
tồn do tự nhiên mà có, phần lớn do q trình cơng tác, tập luyện mà được nâng
cao. Tâm lý học chia năng lực thành các dạng khác nhau như năng lực chung và
năng lực chuyên môn. Năng lực chung là năng lực cần thiết cho nhiều ngành
hoạt động khác nhau như năng lực phán xét tư duy lao động, năng lực khái quát
hoá, năng lực tưởng tưởng … Năng lực chuyên môn là năng lực đặc trưng trong
lĩnh vực nhất định của xã hội như năng lực tổ chức, năng lực âm nhạc, năng lực
kinh doanh, hội hoạ, toán học... Năng lực chung và năng lực chun mơn có
quan hệ qua lại hữu cơ với nhau, năng lực chung là cơ sở của năng lực chuyên
môn, nếu chúng càng phát triển thì càng dễ thành đạt được năng lực chuyên
môn. Ngược lại sự phát triển của năng lực chuyên môn trong những điều kiện
nhất định lại có ảnh hưởng đối với sự phát triển của năng lực chung.
+ Năng lực viết văn : Năng lực viết văn được hiểu là tổng hợp những yếu
tố giúp người viết có được bài văn hay, hấp dẫn. Chúng ta thường nói đến
những yếu tố sau : kiến thức văn học và kiến thức đời sống ; kĩ năng hành văn ;
4



Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

năng lực cảm thụ văn học ; khả năng lí giải vấn đề ; ý kiến phản hồi – phản biện
văn học …
+ Những tiêu chí đánh giá năng lực cảm thụ văn chương của học sinh :
Cảm thụ văn học thực chất là sự chiếm lĩnh một đối tượng thẩm mỹ thông
qua con đường cảm xúc hóa của bản thân chủ thể. Cảm xúc hóa vừa là dấu hiệu,
tiền đề vừa là nội dung của sự đồng hóa thẩm mĩ trước đối tượng. Cảm xúc hóa
là dấu hiệu đặc trưng khơng thể thiếu của cảm thụ văn học.
Cảm thụ văn học là một quá trình tâm lý phức tạp và đầy sáng tạo của
người đọc. Người đọc đi từ vốn sống, vốn kinh nghiệm của cá nhân mình đến
đến vốn sống, vốn kinh nghiệm chung mà nhà văn đã khái qt trong hình
tượng mới có thể rung cảm đồng cảm với nghệ sĩ được. Quá trình sáng tác là
q trình khách quan hố vốn sống của người nghệ sĩ, quá trình cảm thụ nghệ
thuật cũng là q trình khách quan hố vốn sống, vốn hiểu biết của người đọc
để tiếp thu được chân lí nghệ thuật. Nếu khơng có sự nỗ lực chủ quan của người
đọc để đi gần với người sáng tác thì khơng bao giờ có được sự đồng cảm nghệ
thuật. Bạn đọc đến với tác phẩm từ những thế giới tinh thần rất xa lạ với thế
giới của người sáng tác. Chủ quan của người sáng tác vốn ổn định và định hình
trong hình tượng tác phẩm, nhưng chủ quan của người đọc lại rất linh hoạt, rất
sinh động, rất biến động. Khi cảm thụ văn thơ phải ln có sự huy động rất sâu
xa những kỷ niệm, những kinh nghiệm cá nhân để tiếp nhận tác phẩm. Khơng
phải có kinh nghiệm sống là đã hiểu ngay được tác phẩm mà cần có sự nỗ lực
của nhiều năng lực nhận thức.
Cảm thụ văn chương vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách
quan. Tính chủ quan trong cảm thụ văn chương biểu hiện rất đa dạng. Có khi
biểu hiện ra bằng sự tản mạn trong cảm thụ, hoặc qua hiện tượng liên tưởng phi
văn bản, ngồi văn bản, có khi ở hiện tượng “thị sai”(1) . Hiện tượng thị sai là độ
sai trong nhìn nhận, đánh giá trong văn học. Hiện tượng thị sai biểu hiện trên

những phạm vi sau : Thị sai ở những nhà văn – thậm chí là những bậc thiên tài
1)


Phan Trọng Luận, “Văn học nhà trường, nhận diện - tiếp cận - đổi mới”, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội, năm 2009.
5


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

văn học. L.Tolstoi đánh giá về Shakespeare ; Bielinski đánh giá chủ nghĩa cổ
điển Pháp là “tay sai của bọn hầu tước bự phấn”; Thị sai giữa nhà văn và bạn
đọc. Bạn đọc hiểu không đầy đủ, khơng đúng ý đồ nhà văn. Ví dụ : “Giọt nước
mắt vầng trăng ; Long lanh trong đáy giếng” (Thanh Thảo). Thị sai giữa các
bạn đọc nói chung. Cùng một vấn đề mà có nhiều cách lí giải khác nhau giữa
những bạn đọc khác nhau. Ví dụ cách lí giải về câu thơ “Đầy buồng lạ, màu
thâu đêm” (Nguyễn Trãi). Thị sai trong bản thân bạn đọc, ở những hồn cảnh
khác nhau, tâm trạng khác nhau. Thị sai có thể diễn ra đối với một tác giả
(phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân), một tác phẩm (Thề non nước - Tản Đà),
một hình ảnh, một chi tiết nghệ thuật. Tùy trình độ chủ quan của mỗi người mà
độ thị sai trước tác phẩm khác nhau. Có khi độ thị sai rất lớn, thoát li hẳn văn
bản, sa vào những trường liên tưởng chủ quan, bất ngờ. Thường đối với những
bạn đọc có tầm đón nhận q thấp. Tính khách quan trong cảm thụ văn chương
biểu hiện như sau : Về mối quan hệ giữa người đọc và tác phẩm, chính bản thân
tác phẩm quy định chiều hướng và hiệu suất cảm thụ ở người đọc. Tính khách
quan trong cảm thụ nghệ thuật còn lệ thuộc vào sự khác nhau về thể loại,
phương thức biểu hiện của tác phẩm (trữ tình khác tự sự, kịch). Việc lựa chọn
hình thức nghệ thuật, phương thức biểu hiện cho tác phẩm là ý thức trách nhiệm
của người cầm bút. Bản chất của hình tượng văn học, tính loại biệt của văn học

có ý nghĩa quyết định mạnh mẽ đối với hoạt động cảm thụ. Sự khác nhau giữa
tiếp nhận một vấn đề khoa học và một tác phẩm văn học là do đối tượng nhận
thức – tác phẩm văn học quy định, không phải ý muốn của độc giả. Chất lượng
tác phẩm càng cao thì hiệu suất cảm thụ càng lớn. Nội dung và phương thức
biểu hiện, chất lượng sáng tác quyết định hứng thú cảm thụ của người đọc.
Hoàn cảnh và điều kiện cảm thụ cũng chi phối hiệu suất cảm thụ văn chương.
Những tiêu chí đánh giá năng lực cảm thụ văn chương của học sinh gồm :
- Năng lực tư duy hình tượng ngơn ngữ nghệ thuật.
- Khả năng cắt nghĩa, cảm thụ ý nghĩa của từ, câu, hình ảnh, chi tiết.
- Tính chủ quan và màu sắc cảm xúc trong quá trình cảm thụ.
- Khả năng phát hiện vấn đề.
- Khả năng tư duy, suy luận.
- Khả năng tư duy liên mơn.
+ Những tiêu chí đánh giá năng lực viết văn của học sinh :
- Kiến thức (cơ bản ; rộng, sâu)
6


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

- Kĩ năng hành văn (chữ viết, dùng từ, đặt câu, dựng đoạn, diễn đạt, trình bày).
- Tính thuyết phục trong biện giải, lập luận.
- Ý kiến và khả năng tham gia phản biện (riêng, mới, hợp lí).
1.2. Cơ sở thực tiễn
- Trong đề tài sáng kiến kinh nghiệm năm 2013 (Phát huy khả năng phản
biện của học sinh THPT trong dạy học văn), chúng tôi đã trình bày những vấn
đề thuộc cơ sở thực tiễn có liên quan đến đề tài này như sau :
+ Phản biện trong dạy học ở những nước có nền giáo dục tiên tiến :
Các nước tiên tiến đã coi trọng phản biện trong dạy học, đây là cơ sở đáng tin
cậy để chúng ta mạnh dạn đưa phản biện vào trong dạy học ở cả bậc Đại học và

bậc THPT.
+ Phản biện trong dạy học ở Việt nam : Ở Việt Nam, các nhà giáo dục
cũng đã quan tâm đến phát triển tư duy phản biện cho học sinh. Việc đổi mới
kiểm tra, đánh giá trong môn Ngữ Văn theo hướng tăng tính mở trong đề bài,
nhất là phần nghị luận xã hội đã tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh chủ động,
sáng tạo trong trình bầy, lập luận theo quan điểm của mình. Đó chính là cơ hội
phát huy khả năng phản biện của học sinh.
+ Tính đặc thù của bộ môn Văn trong trường THPT : Mơn Văn là mơn
học đặc thù. Nó vừa là khoa học vừa là nghệ thuật (nghệ thuật ngôn từ). Việc
cảm nhận, đánh giá một vấn đề văn học có thể thay đổi theo thời gian và theo
thị hiếu thẩm mĩ của mỗi người, mỗi thời đại. Có những vấn đề hơm nay là
đúng nhưng ngay mai thì chưa chắc, ngược lại, có những vấn đề ngày trước sai
nhưng bây giờ lại đúng. Nhiều vấn đề có nhiều cách hiểu, gây tranh cãi nhiều
thập kỉ mà khơng tìm ra chân lí. Vì vậy trong học văn, rất cần có cái nhìn mới,
cách cảm mới để tìm ra những giá trị mới. Học sinh như những bạn đọc sáng tạo
có thể lập luận để đưa ra chân lí đúng đắn hơn cho vấn đề. Đặt trong bối cảnh
đổi mới giáo dục hiện nay, mục tiêu đào tạo con người toàn diện, năng động,
sáng tạo trong cơng việc thì việc phát huy khả năng phản biện của học sinh lại
cần hơn bao giờ hết. Khi nhà trường phổ thông trang bị cho thế hệ trẻ tư duy
phản biện cũng có nghĩa là đã trang bị cho các em khát vọng đổi mới và khát
vọng thành công trong cuộc sống.

7


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

+ Nhu cầu học tập, bộc lộ của học sinh hiện nay : Nhu cầu bộc lộ bản
thân của học sinh là một cơ sở quan trọng để phát huy tiềm năng học tập, khả
năng phản biện vấn đề.

- Ở đây, chúng tơi xin trình bày bổ sung mấy cơ sở sau : việc đổi mới
kiểm tra, đánh giá, hướng ra đề thi ; xu hướng hội nhập quốc tế yêu cầu Việt
Nam phải tham gia chương trình PISA.
1.2.1. Việc đổi mới kiểm tra, đánh giá, đổi mới hướng ra đề thi
Trong những năm gần đây, Bộ GD&ĐT liên tục u cầu tồn ngành phải
có những đổi mới kiểm tra, đánh giá học sinh. Theo đó, hướng kiểm tra, đánh
giá, ra đề thi của môn Ngữ văn có mấy điểm tích cực sau đây :
- Đề thi mở : đây là hướng ra đề nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
trong suy nghĩ, luận giải của học sinh. Khơng có một đáp án duy nhất, chỉ cần
học sinh trình bày, lập luận vấn đề, thuyết phục được người đọc theo cách nghĩ
của mình một cách hợp lí, đều được chấp nhận và đánh giá cao.
- Đề thi yêu cầu tính phản biện : đây là dạng đề thi mới xuất hiện năm
2013, với yêu cầu chống việc học vẹt, học tủ, ghi nhớ kiến thức máy móc. Học
sinh có kiến thức cũng chưa chắc đã làm tốt được mà địi hỏi phải có khả năng
vận dụng kiến thức một cách linh hoạt sáng tạo. Nhất là cần có quan điểm, nhìn
nhận, đánh giá vấn đề theo suy nghĩ của bản thân. Với dạng đề này, nếu học
sinh có khả năng phản biện văn học thì sẽ làm bài rất tốt.
1.2.2. Xu hướng hội nhập quốc tế yêu cầu Việt Nam phải tham gia
chương trình PISA
PISA (Programme for International Student Assessment) là Chương trình
đánh giá học sinh quốc tế) của OECD (Organisation for Economic Cooperation
and Development), một Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Với nhu cầu hội
nhập quốc tế về lĩnh vực giáo dục, Việt Nam cần phải tham gia chương trình
này. Vì vậy, ngày 27/10/2008 Phó thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân có
văn bản giao Bộ Giáo dục và Đào tạo tiến hành khẩn trương nhất để đăng ký
Việt Nam tham gia Chương trình quốc tế đánh giá học sinh – PISA. Ngày
22/10/2009 Phó thủ tướng, Bộ trưởng Nguyễn Thiện Nhân có thư gửi ơng
Angel Gurria, Tổng Thư ký OECD đề nghị chấp nhận Việt Nam tham gia PISA
2012. Ngày 11/11/2009, OECD có thư chính thức gửi Phó thủ tướng, Bộ trưởng
Nguyễn Thiện Nhân về việc đồng ý để Việt Nam tham gia PISA.

8


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Tham gia PISA là một bước tích cực của hội nhập quốc tế về giáo dục đối
với Việt Nam. Chúng ta có cơ hội và điều kiện để so sánh “mặt bằng” giáo dục
quốc gia với giáo dục quốc tế. OECD sẽ đưa ra kết quả phân tích và đánh giá về
chính sách giáo dục quốc gia và đề xuất những thay đổi về chính sách giáo dục
cho các quốc gia. Điều này sẽ góp phần đổi mới phương pháp đánh giá, đưa ra
cách tiếp cận mới về dạy – học, đánh giá và thi, cũng là bước chuẩn bị tích cực
cho lộ trình đổi mới giáo dục sau 2015 của chúng ta.
Điều quan trọng là, trong cách đánh giá của PISA ở lĩnh vực đọc hiểu
(môn Văn) rất coi trọng đánh giá về tư duy logic, coi trọng ý kiến phản hồi
riêng, lập luận hợp lí, thuyết phục.
Với những cơ sở nêu trên, chúng tơi thấy việc Rèn luyện năng lực viết
văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học là cần rất thiết, có tính khả
thi, cần phải làm ngay.
Chương 2
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC VIẾT VĂN CỦA HỌC SINH THPT
VÀ YÊU CẦU ĐỔI MỚI TRONG GD&ĐT
2.1. Tiềm năng phản biện ở học sinh
Như trên đã trình bày, học sinh ngày nay ln có nhu cầu bộc lộ mình,
nhất là trong những tình huống được động viên, khích lệ, có hứng thú. Khi đó
mà có sự kết hợp với những hiểu biết sâu rộng vấn đề, sự định hướng khuyến
khích của giáo viên thì các em sẽ thể hiện hết mình. Khơng khí tiết học trở nên
“nóng” hơn!
Những tác phẩm văn học được đưa vào chương trình giảng dạy phần lớn
đã “thuộc về một thời”. Đành rằng giá trị một tác phẩm Văn học có thể “bất khả
biến” nhưng các em lại là người của “hơm nay”, nhìn nhận đánh giá vấn đề ln

có xu hướng từ góc nhìn của con người hiện đại. Điều đó rất dễ dẫn đến tâm
trạng “bất hịa” với quá khứ, hay một sự “ấm ức” nào đó, hoặc có nhu cầu “đánh
giá lại” vấn đề. Đó sẽ là nền tảng cho những phản biện bùng phát.
Mặc dù không nhiều nhưng cũng có một bộ phận học sinh có đam mê
Văn chương. Các em miệt mài tìm tịi, đọc, suy nghĩ, sáng tạo. Những học sinh
này hồn tồn có thể “đổi mới” hay “bổ sung” chân lí mà thày đưa ra.
9


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

2.2. Thực trạng phản biện của học sinh THPT hiện nay trong những
giờ dạy học Văn
Trước hết, chúng ta thấy chương trình mơn Ngữ Văn ở THPT có độ mở
tương đối. Nó thể hiện ngay ở sự phong phú của nội dung và kiểu bài học. Nhất
là có sự bổ sung của phần nghị luận xã hội. Mục tiêu dạy học của bộ môn Văn
cũng khá phức hợp. Thêm vào nữa là tính chất đặc thù bộ môn Văn – vừa khoa
học, vừa nghệ thuật. Điều đó có thể mở ra trước mắt người học cả một chân trời
tri thức và khả năng liên tưởng so sánh, cảm nhận, thẩm bình, đánh giá khơng
giới hạn. Thứ hai, việc đổi mới kiểm tra, đánh giá của bộ môn Ngữ Văn gần đây
làm sống dậy mạnh mẽ ý thức cá nhân người học. Họ có thể thoải mái bộc lộ
quan điểm riêng của bản thân mà không sợ “chệch” ý thày. Tiêu chí đúng, sai
được thay bằng lập luận có thuyết phục hay khơng? Đây là cơ hội để học sinh
phát huy tối đa khả năng học tập, hiểu biết của mình. Thứ ba, dù sao thì học
sinh vẫn là những người đi sau nên kho kinh nghiệm của thế hệ trước để lại rất
có giá trị. Học sinh có thể sáng tạo trên kho kinh nghiệm đó. Thứ tư, khơng khí
học tập đầy ắp tính dân chủ của nền giáo dục hiện đại cũng tạo nhiều cơ hội cho
người học phát huy tiềm năng sáng tạo của bản thân. Trong bối cảnh hiện nay,
toàn ngành đang thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” thì
tính sáng tạo của học sinh càng có điều kiện thăng hoa. Thứ năm, sự tương tác

HS – HS, HS – GV trong quá trình dạy học nhiều khi làm lóe sáng trong người
học những ý tưởng kì diệu. Điều này khó có thể có đối với người nằm ngồi q
trình dạy học. Thứ sáu, tài liệu tham khảo của bộ mơn ngày càng phong phú, dễ
tìm. Phương tiện đọc, lưu trữ cũng rất dễ dàng. Điều này giúp học sinh mở rộng
kiến thức cần thiết cho những phản biện khi có thể.
Tuy nhiên, rào cản lớn nhất cho những phản biện của học sinh trong dạy
học nói chung và dạy học Văn nói riêng có lẽ là tư duy phản biện ở cả thày và
trò. Dường như những quan điểm truyền thống với những bức tường thành tích
khổng lồ vẫn chưa sẵn sàng đón tiếp tư duy phản biện. Phần lớn giáo viên hiện
nay, khi đứng trên bục giảng đều không muốn học sinh phản biện lại những gì
mình nêu ra. Có nhiều lí do khác nhau. Danh dự. Uy tín. Hạn chế về chun
mơn (ở một bộ phận giáo viên)… Thậm chí, có người gay gắt hơn thì coi phản
10


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

biện của học sinh là hành vi vơ lễ (cãi thày). Giáo viên khơng có thói quen nhận
lỗi trước học trị (khi có lỗi) mà chỉ quen “ln đúng”, duy nhất đúng trước
chúng. Vì lẽ đó mà học sinh cũng ít biểu hiện (ít dám) phản biện, chưa kể phản
biện gay gắt. Có chỗ khơng thuyết phục, nhiều khi chịu ấm ức hoặc rơi vào chủ
nghĩa A.Q – thày nói chỉ có đúng! Nói đúng ra thì học sinh Việt Nam chưa có
thói quen nghi ngờ kiến thức. Bên cạnh đó, ngày nay khơng có nhiều học sinh
thật sự u thích, say sưa mơn Văn. Mà khơng đam mê thì khơng có động lực,
hứng thú để tìm tịi, nghiên cứu, sáng tạo. Vì vậy, thày nói sao thì nghe thế (15
hay 14 gật tất). Khơng những thế, điều kiện kiến thức, môi trường học tập, thời
gian tiết học, bài học cũng còn nhiều bất cập. Chương trình vẫn ơm đồm, nặng
tính hàn lâm, nhiều đơn vị kiến thức không cần thiết những vẫn phải học, gây
nhàm chán. Kiến thức nặng, quá tải thì học sinh chỉ lo “tải” cho hết đã, còn đâu
mà nghĩ để nghi ngờ hay phản biện gì.

Mặc dù có những khó khăn như đã nói trên nhưng vẫn có những dấu hiệu
của phản biện trong dạy học Văn hiện nay. Trước hết, đó là những thắc mắc sau
bài học. Sau những tiết học Văn, nhất là những tiết học về những văn bản đặc
sắc thường có những em thực sự quan tâm đến bài học, có những băn khoăn về
một nội dung nào đấy mà thày trò vẫn chưa giải quyết thấu đáo, chưa thuyết
phục do hạn chế về thời gian. Chẳng hạn, có học sinh đã chia sẻ sự băn khoăn
này : em vẫn chưa thực sự cảm nhận hết được tình cảm của Thanh Thảo dành
cho G.Lorca mặc dù biết đó là tình cảm rất sâu sắc ; sự đồng điệu của hai tâm
hồn ấy liệu có làm cho các nghệ sĩ Việt Nam chạnh lịng. Em rất thích truyện
ngắn Nguyễn Minh Châu, nhất là Chiếc thuyền ngoài xa, Bến q … song em
có cảm giác hình như Nguyễn Minh Châu cịn muốn nói gì đó qua Chiếc thuyền
ngồi xa mà người đọc chưa tìm ra. Nó khơng chỉ là “tun ngơn nghệ thuật”
mà cịn là “bản di chúc nghệ thuật”. Đọc tùy bút Sơng Đà của Nguyễn Tn rất
khó chịu vì những câu văn dài đuỗn, lắm thành phần phụ lắt léo, những so sánh
thì lạ, chẳng biết ơng dựa trên tiêu chí nào!
Bên cạnh đó là những câu hỏi mang tính khám phá. Tơi có thói quen kết
thúc mỗi tiết học bằng một câu hỏi : có em nào cịn băn khoăn, thắc mắc hay hỏi
thêm gì về vấn đề/ bài này nữa khơng? Đã khơng ít lần tôi nhận được những câu
11


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

hỏi rất hay từ học sinh. Chẳng hạn : Gọi vẻ đẹp của người vợ nhặt (trong truyện
ngắn Vợ nhặt – Kim Lân) là “vẻ đẹp khuất lấp” liệu có gượng gạo, bởi vì đó là
vẻ đẹp vượt lên trên hoàn cảnh cơ mà? Ánh mắt của ơng lão sơn tràng đầy vẻ lo
lắng khi nhìn ra ngồi mặt phá (lúc này chỉ cịn duy nhất một chiếc thuyền vó)
nói lên điều gì? Nguyễn Minh Châu có gửi gắm gì ở ánh mắt ấy khơng? Trong
Đây thơn Vĩ Giạ có những dấu hiệu của thơ tượng trưng, siêu thực không? ...
Do hạn chế về thời gian cũng như đặc thù của môn Văn nên không phải

vấn đề nào đưa ra cũng giải quyết dứt điểm trong giờ học được. Những tình
huống cịn bỏ ngỏ trong các bài học ln là xuất phát điểm cho những tìm tòi,
khám phá, sáng tạo của học sinh, nhất là những học sinh u thích và say mê
mơn Văn (tuy số này không nhiều). Chẳng hạn : nếu cứ nhất định, khăng khăng
(thậm chí kể cả việc gọi hồn Hàn Mặc Tử mà hỏi) phải hiểu cho ra lẽ khuôn
“mặt chữ điền” kia là của ai? Hay chi tiết “Gục trên súng mũ, bỏ quên đời”
(trong Tây Tiến) là hi sinh hay chỉ thiếp đi vì mệt? Câu thơ “khơng ai chôn cất
tiếng đàn” (Đàn ghi ta của Lorca) hiểu thế nào thì thuyết phúc? Đành rằng, nghệ
thuật là lĩnh vực tinh thần khơng thể “chơn” nhưng đã có những “tiền lệ” : “Hỡi
tuổi trẻ! Hãy giết chết Booc-ghêt!” (lời Booc-ghết) ; “Hãy chôn Thơ mới” (Trần
Dần).
2.3. Thực trạng năng lực viết văn của học sinh THPT
Để khách quan trong nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành một cuộc điều
tra, thu thập thông tin học văn trên diện rộng với khoảng 1000 học sinh (Phiếu
lấy thông tin học tập – xem phần phụ lục) và thu được kết quả khá chân thực.
Khoảng 20% học sinh được hỏi thú nhận rằng mình yếu mọi mặt (cả kiến thức
và kĩ năng hành văn). Khoảng 30% cơng nhận mình cịn yếu kém, hổng về kiến
thức bộ môn và 37% thừa nhận kĩ năng hành văn cịn yếu. Đặc biệt, có tới trên
80% học sinh trả lời rằng trong bài viết của mình khơng có tính sáng tạo, sức
thuyết phục chưa cao, hoặc chưa từng có hay rất ít khi vận dụng phản biện trong
bài viết của mình.
Qua lấy thơng tin thực tế bằng phương pháp khảo sát, chúng tôi thấy
rằng, đa số học sinh học văn chỉ nhớ và hiểu được kiến thức cơ bản từ những
bài giảng của thày cô – theo kiểu ghi nhớ máy móc mà chưa có ý thức vận dụng
sáng tạo trong làm bài thi cũng như trong cuộc sống. Nói cách khác là năng lực
12


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học


vận dụng của các em rất yếu. Nhiều em thường xuyên lệ thuộc tài liệu cả trong
khi học lẫn trong khi làm bài thi. Nhiều em nói khơng dám nêu ý kiến riêng vì
sợ sai, sợ giáo viên trừ điểm.
Với thực trạng này, chúng tôi nghĩ, cùng với việc hướng dẫn các em về
kiến thức cơ bản, rèn luyện kĩ năng hành văn nói chung thì một điều khá quan
trọng là phải rèn luyện cho các em năng lực viết văn thông qua phản biện văn
học.

Chương 3
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN LUYỆN NĂNG LỰC VIẾT VĂN CHO HỌC SINH THPT
QUA PHẢN BIỆN VĂN HỌC
3.1. Điều kiện vận dụng phản biện vào bài làm văn của học sinh
Để có thể vận dụng phản biện vào bài làm văn của học sinh THPT, cần có
sự xuất hiện của những điều kiện sau :
- Cả thày và trị phải có tư duy phản biện
- Học sinh phải có hiểu biết sâu rộng vấn đề
- Giáo viên phải thực sự coi trọng tính dân chủ trong giáo dục
- Đề Văn phải có tình huống phản biện
Như đã nói ở chương 1, những phản biện của học sinh có thể đúng, thuyết
phục, có thể sai, khơng thuyết phục, điều đó khơng quan trọng. Quan trọng là
qua phản biện, người học thể hiện tinh thần chủ động, tích cực, sáng tạo của
mình. Khoảng cách thày – trị được rút ngắn.
3.2. Hình thành năng lực viết Văn cho học sinh thông qua việc phát
huy khả năng phản biện của họ trong học Văn
Trong đề tài nghiên cứu Phát huy khả năng phản biện của học sinh
THPT trong dạy học văn, năm 2013, chúng tôi đã trình bày rất kĩ 8 biện pháp, bao gồm
:
Biện pháp 1 : Bồi dưỡng tư duy phản biện cho học sinh
Biện pháp 2 : Tăng cường rèn luyện kỹ năng phản biện

Biện pháp 3 : Bồi dưỡng kiến thức chuyên sâu theo chuyên đề, tổ chức
chuyên đề ngoại khóa
Biện pháp 4 : Khích lệ, động viên, mở đường
Biện pháp 5 : Tạo khơng khí đối thoại, tự do dân chủ
Biện pháp 6 : Linh hoạt xuất - ẩn
Biện pháp 7 : Phép thử
13


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Biện pháp 8 : Kết hợp những hình thức, phương pháp, biện pháp, kĩ thuật
dạy học khác như : với đối thoại ; với dự án ; với tổ chức trò chơi ; với các kĩ
thuật “bể cá”, “khăn phủ bàn”
Trong cơng trình này, chúng tơi coi những biện pháp trên đây như là nền
tảng, cơ sở để đi vào rèn luyện năng lực viết văn cho các em. Và đây mới là nội
dung trọng tâm của cơng trình nghiên cứu này.
3.3. Rèn luyện năng lực viết Văn cho HS THPT thông qua các đề văn
cụ thể, nhất là những đề văn có tính chất phản biện
3.3.1. Các cấp độ phản biện trong đề văn
3.3.1.1. Phản biện ở cấp độ chi tiết
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một hoặc hoặc vài
chi tiết hay, đặc sắc trong tác phẩm văn học, thường là tác phẩm văn xi.
Trong đó, có trình bày ý kiến riêng, có tham gia tranh luận với những ý kiến
khác, phản biện vấn đề nhằm đưa ra giá trị thực sự của chi tiết nghệ thuật. Ví dụ :
Đề 1 :
Trong truyện “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”, để chứng minh cho
tính cách khảng khái, nóng nảy, cương trực của Ngơ Tử Văn, tác giả Nguyễn
Dữ đã kể về hành động đốt đền của nhân vật này. Thái độ của người đọc về chi
tiết này rất khác nhau : có người ủng hộ ; có người phản đối ; lại có người vừa

ủng hộ, vừa phản đối.
Anh/chị có ủng hộ hành động của Ngơ Tử Văn khơng? Hãy giải thích câu
trả lời của mình?
Đề 2 :
Trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, ngay sau câu nói đùa của anh
Tràng : “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng về”,
nhân vật người vợ nhặt về thật. Anh Tràng đã : “Chậc, kệ!”.
Về chi tiết này, có người đã trách anh Tràng : “kệ” là thái độ vô trách
nhiệm, khơng biết có ni nổi khơng mà lại đồng ý đưa cô ta về ; người khác lại
bày tỏ sự cảm thơng : ở vào hồn cảnh rất éo le, anh Tràng hành động như vậy
thật dũng cảm.
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về chi tiết này?
Đề 3 :
Nhân vật cụ Mết trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành
có nói : “Khơng có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Có ý kiến cho rằng :

14


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

câu nói này khẳng định sức sống mạnh mẽ của cây xà nu ; lại có ý kiến cho rằng
: câu nói này thể hiện sức sống kiên cường của nhân dân làng Xô Man.
Ý kiến của anh/chị về chi tiết này như thế nào?
3.3.1.2. Phản biện ở cấp độ hình tượng
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một hoặc hoặc vài
hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. Trong đó, có trình bày ý kiến
riêng, có tham gia tranh luận với những ý kiến khác, phản biện vấn đề nhằm đưa
ra giá trị thực sự của hình tượng nghệ thuật. Ví dụ :
Đề 4 :

Về hình tượng Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung
Thành, có ý kiến cho rằng : Tnú điển hình cho tính cách con người Tây Ngun.
Ý kiến khác thì nhấn mạnh : Tnú điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng
của người làng Xơ Man.
Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh/chị hãy bình luận những ý
kiến trên và nêu ý kiến đánh giá về hình tượng Tnú.
Đề 5 :
Về hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng, có ý
kiến cho rằng : người lính ở đây có dáng dấp của các tráng sĩ thuở trước. Ý
kiến khác thì nhấn mạnh : hình tượng người lính mang đậm vẻ đẹp của người
chiến sĩ thời kháng chiến chống Pháp.
Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh/chị hãy bình luận những ý
kiến trên (1).
Đề 6 :
Có ý kiến cho rằng : sự nhẫn nhục của nhân vật Từ (Đời thừa - Nam
Cao) không đáng trách, chỉ đáng thương ; còn sự nhẫn nhục của người đàn bà
hàng chài (Chiếc thuyền ngoài xa - Nguyễn Minh Châu) thì vừa đáng thương
vừa đáng trách.
Từ cảm nhận của mình về hai nhân vật này, anh/chị hãy bình luận ý
kiến trên (2).
Đề 7 :
Nhận định về niềm khát khao tận hưởng sự sống trong bài thơ Vội vàng
(1)

,

(2)

Trích Đề thi ĐH, khối C, năm 2013


(

15


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

của Xuân Diệu, từng có ý kiến cho rằng : đó là tiếng nói của cái tơi vị kỉ tiêu
cực. Lại có ý kiến khẳng định : đó là tiếng nói của cái tơi cá nhân tích cực.
Từ cảm nhận của mình về niềm khát khao đó, anh/chị hãy bình luận
những ý kiến trên (3).
Đề 8 :
Về nhân vật Phùng trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của
Nguyễn Minh Châu, có ý kiến cho rằng : nét nổi bật ở người nghệ sĩ này là một
tâm hồn nhạy cảm và say mê cái đẹp thơ mộng của cảnh vật. Ý kiến khác thì
nhấn mạnh: vẻ đẹp sâu xa của nghệ sĩ Phùng chính là một tấm lòng đầy trăn
trở, lo âu về thân phận con người.
Từ cảm nhận của mình về nhân vật Phùng, anh/chị hãy bình luận những ý
kiến trên (1).
3.3.1.3. Phản biện ở cấp độ đoạn trích, tác phẩm
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một đoạn trích
hoặc tác phẩm, văn xi hoặc thơ. Trong đó, có trình bày ý kiến riêng, có tham
gia tranh luận với những ý kiến khác, phản biện vấn đề nhằm đưa ra giá trị thực
sự của đoạn trích hoặc tác phẩm nghệ thuật. Ví dụ :
Đề 9 :
Có ý kiến cho rằng : trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, ở
khổ thơ đầu là bức tranh thiên nhiên thôn Vĩ chân thực, đầy sức sống ; ở khổ
thơ thứ hai lại là một bức tranh tâm cảnh mang đậm nỗi buồn, bi kịch.
Từ cảm nhận của mình về hai khổ thơ đầu trong bài thơ này, anh/chị hãy
bình luận ý kiến trên.

Đề 10 :
Nói về cảnh ơng Huấn Cao cho chữ viên quản ngục (trong Chữ người tử tù
– Nguyễn Tuân), có người cho rằng : đây là “sự nổi loạn của cái đẹp”(2) ; một
người khác lại nhận định : đó là “sự tỏa sáng của những tấm lịng”.
(3)

Trích Đề thi ĐH, khối D, năm 2013

(1)

Trích Đề thi ĐH, khối D, năm 2013
Nguyễn Văn Tùng, “Tác phẩm văn học trong nhà trường, những vấn đề trao đổi”, Nxb ĐHQG Hà Nội,
2000, tập 2
(2)

16


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Ý kiến của anh/chị như thế nào?
Đề 11 : Về truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi,
có ý kiến cho rằng : tác phẩm thành công ở chỗ đã xây dựng được hình tượng
dịng sơng truyền thống, từ đó ngợi ca chủ nghĩa anh hùng cách mạng – miền
Nam trong khói lửa chiến tranh ; lại từng có ý kiến rằng : thành cơng của tác
phẩm chính ở chỗ, từ khơng gian gia đình, nhà văn đã nhìn ra cả cuộc kháng
chiến hào hùng của dân tộc.
Từ việc phân tích truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn
Thi, anh/chị hãy bình luận những ý kiến trên.
3.3.1.4. Phản biện ở cấp độ quan điểm, phong cách nghệ thuật

Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu cảm nhận và đánh giá về một quan điểm
hoặc phong cách nghệ thuật. Trong đó, có trình bày ý kiến riêng, có tham gia
tranh luận với những ý kiến khác, phản biện vấn đề nhằm đưa ra giá trị thực sự
của một quan điểm hoặc phong cách nghệ thuật của một tác giả cụ thể. Đây là
cấp độ khó, chỉ dành cho đối tượng học sinh giỏi văn thuộc đội tuyển cấp tỉnh,
cấp quốc gia. Ví dụ :
Đề 12 :
Nói về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân, GS. Nguyễn Đăng Mạnh
viết như sau : “Phong cách ấy, trước hết có thể thâu tóm trong một chữ
ngơng”(1) ; trong khi đó, PGS. Trần Đăng Suyền lại cho rằng : “Ơng … đem đến
cho nền văn xi hiện đại một phong cách tài hoa và độc đáo”(2).
Ý kiến của anh/chị như thế nào? Hãy phân tích một vài dẫn chứng để làm rõ?
Đề 13 :
Nhà văn Nam Cao có gửi gắm quan điểm nghệ thuật của mình qua lời
nhân vật Hộ trong truyện ngắn Đời thừa như sau : “Một tác phẩm thật giá trị,
phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm
chung cho cả lồi người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự cơng
bình…Nó làm cho người gần người hơn”.

(1)
(2)

SGK Ngữ Văn 12, Nâng cao, tập 1, Nxb GD 2007, Tr. 168.
SGK Ngữ Văn 11, Cơ bản, tập 1, Nxb GD 2006, Tr. 107.

17


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học


Một độc giả có ý kiến rằng : quan điểm nghệ thuật này của Nam Cao,
cho đến nay đã bị lạc hậu.
Anh/chị có nghĩ rằng quan điểm nghệ thuật này của Nam Cao bị lạc hậu
không? Hãy giải thích câu trả lời của mình?
3.3.1.5. Phản biện ở cấp độ trào lưu, khuynh hướng, giai đoạn, nền văn học
Ở cấp độ này, đề bài yêu cầu phân tích và đánh giá những đặc điểm của
một trào lưu, khuynh hướng, giai đoạn hay nền văn học, có thể thơng qua một
tác phẩm cụ thể. Trong đó, có trình bày ý kiến riêng, có tham gia tranh luận với
những ý kiến khác, phản biện vấn đề nhằm đưa ra đặc điểm, giá trị, vị trí thực
sự của một trào lưu, khuynh hướng, giai đoạn hay nền văn học. Đây là cấp độ
khó, chỉ dành cho đối tượng học sinh giỏi văn thuộc đội tuyển cấp tỉnh, cấp
quốc gia. Ví dụ :
Đề 14 :
Có ý kiến cho rằng : cùng là những gương mặt tiêu biểu của nền văn học
đổi mới sau 1975 nhưng Nguyễn Minh Châu thì tiếp cận, khám phá con người
thiên về phương diện đạo đức, còn Nguyễn Khải lại tiếp cận, khám phá con
người thiên về phương diện văn hóa.
Trên cơ sở phân tích hai tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn
Minh Châu và Một người Hà Nội của Nguyễn Khải, anh/chị hãy bình luận ý
kiến trên.
Đề 15 :
Nói về Văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945, có ý kiến cho rằng : do
có nhiều khuynh hướng văn học song song tồn tại và phát triển nên trong q
trình ấy khơng tránh khỏi hiện tượng giao thoa, thâm nhập lẫn nhau giữa các
khuynh hướng.
Trên cơ sở phân tích truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam, anh/chị
hãy bình luận ý kiến trên.
3.3.2. Biện pháp xử lí các đề văn phản biện
Để viết được những bài văn hay, hấp dẫn đối với dạng đề có tính chất

phản biện như trên, người viết không những phải hiểu thấu đáo đối tượng, có kĩ
năng hành văn tốt mà cịn cần phải có quan điểm, ý kiến riêng. Phải nhìn nhận,
đánh giá đối tượng một cách đa chiều. Phát huy tối đa nhất cái nhìn chủ quan
nhưng khơng tách rời tính khách quan khoa học. Phải thể hiện được tâm sáng,
tầm cao, cách đúng trong phản biện để thuyết phục người đọc.
18


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Phương pháp chung là vận dụng kết hợp các thao tác nghị luận như giải
thích, phân tích, chứng minh, bình luận để làm rõ đối tượng. Trong q trình ấy,
những khía cạnh có nhiều cách hiểu, nhiều quan điểm trái chiều, người viết cần
có sự đối chiếu, so sánh lí giải sao cho đưa được cách hiểu tối ưu nhất, thuyết
phục nhất.
Kết cấu chung nhất của bài viết thường như sau :
- Giới thiệu đối tượng
- Phân tích cơ bản đối tượng (khách quan, khoa học)
- Những ý kiến khác nhau, trái chiều về đối tượng : mặt tích cực, hạn chế
- Quan điểm, cách lí giải về đối tượng của bản thân, kèm theo lập luận,
đặc biệt những luận cứ khoa học có sức thuyết phục cao (vận dụng phản biện
văn học) :
+ Luận điểm phản biện
+ Cơ sở phản biện : lí lẽ, dẫn chứng
+ Luận chứng
- Kết luận về đối tượng
Chúng tôi đã lần lượt hướng dẫn học sinh từng cấp độ đề phản biện, qua
mỗi cấp độ sẽ rèn luyện và nâng cao được năng lực viết văn cho các em.
3.3.2.1. Phản biện ở cấp độ chi tiết
Hướng dẫn đề 2 :

Đề bài : Trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, ngay sau câu nói đùa của
anh Tràng : “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khn hàng lên xe rồi cùng
về”, nhân vật người vợ nhặt về thật. Anh Tràng đã : “Chậc, kệ!”.
Về chi tiết này, có người đã trách anh Tràng : “kệ” là thái độ vô trách
nhiệm, biết là chưa chắc nuôi nổi mà lại đồng ý đưa cô ta về ; người khác lại
bày tỏ sự cảm thơng : ở vào hồn cảnh rất éo le, anh Tràng hành động như vậy
thật dũng cảm.
Anh/chị suy nghĩ như thế nào về chi tiết này?
Hướng dẫn :
a. Giới thiệu vấn đề :
- Kim Lân là gương mặt tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại. Giọng
văn Kim Lân hóm hỉnh mà đơn hậu. Vợ nhặt là tác phẩm xuất sắc của ông, tiêu
biểu cho giọng văn ấy.
- Viết Vợ nhặt, Kim Lân chủ yếu thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc của
mình thơng qua việc ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn người lao động.
b. Giải quyết vấn đề :
- Phân tích hồn cảnh tình huống dẫn đến chi tiết nghệ thuật nói trên
+ Hồn cảnh chung của dân tộc : nạn đói tràn về
19


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

+ Hoàn cảnh anh Tràng : nghèo đói, xấu trai, ế vợ
+ Lần gặp thứ nhất của anh Tràng và người vợ nhặt
+ Lần gặp thứ hai của anh Tràng và người vợ nhặt
+ Nói đùa nhưng làm thật : “chậc, kệ!”
- Các ý kiến nhận định về chi tiết này
+ “kệ” là thái độ vô trách nhiệm, khơng biết có ni nổi khơng mà lại
đồng ý đưa cơ ta về : ý kiến này nói được sự liều lĩnh của anh Tràng nhưng đã

có sự đồng nhất ý nghĩa của chữ “kệ” – theo nghĩa thơng thường - với thái độ
đầy tình người, thấm đẫm lòng nhân hậu của anh Tràng trong trường hợp éo le này.
+ Ở vào hoàn cảnh rất éo le, anh Tràng hành động như vậy thật dũng
cảm : ý kiến này đã xác nhận được hoàn cảnh đầy eo le của nhân vật, nhấn
mạnh được tính chất hành động của nhân vật theo hướng tích cực, ngợi ca
nhưng sắc thái ý nghĩa chưa thật phù hợp, nhất là chưa sát, gần gũi với tư tưởng
của Kim Lân.
- Ý kiến phản biện của bản thân
+ Đây là một chi tiết hay, đặc sắc, rất tiêu biểu cho giọng văn Kim Lân.
+ Mục đích chính của việc xây dựng chi tiết này là : ca ngợi tấm lòng
nhân hậu của người lao động trong hồn cảnh đói kém.
+ Anh Tràng có nhiều lí do để từ chối : nhà nghèo ; mẹ khơng đồng ý ; tơi
chỉ nói đùa ; tơi chưa có ý định lấy vợ vào lúc này ….Nhưng anh khơng hành
động như vậy, khơng phải vì liều, mà vì anh cảm nhận được sự khát khao đến
cháy bỏng một tổ ấm gia đình từ người đàn bà lam lũ kia ; vì anh khơng nỡ đẩy
người đàn bà khơng có chỗ bấu víu đang muốn dựa vào anh ; vì anh được
trưởng thành từ một dân tộc có truyền thống “lá lành đùm lá rách” …
+ Vẻ mặt “phớn phở”, tâm trạng vui sướng, cảm giác hạnh phúc, ý thức
trách nhiệm của anh Tràng sau đó đã chứng minh cho điều ấy.
- Tiểu kết về đối tượng : “chậc, kệ!” là một chi tiết nghệ thuật độc đáo ; là
một kết hợp tuyệt vời giữa sự chân chất, mộc mạc với khao khát sống, hạnh
phúc của anh nông dân ít học; giữa tài viết truyện hóm hỉnh với tấm lịng đơn
hậu của nhà văn ; tất cả đã làm nên tình người cao đẹp.
c. Kết thúc vấn đề
- Thật là “chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.
3.3.2.2. Phản biện ở cấp độ hình tượng
Hướng dẫn đề 4 :
Đề bài : Về hình tượng Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn
Trung Thành, có ý kiến cho rằng : Tnú điển hình cho tính cách con người Tây
20



Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Nguyên. Ý kiến khác thì nhấn mạnh : Tnú điển hình cho con đường đấu tranh
cách mạng của người làng Xơ Man.
Từ cảm nhận của mình về hình tượng này, anh/chị hãy bình luận những ý
kiến trên và nêu ý kiến đánh giá về hình tượng Tnú.
Hướng dẫn :
a. Đặt vấn đề :
- Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) là một trong những nhà văn lớn
của nền văn học VN hiện đại. Ông cũng là nhà văn của mảnh đất Tây Nguyên
hùng vĩ. Có duyên và gắn bó với mảnh đất Tây Nguyên trong cả hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mĩ là điều kiện thuận lợi, tiền đề dẫn đến những
thành công trong những sáng tác về vùng đất này : Đất nước đứng lên, Rừng xà nu

- Truyện ngắn Rừng xà nu (1965) viết về những anh hùng làng Xô Man
trong cuộc kháng chiến chống Mĩ, tiêu biểu cho khuynh hướng sử thi và cảm
hứng lãng mạn của VHVN 1945-1975. Cảm hứng của Rừng xà nu được phát
khởi từ một triết lí nảy ra từ máu lửa của một thời đại đau thương mà anh dũng.
- Hình tượng trung tâm của tác phẩm là Tnú. Có ý kiến cho rằng : Tnú
điển hình cho tính cách con người Tây Ngun. Ý kiến khác thì nhấn mạnh :
Tnú điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người làng Xô Man.
Vậy đâu là giá trị thực sự của hình tượng này?
b. Giải quyết vấn đề :
- Giải thích ý kiến :
+“Tnú điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên” nghĩa là tính cách,
phẩm chất của Tnú có nhiều điểm tương đồng, khái quát hoặc được kết tinh từ
tính cách, phẩm chất của con người Tây Nguyên. Tính cách của Tnú tiêu biểu
cho tính cách con người Tây Nguyên. “Tnú điển hình cho con đường đấu tranh

cách mạng của người làng Xô Man” là nói cuộc đời Tnú có điểm tương đồng
với con đường đấu tranh cách mạng của con người làng Xô Man, đi từ khó
khăn gian khổ đến thắng lợi, từ đau thương đến anh dũng.
- Phân tích khái qt về hình tượng :
21


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

+ Bối cảnh đất nước và làng Xơ Man trong kháng chiến
+ Hồn cảnh riêng của nhân vật
+ Khái quát tính cách, tâm hồn, lí tưởng của nhân vật
- Chúng ta nhất trí với những ý kiến trên. Đây là hai nhận xét khái quát về
hai khía cạnh khác nhau của hình tượng Tnú : ý kiến trước chỉ ra vẻ đẹp tính
cách, phẩm chất ; ý kiến sau khái quát phương diện cuộc đời.
* Tnú trước hết điển hình cho tính cách con người Tây Nguyên :
+ Yêu nước, căm thù giặc sâu sắc, bất khuất với kẻ thù : Tnú có 3 mối thù
lớn : của bản thân, của gia đình, của bn làng. Phân tích những chi tiết hay : bị
đốt mười ngắn tay, lửa cháy ở trong lồng ngực ; đôi mắt Tnú biến thành hai cục
lửa lớn khi chứng kiến cảnh vợ con bị giặc tra tấn ; …
+ Sớm có lí tưởng cách mạng, trung thành với cách mạng, tính kỉ luật cao :
từ bé đã thuộc lịng câu nói của cụ Mết “cán bộ là Đảng …còn” ; về thăm làng
một đêm nhưng có giấy phép …
+ Sức sống mãnh liệt, dẻo dai : chi tiết đôi bàn tay Tnú
+ Trung thực, dũng cảm, gan góc, thơng minh lanh lợi, có tinh thần trách
nhiệm trong cơng việc : để cán bộ ngủ một mình ngồi rừng bụng dạ khơng yên
được ; đi rừng ; vượt suối ; nuốt lá thư…
+ Có tình thương u sâu sắc với gia đình, bn làng
* Tnú cịn là điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người
làng Xô Man :

+ Mang thân phận mồ côi, sinh ra và lớn lên trong sự đùm bọc, u thương
của bn làng, Tnú có một cuộc đời nghèo khổ, cơ cực như bao người khác
nhưng cũng phát huy được cốt cách của người Xô Man : “Đời nó khổ nhưng
bụng nó sạch như nước suối làng ta”.
+ Tnú gặp bi kịch khi chưa cầm vũ khí : bản thân bị bắt, bị tra tấn dã man
(mỗi ngón tay chỉ cịn hai đốt), bị tù ; vợ con bị giặc tra tấn đến chết ; cụ Mết
nhắc lại nhiều lần “Tnú không cứu sống được Mai” – “Tnú không cứu sống
được mẹ con Mai” – “Tnú khơng cứu được vợ con”…để khắc ghi vào tâm trí
người nghe một chân lí của thời đại : chừng ấy phẩm chất (gan góc, quả cảm,

22


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

tình yêu sâu sắc …) là chưa đủ để cứu sống mẹ con Mai mà phải là “chúng nó
đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
+ Tnú được giải thốt khi dân làng Xơ Man đã cầm vũ khí, đứng dậy đấu
tranh, bảo vệ bn làng ; vượt lên nỗi đau đớn, bi kịch cá nhân, Tnú quyết tâm
gia nhập lực lượng giải phóng, giết giặc trả thù cho gia đình, q hương, góp
phần bảo vệ bn làng.
+ Bước đường đời của Tnú đại diện cho con đường của các dân tộc Tây
Nguyên trong khói lửa đấu tranh. Câu chuyện bi tráng ở một con người mang ý
nghĩa của một dân tộc.
- Phản biện của bản thân (bổ sung ý kiến) :
+ Hai ý kiến đều đúng và sâu sắc, tuy khác nhau, tưởng đối lập nhưng thực
ra là bổ sung cho nhau cùng khẳng định vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng Tnú.
+ Đó là sự hịa hợp cuộc đời và tính cách, cá nhân và cộng đồng để tạo nên
vẻ đẹp toàn vẹn của một hình tượng giàu chất sử thi.
+ Có được vẻ đẹp tồn vẹn đó là do nhà văn khơng chỉ có dun mà cịn đã

gắn bó sâu nặng với mảnh đất Tây Nguyên hùng vĩ ; không chỉ là “tôi u say
mê cây xà nu từ ngày đó” mà cịn cùng ăn, cùng ngủ, cùng chiến đấu với đồng
bào Tây Ngun, để rồi mang khơng khí đau thương mà anh dũng của một thời
khói lửa thổi vào tác phẩm, và rồi ghi một giấu ấn cho văn học cách mạng Việt
Nam bằng sự bất tử của hình tượng Tnú.
- Tiểu kết về đối tượng, đánh giá khái quát những ý kiến trên, nhấn mạnh
quan điểm của cá nhân.
c. Kết thúc vấn đề
Như vậy, Tnú vừa là một điển hình cho tính cách con người Tây Ngun
vừa là một điển hình cho con đường đấu tranh cách mạng của người làng Xơ
Man. Hai vẻ đẹp tập trung ở một hình tượng đặc sắc.
3.3.2.3. Phản biện ở cấp độ đoạn trích, tác phẩm
Hướng dẫn đề 10 :
Đề bài :

23


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học

Nói về cảnh ơng Huấn Cao cho chữ viên quản ngục (trong Chữ người tử tù
– Nguyễn Tuân), có người cho rằng : đây là “sự nổi loạn của cái đẹp” ; một
người khác lại nhận định : đó là “sự tỏa sáng của những tấm lòng”.
Ý kiến của anh/chị như thế nào?
Hướng dẫn :
a. Đặt vấn đề :
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm ; cảnh cho chữ ; hai nhận định về cảnh cho chữ.
b. Giải quyết vấn đề :
- Phân tích khái quát tình huống truyện dẫn đến cảnh cho chữ.
- Phân tích khái quát cảnh cho chữ :

+ Lí giải “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”
+ Giá trị nội dung, tư tưởng của cảnh cho chữ
+ Giá trị nghệ thuật của cảnh cho chữ
- Nêu các ý kiến về cảnh cho chữ. Nhất trí cách đánh giá như trên. Phân
tích làm rõ từng ý kiến đã nêu :
* Về ý kiến đây là “sự nổi loạn của cái đẹp” :
+ Đây là một ý kiến đúng.
+ Cái đẹp (theo quan niệm của Nguyễn Tuân) là sự kết hợp hài hòa : Tài –
Tâm – Khí phách. Điều này tập trung ở hình tượng Huấn Cao : vừa là đấng tài
hoa, vừa là một trang hào kiệt, cùng với một tấm lòng thuần khiết nằm ngay
trong cái vẻ kiêu bạc, gai góc.
+ Cái đẹp đã nổi loạn trong cảnh ông Huấn Cao cho chữ viên quản ngục để
làm nên một cảnh tượng xưa nay chưa từng có.
+ Việc cho chữ - hoạt động sáng tạo cái đẹp - vốn chỉ diễn ra ở nơi tao nhã,
thư phòng, nay được diễn ra giữa nhà tù, nơi ngự trị của bóng tối, cái ác, những
thứ thù địch với cái đẹp.
+ Bút pháp lãng mạn được phát huy tột độ : sự tương phản gay gắt ; bóng
tối và cái ác làm nền cho sự xuất hiện của “một tấm lụa bạch còn nguyên vẹn
lần hồ”, “tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván”, “phiến lụa óng” ; trên tấm
lụa ấy – điểm sáng nhất của vùng sáng ấy - là từng nét chữ đang tượng hình,
từng con chữ đang ra đời, cái đẹp đang được khai sinh…
+ Một cuộc đảo lộn ghê gớm đang diễn ra trong vị thế của các nhân vật ;
ranh giới tội phạm và cai tù đã bị xóa bỏ, chỉ còn là những tri kỉ đang quy tụ,
quây quần xung quanh cái đẹp của tình người và nghệ thuật ; mọi thứ nơi đây đã
bị đảo lộn, tác giả của sự đảo lộn này chính là cái đẹp : tất cả mọi người đang
sống đẹp, hành động theo tiếng gọi thiêng liêng của cái đẹp.
24


Rèn luyện năng lực viết văn cho học sinh THPT qua phản biện văn học


+ Sự nổi loạn của cái đẹp đã cứu được quản ngục – “cái đẹp sẽ cứu vớt
con người” (1).
* Về ý kiến đó là “sự tỏa sáng của những tấm lòng” :
+ Đây cũng là một ý kiến đúng, sâu sắc.
+ Huấn Cao cho chữ khơng phải là thanh tốn nợ nần với quản ngục,
cũng khơng phải vì sắp bị tử hình mà đem những tài sản cuối cùng cho người ở
lại, cũng không phải cơ hội cuối cùng để phô diễn tài hoa. Đây là việc làm của
một tấm lòng đền đáp một tấm lòng trong thiên hạ. Ở đây, cái tâm đang điều
khiển cái tài, cái tài đang phụng sự cái tâm. Nói đúng hơn là cái tài cái tâm đang
hòa vào nhau để tạo nên cái đẹp.
+ Thái độ khúm núm của viên quản ngục, run run của thày thơ lại trước
tư thế đường hoàng, đĩnh đạc của Huấn Cao đã làm hiện lên “cái tấm lòng biệt
nhỡn liên tài” của họ. Ngục quan nói một câu mà dịng nước mắt rỉ vào kẽ
miệng làm cho nghẹn ngào : “Kẻ mê muội này xin bái lĩnh”. Điều đó chứng
minh thêm “tính cách dịu dàng và lòng biết giá người, biết trọng người ngay
của viên quan coi ngục này là một thanh âm trong trẻo chen vào giữa một bản
đàn mà ở đó nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ”.
- Ý kiến phản biện của bản thân (bổ sung lời bình) :
+ Hai ý kiến trên đều đúng và không đối lập nhau. Chúng là hai khía cạnh
của một vấn đề. Chúng bổ sung, soi sáng nhau : nhờ có những tấm lịng tỏa sáng
mà cái đẹp mới nổi loạn được ; ngược lại, cái đẹp nổi loạn đã làm tỏa sáng
những tấm lịng. Nói cách khác, cái đẹp nằm ngay trong những tấm lòng, những
tấm lòng là cái đẹp của cuộc hạnh ngộ.
+ Người ta cũng nhìn thấy cái đẹp và những tấm lòng ấy ở ngay trong con
người Nguyễn Tuân – một trí thức yêu nước.
- Tiểu kết về cảnh cho chữ
c. Kết thúc vấn đề
Có thể nói, cảnh cho chữ trong tác phẩm này là một thành công đặc biệt
của Nguyên Tuân. Nó cho thấy, nhà văn đã dồn hết bút lực của mình để ghi một

dấu ấn vào văn học lãng mạn Việt Nam, giai đoạn 1930-1945. Trong cảnh cho
chữ này, “sự tỏa sáng của những tấm lòng” đã làm nên “sự nổi loạn của cái
đẹp” – một sự nổi loạn cao đẹp!
(1)

Đôxtoievxki
25


×