Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

ĐÁP ỨNG NHU CẦU GIÁO DỤC MẦM NON TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.29 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ
000
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
ĐÁP ỨNG NHU CẦU GIÁO DỤC MẦM NON TRÊN ĐỊA
BÀN HÀ NỘI- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giáo viên hướng dẫn: ThS. Ninh Thị Hoàng Lan
Nhóm thực hiện: Lê Thị Tú Linh- 45F3
Nguyễn Thị Hoa- 45F3
Nguyễn Thành Công- 45F3
Hà Nội- 2012
Trước tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Ban Giám hiệu Trường
Đại
học Thương Mại và các thầy cô trong trường nói chung và thầy cô bộ môn Kinh
tế Vi mô- khoa Kinh tế nói riêng, những người đã dạy dỗ và giúp đỡ chúng em
trong thời gian làm đề tài nghiên cứu khoa học. Đăc biệt chúng em xin gửi lời
cảm
ơn chân thành tới ThS. Ninh Thị Hoàng Lan đã tận tình hướng dẫn và góp ý
cho
chúng tôi trong suốt quá trình làm đề tài nghiên cứu này.
Chúng em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong Bộ Giáo
Dục- Đào Tạo cũng như Ban Quản Lý Thư viện Quốc Gia những người đã
nhiệt
tình giúp đỡ chúng em trong quá trình thu thập thông tin cũng như các số liệu
liên
quan đến đề tài nghiên cứu.
Tuy nhiên dù đã cố gắng hết sức nhưng đề tài của chúng em cũng không thể
tránh khỏi những sai sót trong quá trình làm bài, rất mong được thầy cô và các
bạn giúp đỡ và đóng góp ý kiến để chúng em tiếp thu được vốn kiến thức và
kinh
Chúng em xin chân thành cảm ơn


!CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI “ ĐÁP ỨNG NHU
CẦU GIÁO DỤC MẦM NON TẠI HÀ NỘI- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Trẻ em là mầm non tương lai của đất nước, là nguồn nhân lực dồi dào, là tài
sản quý giá của cả một thế hệ. “ Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai” câu nói đó đã
khái quát được phần nào giá trị, tầm quan trọng của lớp người nhỏ tuổi. Chính vì
mức độ quan trọng đó mà hệ thống giáo dục mầm non nước ta mang trong mình
trọng trách vô cùng quan trọng và cũng không kém phần nặng nề. Giáo dục mầm
non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân, là bậc học cơ bản đóng
vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách, thể chất, trí tuệ, tình cảm, thẩm
mỹ của trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em hòa nhập với môi trường mới. Giáo dục
mầm non như là chiếc nôi đầu tiên để hình thành, đào tạo nên những tác phẩm
nghệ thuật” mà ở đây có giá trị vô cùng lớn. Vậy giáo dục mầm non phải làm gì để
đảm đương được trọng trách quan trọng như thế. Đó không chỉ là yêu cầu về mặt
chất lượng giảng dạy mà yếu tố số lượng cũng rất quan trọng.
Sau gần 25 năm đổi mới đất nước, với sự nỗ lực chung của Đảng và nhân
dân, sự nghiệp chăm lo giáo dục mầm non của nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
to lớn: mạng lưới cơ sở giáo dục mầm non đã được thành lập đến tận làng, xã; cơ
sở vật chất và thiết bị giáo dục mầm non được nâng cấp; đội ngũ những người nuôi
dạy trẻ cơ bản đảm bảo về số lượng, được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ;
chương trình và phương pháp giáo dục được đổi mới theo hướng tiên tiến. Đặc biệt
trong những năm gần đây, giáo dục mầm non được xác định là vấn đề có tầm chiến
lược lâu dài trong việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước.
Hà Nội là thủ đô của đất nước là nơi có dân số đông thứ 2 cả nước 6913191
người trong khi cũng là vúng đứng thứ 2 về diện tích đô thị sau thành phố Hồ Chí
Minh. Dân số đông lượng trẻ em trong thành phố cũng rất đông chính vì thế mà
lượng trường mầm non công không thể đáp ứng được nhu cầu của người dân trong
thủ đô.
Từ năm 1994 từ khi Nhà nước cho ra quyết định 1447/GD-ĐT về quy định
trường lớp, mầm non tư thục thì lượng trường mầm non tư thục đã mọc lên rất

nhiều ở tất cả các tỉnh thành trên cả nước đặc biệt ở Hà Nội- nơi có dân số đông
thứ 2 cả nước, mức sống của người dân khá cao chính vì thế mà nhu cầu chọn
trường mầm non chất lượng tốt để tạo bước khởi đầu tất đẹp cho con cái của họ.
Đáp ứng được 1 phần nhu cầu về số lượng nhưng liệu chất lượng giáo dục có được
đảm bảo và giá thành đã là hợp lý
Bên cạnh những gì đã làm được thì vẫn còn tồn tại những hạn chế nhất định,
giáo dục mầm non vẫn chưa thực sự được đặt đúng vị trí trong tổng thể chính sách
phát triển giáo dục. Những khó khăn đã tồn tại trong nhiều năm gần đây mà không
có sự cải thiện. Dân số thì vẫn tiếp tục gia tăng, nhu cầu học tập ngày càng cao.
Học tập tốt trong môi trường tốt có đảm bảo có uy tín và yếu tố “ chi phí” cũng
quan trọng, đó là một trong những chỉ tiêu mà người tiêu dùng đặt ra. Trong khi đó
lượng trường, cơ sở “mầm non công” còn nhiều vấn đề nan giải và ngày càng trở
thành vấn đề bức xúc hiện nay. Chính vì thế nhóm chúng tôi lựa chon đề tài “Đáp
ứng nhu cầu giáo dục mầm non trên địa bàn Hà Nội- thực trạng và giải pháp”
để đưa ra cùng bàn luận và nghiên cứu.
1.2 Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu trong đề tài
Cũng đã có rất nhiều bài nghiên cứu về giáo dục mầm non nói riêng và giáo
dục nói chung- thực trạng và giải pháp, những bài nghiên cứu của Bộ Giáo Dục-
Đào Tạo trong thời gian qua. Ví dụ như:
Đề tài :“ Những yêu cầu đổi mới trong quản lý giáo dục mầm non”- Lê Thị
Ánh Tuyết- tạp chí giáo dục mầm non 2/1999
Đề tài: “ Những bài viết về giáo dục” – Nguyễn Văn Huyên – 1990
Đề tài: “ Giáo dục học một số lý luận và thực tiễn”- Gs. Hà Thế Ngữ- viện
khoa học giáo dục – năm 2001
Đối với giáo dục mầm non Hà Nội đã có đè tài nghiên cứu của Tiến sĩ Giáo
dục học Dương Thị Thanh Huyền “ Xã hội hóa giáo dục mầm non và những biện
pháp trên địa bàn Hà Nội”
Đối với vấn đề thực trạng nghiên cứu giáo dục mầm non công thì chưa có công
trình nghiên cứu nào một cách triệt để trên phạm vi cả nước cũng như tại thành phố
Hà Nội.

Các đề tài trên chủ yếu tập trung vào chất lượng giáo dục của nước ta và đồng thời
đưa ra các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Còn đề tài nghiên cứu của
nhóm chúng tôi tập trùn vào nghiên cứu thực trạng cung ứng giáo dục mầm non
trên địa bàn thành phố Hà Nội và đưa ra các giải pháp để đáp ứng đươc nhu cầu
của người dân Hà thành.
1.3 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Thông qua tính cấp thiết của đề tài “Đáp ứng nhu cầu giáo dục mầm non
trên địa bàn Hà Nội- thực trạng và giải pháp”. Việc nghiên cứu đề tài hướng
tới các muc tiêu chung như sau: đưa ra được các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu
về giáo dục mầm non công trên địa bàn Hà Nội
Ngoài ra cũng từ mục tiêu chung đó mà chúng tôi xác định những mục tiêu khác:
- thấy được thực trạng cung ứng giáo dục mầm non công trên đại bàn hà nội
- tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến thực trạng
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Về nội dung: tập trung nghiên cứu về thực trang cung ứng giáo dục mầm non công
và đưa ra giải pháp
Về không gian: Hà Nội
Về thời gian : Từ năm 1994-2011
1.5 Kết cấu của đề tài:
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài “Đáp ứng nhu cầu giáo dục mầm non trên
địa bàn Hà Nội- thực trạng và giải pháp”
Chương 2: Một số lý luận cơ bản về giáo dục mầm non công
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và kết quả phân tích thực trạng vấn đề đáp
ứng nhu cầu giáo dục mầm non trên địa bàn Hà Nội- thực trạng và giải pháp
Chương 4: Các kết luận và đề xuất với vấn đề đáp ứng nhu cầu giáo dục mầm non
trên địa bàn Hà Nội- thực trạng và giải pháp
CHƯƠNG II: MỘT SỐ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ GIÁO DỤC MÂM NON CÔNG
2.1 Một số khái niệm cơ bản
2.1.1 Hàng hóa công cộng
• Hàng hóa công cộng là hàng hóa và dịch vụ mang hai tính chất: không cạnh tranh

và không thể loại trừ. Đối lập với hàng hóa công cộng là hàng hóa tư nhân không
mang hai tính chất trên. Ngay trong tên gọi đã thể hiện được rằng đó là những loại
hàng hóa mà ai trong xã hội cũng có thể sử dụng.
• Không thể loại trừ: tính chất không thể loại trừ cũng được hiểu trên giác độ tiêu
dùng, hàng hóa công cộng một khi đã cung cấp tại một địa phương nhất định thì
không thể hoặc rất tốn kém nếu muốn loại trừ những cá nhân không trả tiền cho
việc sử dụng hàng hóa của mình. Ví dụ: quốc phòng là một hàng hóa công cộng
nhưng quân đội không thể chỉ bảo vệ những người trả tiền còn không bảo vệ những
ai không làm việc đó. Đối lập với hàng hóa công cộng, hàng hóa cá nhân có thể
loại trừ một cách dễ dàng, ví dụ: bảo vệ rạp hát sẽ ngăn cản những người không có
vé vào xem.
• Không cạnh tranh: tính chất không cạnh tranh được hiểu trên góc độ tiêu dùng,
việc một cá nhân này đang sử dụng hàng hóa đó không ngăn cản những người khác
đồng thời cũng sử dụng nó. Ví dụ pháo hoa khi bắn lên thì tất cả mọi người đều có
thể được hưởng giá trị sử dụng của nó. Điều này ngược lại hoàn toàn so với hàng
hóa cá nhân: chẳng hạn một con gà nếu ai đó đã mua thì người khác không thể tiêu
dùng con gà ấy được nữa. Chính vì tính chất này mà người ta cũng không mong
muốn loại trừ bất kỳ cá nhân nào trong việc tiêu dùng hàng hóa công cộng.
Trong thực tế, có một số hàng hóa công cộng có đầy đủ hai tính chất nêu
trên như quốc phòng, ngoại giao, đèn biển, phát thanh Các hàng hóa đó có chi
phí biên để phục vụ thêm một người sử dụng bằng 0, ví dụ đài phát thanh một khi
đã xây dựng xong thì nó ngay lập tức có thể phục vụ tất cả mọi người, kể cả dân
số luôn tăng. Những loại hàng hóa công cộng mà mang đủ 2 tính chất trên được
gọi là hàng hóa công cộng thuần túy
Hàng hóa công cộng không có đầy đủ 2 tính chất trên hay nó không thể
hiện được một cách rõ nét 2 tĩnh chất đó được gọi là hàng hóa công cộng không
thuần túy ví dụ như: đường giao thông, nếu có quá đông người sử dụng thì đường
sẽ bị tắc nghẽn và do đó những người tiêu dùng trước đã làm ảnh hưởng đến khả
năng tiêu dùng của những người tiêu dùng sau. Đó là những hàng hóa công cộng
có thể tắc nghẽn. Một số hàng hóa công cộng mà lợi ích của nó có thể định giá thì

gọi là hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá. Ví dụ đường cao tốc, cầu có
thể đặt các trạm thu phí để hạn chế bớt số lượng người sử dụng nhằm tránh tắc
nghẽn.
Ngoài ra ta có cách phân loại hàng hóa công cộng khác, dựa theo chủ thể
cung cấp:
Hàng hóa công cộng quốc gia: do chính quyền trung ương cung cấp cho
toàn bộ quốc gia. Những loại hàng hóa có cả hai tính chất trên ở mức cao sẽ
thường được xếp vào hàng hóa công cộng quốc gia. Một số hàng hóa công cộng
quốc gia tiêu biểu là ngoại giao, quốc phòng, chính sách lưu thông tiền tệ, v.v…
Hàng hóa công cộng địa phương: do chính quyền địa phương cung cấp chủ
yếu cho công dân địa. Hàng hóa công cộng địa phương thường chỉ mang một trong
hai tính chất nói trên hoặc mang cả hai tính chất nhưng ở mức độ không cao. Một
số hàng hóa công cộng địa phương tiêu biểu là giáo dục phổ cập, y tế cộng đồng,
vệ sinh môi trường, cung cấp nước sạch, v.v…
Hơn nữa, tính không cạnh tranh trong tiêu dùng của hàng hóa công cộng
không bó hẹp trong phạm vi địa phương, quốc gia mà còn có tính chất quốc tế. Tri
thức có thể coi là một hàng hóa công cộng quốc tế, mọi người dân trên thế giới đều
có thể được hưởng lợi ích do tri thức đem lại.
Làm thế nào để cung cấp hàng hóa công cộng một cách hiệu quả mà tránh
được những “ kẻ ăn không”. Theo các nhà kinh tế học khác nhau thì ta có những
cách cung cấp hàng hóa công cộng khác nhau
• Cung cấp hàng hóa công cộng một cách có hiệu quả
Điều kiện Samuelson: muốn xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng một
cách hiệu quả, cần xác định đường cung và đường cầu của nó. Mỗi cá nhân có một
ngân sách nhất định và có nhu cầu khác nhau về hàng hóa công cộng (G) và hàng
hóa cá nhân (X), nếu giá của hàng hóa công cộng là t (mức thuế cá nhân phải trả)
và của hàng hóa cá nhân là p thì đường ngân sách của cá nhân sẽ có dạng:
I = pX + tG. Ở mỗi mức thuế khác nhau, cá nhân sẽ có cầu về hàng hóa công cộng
khác nhau và để tối đa hóa lợi ích, mỗi cá nhân sẽ có tỷ suất thay thế biên giữa
hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân bằng tỷ số giá giữa chúng (t/p). Đường

cầu của mỗi cá nhân về hàng hóa công cộng cũng chính là tỷ suất thay thế biên nên
đường cầu tổng hợp của tất cả các cá nhân là tổng tỷ suất thay thế biên. Mặt khác
đường cung về hàng hóa công cộng phản ánh chi phí biên mà xã hội phải bỏ ra để
sản xuất nó và để tối ưu hóa lợi ích, đường cung này cũng chính là tỷ suất chuyển
đổi biên giữa hàng hóa công cộng và hàng hóa cá nhân. Nhà kinh tế học Paul
Samuelson đã chứng minh rằng, để hàng hóa công cộng được cung cấp một cách
hiệu quả thì tổng tỷ suất thay thế biên của các cá nhân phải bằng tỷ suất chuyển đổi
biên hay tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá đối với đơn vị hàng hóa công cộng
cuối cùng bằng chi phí tăng thêm cho xã hội để sản xuất nó. Dó chính là điều kiện
Samuelson về cung cấp hiệu quả hàng hóa công cộng. Tuy vậy, kể cả khi đã xác
định được mức cung cấp hiệu quả thì việc thực thi chúng lại còn phụ thuộc vào quá
trình lựa chọn công cộng nên không phải lúc nào cũng đạt được mức hiệu quả
Cân bằng Lindahl: theo các điều kiện của hiệu quả Pareto, hàng hóa công
cộng sẽ được cung cấp một cách hiệu quả nếu tổng giá trị mà các cá nhân đánh giá
đối với đơn vị hàng hóa công cộng cuối cùng bằng chi phí tăng thêm đối với xã hội
để cung cấp nó. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là hàng hóa công cộng thuần túy không có
thị trường để trao đổi như hàng hóa cá nhân, nơi mà cân bằng thị trường do cung
cầu quyết định, do vậy việc xác định điểm cân bằng hiệu quả gặp khó khăn. Để
giải quyết vấn đề xác định mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy một cách
có hiệu quả, nhà kinh tế học người Thụy Điển Erik Lindahl đã xây dựng một mô
hình mô phỏng mô hình thị trường cho hàng hóa công cộng gọi là cân bằng
Lindahl. Mô hình này xác định nhu cầu của mỗi cá nhân về một loại hàng hóa công
cộng thuần túy tương ứng với mức thuế (chính là giá của hàng hóa công cộng) ấn
định cho cá nhân đó, mức cung cấp hàng hóa công cộng thuần túy có hiệu quả là
mức mà cầu của các cá nhân đều như nhau. Lưu ý rằng mức cầu của mỗi cá nhân
tương ứng với những mức thuế khác nhau nên cân bằng Lindahl khác với cân bằng
thị trường hàng hóa cá nhân khi mà ở đó cân bằng thị trường ở mức giá như nhau
đối với mọi cá nhân.
Thế nhưng mô hình cân bằng Lindahl trong thực tế lại vấp phải vấn đề kẻ đi
xe không trả tiền. Để xác định đúng mức cung cấp hàng hóa công cộng hiệu quả,

các cá nhân phải thực hiện nguyên tắc nhất trí và tự nguyện đóng góp đồng thời
phải bộc lộ một cách trung thực nhu cầu của mình về hàng hóa công cộng. Nếu
một cá nhân biết được số tiền mà cá nhân khác sẵn sàng đóng góp để có hàng hóa
công cộng thì người đó có thể bộc lộ nhu cầu của měnh về hŕng hóa công cộng
cũng như số tiền sẵn sàng đóng góp ít hơn thực tế. Trong trường hợp cực đoan, nếu
một người biết rằng việc mình có trả tiền hay không cũng không ảnh hưởng gì đến
việc cung cấp hàng hóa công cộng thì anh ta sẽ không trả tiền - hiện tượng kẻ đi xe
không trả tiền. Nếu có rất ít kẻ đi xe không trả tiền thì hàng hóa công cộng vẫn có
thể được cung cấp một cách hiệu quả. Trong những cộng đồng nhỏ, khi mà mọi cá
nhân biết rõ nhau nên việc che giấu nhu cầu về hàng hóa công cộng khó thực hiện
thì dư luận, áp lực cộng đồng có thể buộc mọi người đóng góp đầy đủ để có hàng
hóa công cộng. Ví dụ: một xóm có thể yêu cầu các hộ gia đình đóng góp để bê tông
hóa con đường chung một cách khá dễ dàng. Tuy nhiên, trong cộng đồng lớn thì
vấn đề trở nên rất phức tạp, không thể hoặc phải tốn chi phí rất lớn mới có thể loại
trừ những kẻ đi xe không trả tiền. Đặc biệt nếu hàng hóa công cộng do tư nhân
cung cấp thì họ không có công cụ, chế tài để buộc những người sử dụng trả tiền.
Đây chính là nguyên nhân quan trọng khiến khu vực tư nhân không muốn
cung cấp hàng hóa công cộng. Vì thế, chính phủ phải đóng vai trò cung cấp hàng
hóa công cộng và thu các khoản đóng góp thông qua thuế.
Cùng với sự phát triển của công nghệ, tính chất không thể loại trừ ngày càng
bị hạn chế. Hiện tượng đi xe không trả tiền, vì thế, có thể ngăn chặn dễ hơn. Ví dụ,
nhờ sự phát triển của công nghệ truyền hình, ngày nay đài truyền hình có thể cung
cấp dịch vụ qua đường cáp thuê bao, qua đầu thu có cài mã khóa, nên có thể ngăn
chặn tốt những người không chịu mất tiền mà vẫn xem được truyền hình. Điều này
giải thích tại sao, gần đây, tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn vào việc cung cấp
hàng hóa công cộng.
• Tính không hiệu quả khi khu vực tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng
Để chứng minh cho sự không hiệu quả khi khu vực tư nhận tham gia cung
cấp hàng hóa công cộng ta xét trong một ví dụ cụ thể
Cây cầu - một ví dụ về hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá nhưng

điều đó là không được mong muốn
Đối với những hàng hóa công cộng có thể loại trừ bằng giá thì để ngăn chặn
tình trạng tắc nghẽn, cần áp dụng việc thu phí để những người tiêu dùng có thể
được hưởng đầy đủ lợi ích do hàng hóa công cộng mang lại. Tuy nhiên nếu mức
phí quá cao (chẳng hạn do chi phí giao dịch để thực hiện cơ chế loại trừ lớn) thì số
lượng người sử dụng có thể thấp hơn điểm gây tắc nghẽn quá nhiều dẫn đến tổn
thất phúc lợi xã hội. Trong trường hợp khu vực tư nhân đứng ra cung cấp hàng hóa
cộng cộng thì mức phí họ thu của người tiêu dùng sẽ khiến cho tổn thất phúc lợi xã
hội xảy ra. Hình bên là đồ thị minh họa trường hợp một cây cầu có công suất thiết
kế là Qc, trong khi nhu cầu đi lại tối đa qua đó chỉ là Qm. Nếu việc qua cầu miễn
phí thì sẽ có Qm lượt người đi qua nhưng nếu thu phí ở mức p thì chỉ còn Qe lượt
và xã hội bị tổn thất một lượng bằng diện tích hình tam giác bôi đậm. Do vậy, đối
với hàng hóa công cộng mà chi phí biên để cung cấp bằng 0 hoặc không đáng kể
thì hàng hóa đó nên được cung cấp miễn phí, kể cả khi nó có thể được loại trừ bằng
giá.
Một nguyên nhân nữa khiến cho tư nhân cung cấp hàng hóa công cộng
không hiệu quả là nó thường có xu hướng được cung cấp với số lượng ít. Một
người có vườn bên đường được trồng hoa thì cả khu vực gần đó sẽ tăng vẻ mỹ
quan cũng như nhiều người cùng được thưởng thức vẻ đẹp của hoa. Thế nhưng
người trồng hoa sẽ cân đối thời gian, chi phí bỏ ra với nhu cầu thưởng thức vẻ đẹp
của hoa của cá nhân mình chứ không tính đến nhu cầu của những người hàng xóm,
chính vì vậy người đó nhiều khả năng sẽ trồng ít hoa đi.
• Hàng hóa công cộng có thể loại trừ nhưng với phí tổn rất lớn
Có những hàng hóa công cộng mà chi phí để duy trì hệ thống quản lý nhằm
loại trừ bằng giá (gọi là chi phí giao dịch) rất tốn kém, ví dụ chi phí để duy trì hệ
thống các trạm thu phí trên đường cao tốc, thì có thể sẽ hiệu quả hơn nếu cung
cấp nó miễn phí và tài trợ bằng thuế. Tuy vậy, để cân nhắc việc này cần so sánh tổn
thất phúc lợi xã hội trong hai trường hợp. Đồ thị bên phải mô tả việc lựa chọn này.
Giả sử hàng hóa công cộng có chi phí biên để sản xuất là c và do phát sinh thêm
chi phí giao dịch nên giá của nó bị đẩy lên tới p. Mức cung cấp hàng hóa cộng

cộng hiệu quả nhất là khi chi phí biên bằng lợi ích biên nghĩa là Qo. Tuy nhiên do
giá bị đẩy lên p bởi chi phí giao dịch nên chỉ còn Qe người sử dụng hàng hóa, xã
hội bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích tam giác ABE. Thế nhưng nếu
hàng hóa được cung cấp miễn phí thì sẽ có Qm người sử dụng chứ không phải Qo.
Trong trường hợp này lợi ích biên (chính là đường cầu) nhỏ hơn chi phí biên c nên
xã hội cũng bị tổn thất một lượng phúc lợi bằng diện tích hình tam giác EFQm do
tiêu dùng quá mức. Trong trường hợp này chính phủ muốn quyết định xem nên
cung cấp hàng hóa công cộng miễn phí hay thu phí cần phải so sánh tổn thất phúc
lợi xã hội, nếu tổn thất do tiêu dùng quá mức nhỏ hơn tổn thất trong trường hợp
tiêu dùng dưới mức hiệu quả thì cung cấp miễn phí và ngược lại. Tuy nhiên việc
cung cấp hàng hóa cộng cộng miễn phí hay thu phí hoàn toàn không liên quan đến
khu vực công cộng hay khu vực tư nhân sẽ sản xuất nó. Nếu chính phủ thấy rằng
một hàng hóa công cộng nào đó cần được cung cấp miễn phí thì chính phủ hoàn
toàn có thể đặt hàng khu vực tư nhân sản xuất rồi cung cấp nó.
2.1.2 Dịch vụ công
2.1.2.1 Khái niệm dịch vụ công
Dịch vụ công (từ tiếng Anh là “public service”) có quan hệ chặt chẽ với
phạm trù hàng hóa công cộng.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính cho
rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc thực thi
chức năng quản lý hành chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các hàng hóa công
cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu này nhấn mạnh vai
trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động cung cấp hàng hóa công
cộng. Cách tiếp cận khác xuất phát từ đối tượng được hưởng hàng hóa công cộng
cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến hành hoạt động ấy có thể do nhà nước
hoặc tư nhân đảm nhiệm. Từ điển Petit Larousse của Pháp xuất bản năm 1992 đã
định nghĩa: “dịch vụ công là hoạt động vì lợi ích chung, do cơ quan nhà nước hoặc
tư nhân đảm nhiệm”.
Một cách đầy đủ nhất dịch vụ công có thể được hiểu là những hoạt động

phục vụ nhu cầu thiết yếu của xã hội, vì lợi ích chung của cộng đồng, của xã hội,
do nhà nước trực tiếp đảm nhận hay ủy quyền và tạo điều kiện cho khu vực tư
nhân thực hiện.
2.1.2.2 Phân loại dịch vụ công
Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tính chất của
dịch vụ, hoặc theo các hình thức dịch vụ cụ thể,…
• Xét theo tiêu chí chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành ba loại, như sau:
- Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch
vụ công cộng cơ bản do các cơ quan của nhà nước cung cấp. Thí dụ, an ninh, giáo
dục phổ thông, chăm sóc y tế công cộng, bảo trợ xã hội,…
-Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp,
gồm những dịch vụ mà Nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực tiếp
thực hiện mà uỷ nhiệm cho tổ chức phi chính phủ và tư nhân thực hiện, dưới sự
đôn đốc, giám sát của nhà nước. Thí dụ, các công trình công cộng do chính phủ gọi
thầu có thể do các công ty tư nhân đấu thầu xây dựng.
- Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư nhân
phối hợp thực hiện. Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên phổ biến ở
nhiều nước. Như ở Trung quốc, việc thiết lập hệ thống bảo vệ trật tự ở các khu dân
cư là do cơ quan công an, tổ chức dịch vụ khu phố và ủy ban khu phố phối hợp
thực hiện.
• Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch vụ công
thành các loại như sau:
- Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng quản
lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã hội
thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, thể
dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội
- Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hoá, dịch vụ cơ bản,
thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: vệ sinh môi trường, xử lý rác thải, cấp
nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai…chủ yếu do các doanh

nghiệp nhà nước thực hiện.
2.1.2.3 Các hình thức cung ứng dịch vụ công
- Các cơ quan nhà nước trực tiếp cung ứng dịch vụ công. Theo hình thức
này, nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp cung ứng dịch vụ công đối với các dịch
vụ liên quan đến an ninh quốc gia và lợi ích chung của đất nước (như quốc phòng,
an ninh, hộ tịch…) mà chỉ có cơ quan công quyền mới có đủ tư cách pháp lý để
làm. Nhà nước với vai trò chủ đạo của mình, cũng trực tiếp cung ứng các loại dịch
vụ thuộc các lĩnh vực và địa bàn không thuận lợi đầu tư (ví dụ vùng sâu, vùng xa)
mà thị trường không thể hoặc không muốn tham gia do chi phí quá lớn hay không
có lợi nhuận. Các đơn vị sự nghiệp do nhà nước thành lập để cung ứng như các
bệnh viện và trường học công, các cơ sở cung cấp điện nước…hoạt động tương tự
các công ty nhưng không vì mục tiêu lợi nhuận. Ban đầu, nhà nước đầu tư cho các
đơn vị đó, sau đó họ sẽ tự trang trải và khi cần thiết có thể nhận được sự hỗ trợ bù
đắp của nhà nước.
- Nhà nước chuyển một phần hoạt động cung ứng dịch vụ công cho thị
trường dưới các hình thức:
+ ủy quyền cho các công ty tư nhân hoặc tổ chức phi chính phủ cung ứng
một số dịch vụ công mà nhà nước có trách nhiệm bảo đảm và thường có nguôn
kinh phí từ ngân sách nhà nước như về sinh môi trường, thu gôm và xử lý rác thải,
xây dựng và xử lý hệ thống cống thoát nước…. Công ty tư nhân hoặc tổ chức phi
chính phủ được ủy quyền phải tuân thủ những điều kiện do nahf nước quy định và
được nhà nước cấp kinh phí( loại dịch vụ nào có thu tiền của người thu hưởng thì
chỉ được nhà nước cấp một phần kinh phí).
+ Liên doanh cung ứng dịch vụ công giữa nhà nước và một số đối tác trên cơ
sở đóng góp nguồn lực, chia sẻ rủi ro và cùng phân chia lợi nhuận. Hình thức này
cho phép nhà nước giảm phần đầu tư từ ngân sách cho dịch vụ công mà vẫn tham
gia quản lý trực tiếp và thường xuyên các dịch vụ này nhằm đảm bảo lợi ích chung.
+ Chuyển giao trách nhiệm cung ứng dịch vụ công cho các tổ chức khác đối
với các dịch vụ mà các tổ chức này có điều kiện thực hiện có hiệu quả như đào tạo,
khám chữa bệnh, tư vấn, giám định…(bao gồm các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ

chức xã hội…), đặc biệt là, các tổ chức này tuy là đơn vị tư nhân hoặc phi chính
phủ nhưng được khuyến kích hoạt động theo cơ chế không vì lợi nhuận, chỉ thu phí
để tự trang trải.
+ Tư nhân hoá dịch vụ công, trong đó nhà nước bán phương tiện và quyền
chi phối của mình đối với dịch vụ nào đó cho tư nhân song vẫn giám sát và đảm
bảo lợi ích công bằng pháp luật.
+ Mua dịch vụ công từ khu vực tư nhân đối với các dịch vụ mà tư nhân có
thể làm tốt và giảm được số người làm dịch vụ trong cơ quan nhà nước, như bảo
dưỡng phương tiện phòng cháy, chữa cháy, các phương tiện tin học, đáp ứng nhu
cầu về phương tiện đi lại, làm vệ sinh và công việc phục vụ trong cơ quan…
2.1.2.4 Các đặc điểm của dịch vụ công
- Dịch vụ công có tính xã hội, với mục tiêu chính là phục vụ lợi ích cộng
đồng đáp ứng nhu cầu của tất cả công dân, không phân biệt giai cấp, địa vị xã hội
và bảo đảm công bằng và ổn định xã hội, mang tính quần chúng rộng rãi.
- Dịch vụ công cung ứng loại “hàng hóa” không phải bình thường mà là
hàng hóa đặc biệt do nhà nước cung ứng hoặc ủy nhiệm cho tổ chức, cá nhân thực
hiện, đáp ứng nhu cầu toàn xã hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hình thái
hiện vật hay phi hiện vật.
- Việc trao đổi dịch vụ công không thông qua quan hệ thị trường đầy đủ.
2.1.3 Hệ thống giáo dục
Với những nguồn khác nhau thì giáo dục lại được hiểu theo một cách khác
nhau.
• Theo từ điển ta hiểu giáo dục theo 2 khía cạnh:
• Động từ: giáo dục là hoạt động nhằm tác động có hệ thống đến sự phát triển tinh
thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng ấy dần dần có được
phẩm chất, năng lực, trí tuệ, như yêu cầu đề ra giáo dục con cái trong gia đình; có
tư tưởng giáo dục tư tưởng tiến bộ.
• Danh từ: giáo dục là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy - giáo dục của
một nước
• Các giáo trình về giáo dục học ở Việt Nam đều trình bày "Giáo dục là hiện tượng

xã hội đặc biệt, bản chất của nó là sự truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử -
xã hội của các thế hệ loài người…”
• Một cách khoa học thì “giáo dục” trong tiếng Anh là "education". Đây là một từ
gốc Latin ghép bởi hai từ: "Ex" và "Ducere" _ "Ex-Ducere". Có nghĩa là dẫn
("Ducere") con người vượt ra khỏi ("Ex") hiện tại của họ mà vươn tới những gì
thiện hảo, tốt lành hơn, hạnh phúc hơn. Trong định nghĩa này, sự hoàn thiện của
mỗi cá nhân mới là mục tiêu sâu xa của giáo dục, người giáo dục (thế hệ trước) có
nghĩa vụ phải dẫn hướng, phải chuyển lại cho thế hệ sau tất cả những gì có thể để
làm cho thế hệ sau triển nở hơn, hạnh phúc hơn.
2.2 Một số lý thuyết liên quan đến vấn đề nghiên cứu
2.2.1.Cầu
2.2.1.1 Khái niệm
Cầu là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người mua muốn mua và có khả
năng mua tại các mức giá khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định, giả
định rằng các nhân tố khác là không đổi.
Cầu cá nhân là đường cầu mà tại đó mỗi người tiêu dùng tự điều hòa giữa
thị hiếu hay sở thích với thu nhập và mức giá của các loại hàng hóa.
Cầu thị trường là tổng của tất cả các đương cầu cá nhân trên thị trường đó.
Đường cầu là đường mô tả mối quan hệ giữa lượng cầu và giá cả của một hàng
hóa.Hầu hết các đường cầu dốc xuống từ trái sang phải, khi đó giá cả của hàng hóa
hoặc dịch vụ giảm thì lượng cầu tăng lên và ngược lại. Đường cầu dốc xuống do
hai lý do là hiệu ứng thay thế và hiệu ứng thu nhập.
2.2.1.2 Các yếu tố xác định cầu
Cầu là một hàm số phụ thuộc vào rất nhiều biến số:
Qd = f(P, M, P
R
, T, P
e,
N)



Trong đó:
Q
d
: cầu về hang hóa đó
P: giá của hàng hóa đó
M: Thu nhập
P
R
: Giá của hàng hóa có liên quan
T: Thị hiếu của người tiêu dùng
P
e
: Kì vọng về giá hàng hóa trong tương lai
N: Số lượng người mua
2.2.1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến hàm cầu
• Thu nhập
Khi thu nhập tăng, cầu đối với hầu hết các hàng hóa đều gia tăng vì với thu
nhập cao hơn người tiêu dùng thường có xu hướng mua hàng hóa nhiều hơn. Tuy
nhiên, cũng có những ngoại lệ, tùy thuộc vào tính chất của hàng hóa.
Ví dụ: Cầu đối với loại hàng hóa thông thường sẽ tăng khi thu nhập của
người tiêu dùng tăng. Thí dụ, người tiêu dùng sẽ mua quần áo, sẽ mua ti-vi màu, sử
dụng các dịch vụ giải trí, v.v. nhiều hơn khi thu nhập của họ tăng lên. Những hàng
hóa này là những hàng hóa thông thường. Ngược lại, cầu đối với hàng hóa thứ cấp
(hay còn gọi là cấp thấp) sẽ giảm khi thu nhập của người tiêu dùng tăng. Hàng cấp
thấp thường là những mặt hàng rẻ tiền, chất lượng kém như ti-vi trắng đen, xe đạp,
v.v. mà mọi người sẽ không thích mua khi thu nhập của họ cao hơn.
• Giá cả của hàng hóa có liên quan
Các hàng hóa liên quan được chia làm hai loại: hàng hóa thay thế và hng hóa
bổ sung.

Hàng hóa thay thế là những hàng hóa có thể sử dụng thay thế cho các hàng
hóa khác. Khi giá của một hàng hóa tăng lên thì hóa cầu của hàng hóa thay thế sẽ
tăng lên và ngược lại.
Hàng hóa bổ sung là hàng hóa được sử dụng đồng thời với hàng hóa
khác.Khi giá của một hàng hóa tăng lên thì cầu của hàng hóa bổ sung sẽ giảm
xuống và ngược lại.
• Giá cả của chính loại hàng hóa đó
Khi giá của bản thân hàng hóa đó tăng thì người tiêu dùng sẽ có xu hướng
tiêu dùng giảm đi, khi đó cầu về hàng hóa đó giảm và ngược lại.
• Thị hiếu của người tiêu dùng
Trong các phần trước, có một một yếu tố nữa được giữ cố định khi phân tích
đường cầu. Đó là thị hiếu hay sở thích của người tiêu dùng. Sở thích của người tiêu
dùng có thể chịu ảnh hưởng của phong tục, tập quán, môi trường văn hóa - xã hội,
thói quen tiêu dùng, v.v. của người tiêu dùng. Khi những yếu tố này thay đổi, nhu
cầu đối với một số loại hàng hóa cũng đổi theo.
• Số lượng người mua
Số người tiêu dùng trên thị trường đối với một hàng hóa, dịch vụ cụ thể nào
đó có ảnh hưởng quan trọng đến cầu đối với hàng hóa, dịch vụ đó. Số người tiêu
dùng trên thị trường đối với một hàng hóa, dịch vụ cụ thể nào đó có ảnh hưởng
quan trọng đến cầu đối với hàng hóa, dịch vụ đó.
• Kì vọng về giá cả
Cầu đối với một hàng hóa, dịch vụ còn có thể phụ thuộc vào sự dự đoán của
người tiêu dùng về giá của hàng hóa, dịch vụ đó trong tương lai Thông thường,
người tiêu dùng sẽ mua nhiều hàng hóa, dịch vụ hơn khi họ dự đoán giá trong
tương lai của hàng hóa, dịch vụ đó tăng và ngược lại.
2.2.2 Cung
2.2.2.1 Khái niệm
Cung là số lượng hàng hóa hoặc dịch vụ mà người sản xuất có khả năng và
sẵn sàng cung ứng ở các mức giá khác nhau trong một thời gian nhất định với điều
kiện các yếu tố khác không đổi.

Cung của từng nhà sản xuất đối với một loại hàng hóa hoặc dịch vụ là cung
cá nhân.
Cung thị trường về một loại hàng hóa hoặc dịch vụ là tổng các lượng cung
cá nhân của hàng hóa hoặc dịch vụ đó.
Đường cung là đường mô tả mối quan hệ giữa lượng cung và giá cả của
hàng hóa đó. Đường cung có chiều dốc lên từ trái sang phải đối với hầu hết các
mặt hàng tiêu dùng cá nhân.
2.2.2.2 Các yếu tố xác định cung
Cung là một hàm số phụ thuộc vào rất nhiều biến số:
Q
s
= f(P, P
i
, T, G, F, E)
Trong đó:
Q
s
: Lượng cung của hàng hóa
P: Giá của bản thân hàng hóa
T: Công nghệ
G: Các chính sách của chính phủ
P
i
: Giá của các yếu tố sản xuất
F: Số lượng người sản xuất
E: Các kỳ vọng
• Giá của các yếu tố sản xuất
Giá của các yếu tố sản xuất có khả năng ảnh hưởng đến khả năng cung ứng
sản phẩm. Nếu giá của các yếu tố sản xuất giảm sẽ dẫn đến giá thành sản xuất giảm
và cơ hội kiếm lợi nhuận cao lên, do đó các nhà suất có xu hướng sản xuất nhiều

lên.
• Công nghệ
Công nghệ là một yếu tố quan trọng góp phần nâng cao sản xuất, giảm chi
phí trong quá trình lao động . Sự cải tiến công nghệ làm cho đường cung dịch
chuyển về phía phải, nghĩa là làm tăng khả năng cung ứng lên.
• Giá của bản thân hàng hóa
Khi giá của bản thân hàng hoá tăng sẽ kích thích các nhà sản xuất sản xuất
nhiều hơn , khi đó làm cung ra thị trường tăng và ngược lại.
• Chính sách thuế
Chính sách thuế của chính phủ có ảnh hưởng quan trọng đến quyết định sản
xuất của các hãng, do đố ảnh hưởng đến việc cung sản phẩm. Mức thuế cao sẽ làm
cho phần thu nhập còn lại cho người sản xuất ít đi và họ không có ý muốn cung
hàng hóa nữa, và ngược lại.
• Số lượng người sản xuất
Số lượng người sản xuất càng nhiều thì lượng cung càng lớn.
• Các kỳ vọng
Mọi mong đợi về sự thay đổi giá của hàng hóa, giá của các yếu tố sản xuất,
chính sách thuế…đều có ảnh hưởng đến cung hàng hóa và dịch vụ. Nếu sự mong
đợi dự đoán có thuận lợi cho sản xuất thì cung sẽ được mở rộng và ngược lại.
2.2.3 Hàng hóa công tuần túy
Là loại hàng hóa công không thể định suất sử dụng và việc định suất sử
dụng là không cần thiết. Có nghĩa là mọi người đều có thể sử dụng hàng hóa. Mức
độ sử dụng phụ thuộc vào nhu cầu của họ và các quy định chung.Trong nhiều
trường hợp mức độ này không thể định suất hoặc định suất sẽ không có hiệu quả.
Như vậy hàng hóa công thuần túy là loại hàng hóa công phải bảo đảm được
đặc điểm đầu tiên là hàng hóa thuộc quyền sở hữu công cộng, không thể loại trừ
các cá nhân sử dụng chúng, bởi vì:
+) Không thể đo lường mức độ sử dụng của từng người, do đó không thể
buộc người tiêu dùng phải trả tiền trực tiếp khi sử dụng hàng hóa. Chi phí cho việc
sản xuất hàng hóa công chỉ có thể bù đắp thông qua hệ thống thuế.

Ví dụ: Chương trình quốc phòng, hệ thống đường xá, hải đăng, không khí
trong sạch…Đối với loại hàng hóa công này người ta hoàn toàn không thể định
suất hoặc loại trừ một cá nhân nào đó trong việc sử dụng hàng hóa. Điều đó là

×