Tải bản đầy đủ (.ppt) (41 trang)

Lịch sử địa phương: Nét đẹp trong văn hóa ẩm thực Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.47 MB, 41 trang )


NÐt ®Ñp giao tiÕp trong v¨n hãa
Èm thùc Hµ Néi
Tæ 4 ~ 11D1

I- VAI TRß Vµ §ÆC TR¦NG TI£U BIÓU CñA ÈM THùC
Hµ NéI

Nền văn hóa ẩm thực miền bắc với
địa điểm tiêu biểu là Hà Nội - kinh
đô của nhiều triều đại - một đô thị
nghìn tuổi, in đậm cốt cách của một
tầm văn hóa cao. Trước hết là thanh
lịch .

Nấu và thưởng thức các món ăn là
cả một nghệ thuật của người Hà
Nội, chẳng thế mà cho đến tận bây
giờ thói quen ấy vẫn tồn tại và trở
thành một nét văn hóa riêng độc
đáo, hấp dẫn bất cứ ai khi mới đặt
chân đến nơi này. Cái tinh tế trong
ẩm thực Hà Nội thể hiện ở cách chế
biến, cách thưởng thức đúng cách, ở
tấm lòng người trao kẻ nhận.

Mỗi món ăn Hà Nội đều có hương vị,
nét đẹp riêng và đặc biệt là có
truyền thống, cách thưởng thức
truyền đời, chẳng thế mà nó không
chỉ là những thức ăn thông thường


mà được nâng lên thành nghệ thuật
ẩm thực

NÐt ®Ñp giao tiÕp trong v¨n hãa Èm thùc

Phong cách ẩm thực nâng văn hóa ẩm thực lên tầm cao hơn. Những biểu hiện giao
lưu trong nghệ thuật ẩm thực phong phú và đa dạng đã trở thành triết lí : “Lời chào
cao hơn mâm cỗ”;“Ăn trông nồi ngồi trông hướng”… Trong mâm cơm của người
Việt luôn có những phép tắc nhất định.

Thứ nhất, nếu bạn là khách được mời đến dùng cơm thì khi ngồi vào bàn phải để
chủ nhà hoặc người lớn tuổi nhất trong gia đình lên tiếng mời trước. Chú ý là không
nên đội mũ vào bàn ăn vì như thế được xem là bất lịch sự. Khi gắp thức ăn hoặc
chan canh, trước hết phải để vào bát (chén) rồi mới đưa lên miệng ăn. Tóm lại, bạn
nên tránh để phát ra bất kì âm thanh gì khi ăn uống, nhất là tiếng gõ muỗng đũa
lách tách, tiếng uống nước rột roạt hay nói chuyện trong lúc nhai thức ăn

Thứ hai, bạn cũng nên
chú ý phải nhường nhịn người khác,
không nên gắp trước những miếng
to, ngon, khi sử dụng các loại nước
chấm hay gia vị cũng thế. Và khi đã
cầm đũa lên thì không nên tỏ thái
độ phân vân không biết gắp món gì
trên bàn ăn. Đặc biệt, bạn nên ăn
hết thức ăn trong bát, dĩa của mình
tránh để thức ăn thừa, không nên
đứng lên trước khi mọi người còn
đang ăn. Bên cạnh đó, người Việt
Nam còn có thói quen xỉa răng sau

khi ăn, vì thế động tác xỉa răng
cũng phải được thực hiện một cách
có ý tứ bằng cách lấy tay che miệng
lại



Văn hóa tinh thần của người Việt trong ẩm thực chính là sự thể hiện
nét đẹp trong văn hóa giao tiếp, là sự cư xử giữa người với người
trong bữa ăn, làm vui lòng nhau qua thái độ ứng xử lịch lãm, có giáo
dục. Việc ăn uống đều có những phép tắc, lề lối riêng, từ bản thân,
đến trong gia đình, rồi các mối quan hệ ngoài xã hội.

Trong gia đình: ăn chung mâm, ưu tiên thức ăn ngon cho người lớn
tuổi, trẻ nhỏ"kính trên nhường dưới", thể hiện sự kính trọng, tình cảm
yêu thương. Bữa cơm hàng ngày được xem là bữa cơm xum họp gia
đình, mọi người quây quần bên nhau, cùng nhau vui vầy sau một ngày
làm việc mệt nhọc.
Ngoài xã hội: việc mời khách đến
nhà thể hiện nét văn hóa giữa người
với người trong xã hội. Khi có dịp tổ
chức ăn uống, gia chủ thường làm
những món ăn thật ngon, nấu thật
nhiều để đãi khách. Chủ nhà thường
gắp thức ăn mời khách, tránh việc
dừng đũa trước khách, và có lời mời
ăn thêm khi khách dừng bữa. Bữa
cơm thiết không chỉ đơn thuần là
cuộc vui mà còn thể hiện tấm lòng
hiếu khách đặc trưng của người Việt.




Người Hà Nội coi trọng nét văn hóa trong sự ăn uống, quý điều thanh lịch. Ca dao,
tục ngữ có câu: “Dù no dù đói cho tươi” ; “Chớ eo xèo khi đãi khách, đùng hậm hạch
lúc ăn cơm” ; “ Rượu ngon chớ để mềm môi. Thịt ngon phải nhớ nhường người cùng
ăn” Bản thân mỗi người phải biết giữ gìn, thận trọng trong khi ăn, cũng như đề cao
danh dự của mình: “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, hay “ăn phải nhai, nói phải
nghĩ”

Trong bữa cơm, người phụ nữ cao tuổi nhất, bà hoặc mẹ, hoặc chị gái lớn, là người
ngồi đầu nồi, một chỗ không phải là danh dự nhưng là để cầm cân nẩy mực, để vừa ăn
vừa trông chừng, vừa xới cơm phục vụ cả nhà.
Trên mâm, miếng ngon nhất bao
giờ cũng được gắp cho người cao
tuổi nhất, nhưng kỳ lạ, miếng ấy
sẽ được truyền đi truyền lại để
cuối cùng là vào bát người ít tuổi
nhất, vào em bé nhất nhà Câu
cửa miệng “Ăn trông nồi, ngồi
trông hướng” luôn được mọi người
chú ý thực hiện trong mọi gia đình
Hà Nội. Hà Nội luôn có nhiều thực
phẩm ngon lành, vì thế mà người
phụ nữ luôn tìm ra các món vừa
ngon, vừa đẹp, dễ ăn, rẻ tiền cho
gia đình mình.




Vào bữa, một thủ tục đầu tiên và là nghi thức bắt buộc cho mọi gia đình
giàu nghèo, sang hèn là phải mời. Ăn xong, lặp lại, cũng phải mời. Có
mâm cỗ, chủ nhân sơ suất quên mất lời mời, khách không ai cầm đũa, sau
sực nhớ ra, xin lỗi, bữa cỗ mới được bắt đầu chính là "Lời chào cao hơn
mâm cỗ”. Chào ở đây chính là lời mời vậy, cũng như vào đâu, chưa có lời
mời ngồi thì người Hà Nội không bao giờ ngồi.

Lời mời là người bé mời người lớn trước. Thái độ trân trọng, lễ phép. Ví
dụ: Cháu mời ông xơi cơm, mời bà xơi cơm. Con mời bố mẹ xơi cơm rồi
đến anh, đến chị Không bao giờ có thể mời theo kiểu: ông bà ăn cơm,
bố mẹ ăn cơm, mà nói nhanh thành ông bà câm, bố mẹ câm Không
những thế, còn phải có chữ "ạ" phía sau nữa. Xong bữa, cũng phải mời:
Mời ông bà xơi cơm, con xin phép ạ rồi mới được đứng lên. Càng không
mời chào theo kiểu giao hẹn: Mẹ ăn cơm nhé Sắc thái của chữ Xơi và
chữ ăn rất khác nhau, gia đình nền nếp Hà Nội luôn coi trọng nó. Chữ "ạ"
phía cuối câu cũng vậy, chứ không thể nói trống không, nói lửng lơ kiểu
bằng vai cá mè một lứa.

Mét sè ®Æc s¶n tiªu biÓu cña Hµ Néi


Ẩm thực miền Bắc: món ăn có vị vừa phải, không quá nồng nhưng lại
có màu sắc sặc sỡ, thường không đậm các vị cay, béo, ngọt, chủ yếu
sử dụng nước mắm loãng, mắm tôm. Hà Nội được xem như tinh hoa
ẩm thực của miền Bắc với những món ăn ngon như phở, bún thang,
bún chả, bún ốc, cốm làng Vòng, bánh cuốn Thanh trì và gia vị đặc
sắc như tinh dầu cà cuống, rau húng Láng.

Từ xa xưa và cho đến tận bây giờ, nấu và thưởng thức các món ăn là
cả một nghệ thuật của người Hà Nội, trở thành một nét văn hóa riêng

độc đáo, hấp dẫn bất cứ ai ngay từ khi mới đặt chân đến nơi này.

Cái tinh tế trong ẩm thực Hà Nội thể hiện ở cách chế biến, cách
thưởng thức đúng cách và cả ở tấm lòng người trao kẻ nhận. Mỗi món
ăn Hà Nội đều có hương vị, nét đẹp riêng và đặc biệt là có truyền
thống trong cách thưởng thức, nó không chỉ là những thức ăn thông
thường mà còn được nâng lên thành nghệ thuật ẩm thực

Riêng các món quà thì Hà Nội đã
nâng nghệ thuật ăn uống lên cao
nhiều bậc. Ẩm thực Hà Nội được
nhắc đến nhiều trong thơ ca, các
nhà văn, nhà báo như Phạm Đình
Hổ, Cao Bá Quát, Vũ Bằng, Nguyễn
Tuân, Thạch Lam, Băng Sơn, Mai
Khôi Có thể kể ra đây một loạt
các đặc sản ẩm thực Hà Nội qua
những câu ca dao, tục ngữ truyền
khẩu: bánh trôi làng Gạ, bún làng
Sùi và làng Tứ Kỳ, cá rô đầm Sét,
sâm cầm Hồ Tây, cam Canh, bưởi
Diễn, chuối Sù, , bánh cuốn Thanh
Trì,

PHë


Hà Nội vốn đẹp và nổi tiếng
bởi có hương hoa sữa nồng
nàn len lỏi trong những con

phố cổ kính, với mặt hồ lung
linh và những món ăn đã đi
vào huyền thoại. Phở là một
trong những huyền thoại đẹp
và là niềm tự hào của người
Hà Nội xưa và nay.

Phở là một thứ quà đặc biệt
của Hà Nội, Phở ngon phải là
phở "cổ điển", nấu bằng thịt
bò, "nước dùng trong và ngọt,
bánh dẻo mà không nát, thịt
mỡ gầu giòn chứ không dai,
chanh ớt với hành tây đủ cả",
"rau thơm tươi, hồ tiêu bắc,
giọt chanh cốm gắt, lại điểm
thêm một ít cà cuống, thoảng
nhẹ như một nghi ngờ".

Nguyễn Tuân, nhà văn của
"Một thời vang bóng" đã có
một tùy bút xuất sắc về phở.
Ông cho phở có một "tâm
hồn", phở là "một miếng ăn
kỳ diệu của tất cả người Việt
Nam chân chính



CH¶ C¸ L· VäNG




Vốn là một món ăn dân gian do gia
đình họ Đoàn chế biến để bán trong
thời gian chống Pháp, nhằm che mắt
địch và tạo điều kiện cho hoạt động
chống Tây của một nhóm người yêu
nước được dễ dàng. Chả cá đã trở
thành món ăn khoái khẩu của thực
khách sành ăn Hà Nội. Lâu dần, hai
tiếng chả cá được gọi thành tên phố
và nó đã trở thành một trong những
địa chỉ văn hoá vật chất nổi tiếng của
Hà Nội xưa - nay.

Người sành ăn phải đợi đến khi cái rét
bắt đầu về, đi ăn Chả cá mới ngon. Cá
làm chả lại phải là cá Lăng thật tươi
mới đúng vị, vì cá Lăng ít xương, lại
ngọt thịt và thơm.

Thịt cá phải lạng từ hai bên sườn, thái
mỏng ướp với nước riềng, nghệ, mẻ,
hạt tiêu, nước mắm rồi kẹp vào cặp
tre nướng trên lò than hoa hồng rực
đặt ngay trên bàn ăn của khách.
Người nướng phải khéo sao cho cá
chín vàng đều hai bên sau đó gỡ ra
bát, rưới mỡ đang sôi lên trên. Ăn chả

phải ăn nóng, kèm với bánh đa nướng
hay bún rối, lạc rang, rau mùi, húng
láng, thì là, hành củ tươi chẻ nhỏ
chấm với mắm tôm, vắt nhiều chanh
tươi đánh sủi lên rồi tra thêm một
chút tinh cà cuống, thêm vài giọt rượu
trắng.

×