Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng hàng hóa trong xu thế hội nhập thị trường của các doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.58 KB, 38 trang )

Lời mở đầu
Nhiều năm đã đi qua sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bản đồ địa lý
kinh tế, chính trị thế giới đã đợc phân bố lại. Sự thành công hay thất bại của từng
quốc gia đã đợc thời gian khẳng định nh giá trị chung của quá trình phát triển
nhân loại. Một trong những nớc thành công trong công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế xã hội phải kể đến Nhật Bản và các nớc NICs, Châu á tất nhiên
không thể dựa vào một vài khía cạnh kinh tế xã hội để định giá sự phát triển,
song nhiều công trình nghiên cứu của các nhà khoa học thế giới, đặc biệt là các
nhà hoạch định chính sách đều khẳng định đợc mấu chốt ở chỗ các nớc đều phát
triển nền kinh tế thị trờng và mở rộng giao lu quốc tế. Quá trình khu vực hoá và
toàn cầu hoá trong quan hệ kinh tế quốc tế không còn là xu hớng mà đã trở thành
quy luật khách quan. Tuy nhiên để thúc đẩy nhanh chóng quá trình hội nhập phụ
thuộc ít nhiều vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mỗi nớc trong đó việc hoạch
định chính sách đúng đắn và các biện pháp thực hiện có vai trò đặc biệt quan
trọng.
Việt Nam là một nớc đang trong quá trình thực hiện công nghiệp hoá, phát
triển các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, thúc đẩy xuất khẩu nói riêng đ-
ợc coi là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong chiến lợc phát
triển kinh tế xã hội. Thúc đẩy xuất khẩu nhằm khai thác lợi thế của đất nớc thực
hiện quá trình hội nhập kinh tế trong phạm vi khu vực cũng nh quốc tế đồng thời
phát triển nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại
hoá. Trong những năm gần đây, xuất khẩu của Việt Nam đã đạt đợc kết quả nhất
định, chẳng hạn nh trong việc chuyển hớng và mở rộng thị trờng, trao quyền tự
chủ cho các doanh nghiệp thay đổi cơ cấu mặt hàng ngày càng phù hợp với yêu
cầu của thị trờng. Tuy nhiên vẫn còn một số điểm cần lu ý đó là việc cơ cấu hàng
xuất khẩu vẫn chủ yếu là sản phẩm thô và sơ chế, khả năng cạnh tranh của hàng
Việt Nam trên thị trờng thế giới còn rất hạn chế, chủ yếu là do tiêu chuẩn và giá
thành của nhiều mặt hàng cha đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Do đó cần phải có một hệ thống các chính sách thúc đẩy xuất khẩu, giảm
thiểu những hạn chế trên. Chuyên đề: Trong xu thế hội nhập của thị trờng
hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam (doanh nghiệp của bạn) phải làm


những gì để nâng cao chất lợng hàng hoá và bắt kịp thị trờng ở Việt Nam là
tên đề án môn học thơng mại hớng tới hội nhập kinh tế quốc tế.
Chơng i. Sự cần thiết phải thực thi chiến lợc hớng về
xuất khẩu
Các nhà kinh tế học hiện đại đã chỉ ra rằng : có hai phơng pháp thực hiện
quá trình công nghiệp hoá (CNH) là chiến lợc thay thế nhập khẩu và chiến lợc h-
ớng về xuất khẩu. Còn chiến lợc xuất khẩu sản phẩm thô đợc coi là chiến lợc tạo
nguồn vốn ban đầu cho quá trình CNH. Đồng thời, họ cũng chỉ ra rằng việc lựa
chọn chiến lợc nào cho phát triển kinh tế đất nớc là tuỳ thuộc vào đặc điểm, điều
kiện của mỗi nớc.Tuy nhiên, đối với nớc nào áp dụng chiến lợc thay thế nhập
khẩu cũng chỉ phát huy tác dụng trong thời gian ngắn và trong một phạm vi nhất
định là quy mô thị trờng nhỏ dung lợng thơng mại không lớn. Trong khi đó,
công nghiệp hoá là một quá trình đa ngành công nghiệp tác động vào nền kinh tế
xã hội một cách toàn diện, liên tục với trình độ công nghệ ngày càng cao. Quá
trình đó làm thay toàn diện nền kinh tế đa đất nớc từ một nớc có nền nông
nghiệp lạc hậu lên một nớc có nền công nghiệp hiện đại, phát triển. Điều đó có
nghĩa là quá trình CNH đòi hỏi một khoảng thời gian dài để xây dựng một nền
kinh tế có tiềm lực mạnh về mọi mặt. Đây cũng đợc xác định là nhiêm vụ trung
tâm trong chiến lợc phát triển của mọi quốc gia.
Trong lịch sử phát triển CNH, các quốc gia đều bắt đầu xây dựng từ một
nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp phát triển còn hết sức sơ khai trở
thành một nớc xuất khẩu lơng thực, công nghiệp hiện đại với công nghệ cao. Nh-
ng quá trình đó ở các nớc khác nhau thời gian hoàn thành là không giống nhau :
Anh cần khoảng 120 năm, Mỹ cần khoảng 80 năm, nhóm các nớc NICs chỉ cần
khoảng 30 năm Nh vậy một xu hớng chung là những nớc tiến hành CNH cần
thời gian hoàn thành càng ngắn nhng lại đạt đợc những kết quả rất cao. Sở dĩ có
xu hớng trên là do quá trình CNH ở các nớc khác nhau tiến hành vào các thời kỳ
khác nhau, tại các thời kỳ đó trình độ phát triển của khoa học công nghệ cũng
không giống nhau mà cụ thể là càng ngày càng phát triển, càng hiện đại. Mặt
khác, quá trình công nghiệp hoá ở các thời kỳ khác nhau đợc tiến hành theo các

trình tự khác nhau từ thứ tự đến nhảy vọt hoặc kết hợp cả hai và sự can thiệp của
Chính phủ vào quá trình đó cũng khác nhau. Đây là sự khác biệt cơ bản của quá
trình công nghiệp hoá ở Châu á và các nớc phơng Tây. Đối với các nớc NICs và
ASEAN thì sự can thiệp của Chính phủ có thể coi là một nhân tố quan trọng
nhất quyết định sự thành công của quá trình CNH. Điều đó chứng tỏ vai trò cần
thiết của Nhà nớc trong quản lý vĩ mô, lựa chọn đờng đi nớc bớc kết hợp với việc
lựa chọn các chính sách phát triển kinh tế, tạo ra hớng đúng để phát huy lợi thế
so sánh của đất nớc. Từ đó, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hớng đẩy
mạnh xuất khẩu, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế
đất nớc.
Trong thời kỳ đầu các nớc NICs và ASEAN đều lựa chọn chính sách phát
triển kinh tế dựa vào nguồn lực có sẵn trong nớc và hàng tiêu dùng. Thời kỳ này,
vai trò của Chính phủ trong việc định hớng chiến lợc, tạo khuôn khỗ pháp luật,
đặc biệt là đầu t phát triển cơ sở hạ tầng, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất
kinh doanh. Khi chiến lợc này bộc lộ những hạn chế đặt ra yêu cầu khách quan
là phải chuyển hớng chiến lợc thì Chính phủ đã nhanh chóng định hớng lái nền
kinh tế cho phù hợp với quy luật và thời đại .Nh vậy, quá trình chuyển hớng
chiến lợc hớng về xuất khẩu là đúng đắn và phù hợp với quy luật cái cũ thay thế
cái mới, bắt kịp xu hớng hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Để thấy đợc
tính quy luật này, vai trò của Chính phủ thể hiện nh thế nào và tiện liên hệ với
điều kiện, đặc điểm nên khái quát mô hình CNH ở các nớc NICs và ASEAN ở
những điểm sau :
I - Nội dung của chiến lợc thay thế nhập khẩu .
Chiến lợc thay thế nhập khẩu là để đẩy mạnh các nghành công nghiệp
trong nớc trớc hết là công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, sau đó là các nghành
công nghiệp khai thác, sản xuất sản phẩm nội địa thay thế sản phẩm từ trớc đến
nay phải nhập khẩu từ nớc ngoài .
Năm 1971, ALin Coln nói: Tôi không biết nhiều về thuế quan .Nhng tôi
biết rất rõ khi tôi mua một cái áo ở nớc Anh, tôi có áo và nớc Anh có tiền. Khi
tôi mua một cái áo ở Mĩ thì tôi có áo và nớc Mĩ có tiền. Có thể thấy ở đây một

sự chú trọng vào thị trờng nội địa, lấy nó làm trung tâm để sản xuất và lu thông
hàng hoá. Bảo hộ hàng sản xuất trong nớc, chống lại sự cạnh tranh của hàng
ngoại là nhiệm vụ trung tâm của chiến lợc thay thế nhập khẩu. Chiến lợc này đợc
áp dụng rộng rãi từ cuối thập kỷ 50 đến gần cận nhất là các nớc NICs và
ASEAN.
Về cơ bản chiến lợc này đợc áp dụng trong giai đoạn đầu với khoảng thời
gian ngắn nhằm tạo tiền đề chuyển hớng chiến lợc hớng về xuất khẩu. Cụ thể là
đối với Hàn Quốc việc thực hiện kế hoạch 5 năm đầu tiên tạo điều kiện tăng dần
dung lợng thị trờng nội địa nhất là đẩy mạnh các ngành công nghiệp nhẹ có khả
năng sử dụng nhiều sức lao động nhng cần ít vốn nh các ngành : dệt, may mặc,
chế biến
Trong khi đó, Đài Loan sử dụng chiến lợc phát triển ông nghiệp gắn với
chiến lợc phát triển công nghiệp thay thế nhập khẩu nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng nội địa và giải quyết việc làm. Tuy nhiên, ngay trong giai đoạn này Đài
Loan cũng đã thấy đợc khuyết điểm của chiến lợc mà họ đang sử dụng đó là thị
trờng trong nớc có quy mô nhỏ sức mua không lớn lên tăng trởng chậm lại .
Kế hoạch 5 năm 1966 - 1970 của Malaixia thể hiện rõ đờng lối phát triển
kinh tế là thực thi chiến lợc thay thế nhập khẩu để khẳng của Malaixia trong
buôn bán cũng nh trong phân công lao động quốc tế. Thời kỳ này Malaxyia chú
trọng phát triển công nghiệp phục vụ nông nghiệp đặc biệt là sản xuất nông
nghiệp nhằm cơ giới hoá việc gieo trồng các loại cây mà Malayxia đã phải nhập
khẩu. Có thể thấy rằng trong kế hoạch 5 năm 1966-1970 Malayxia tiến hành
chiến lợc thay thế nhập khẩu nhng lại không lấy cây lúa làm trọng tâm mà lại
phát triển cây công nghiệp dài ngày để thu sản phẩm xuất khẩu. Do đó, kết quả
của việc thực hiện chiến lợc này Malayxia không những đảm bảo cơ bản về nhu
cầu lơng thực mà còn tiết kiệm đợc ngoại tệ làm tiền đề chuyển hớng chiến lợc
hớng về xuất khẩu.
Khác với Malayxia, Thái Lan ngay từ đầu đã có một cơ sở kinh tế khá
vững vàng do Mỹ xây dựng trong thời kỹ chiến tranh Đông Dơng. Cộng với vị trí
địa lý thuận lợi, Thái Lan bớc vào chiến lợc thay thế nhập khẩu với mục tiêu

chính là đẩy mạnh phát triển công nghiệp và những ngành công nghiệp sử dụng
nhiều lao động để tận dụng nguồn lao động trong nớc. Nếu nh Malayxia tong
chính sách phát triển nông nghiệp chú trọng vào cây công nghiệp : cọ dừa, cà fê,
ca cao thì Thái Lan lại tập chung vào phát triển cây lơng thực, áp dụng những
chính sách khuyến khích xuất khẩu hàng nông sản và những sản phẩm dựa vào
nguồn tài nguyên thiên nhiên. Kết quả là Thái Lan luôn là một nớc xuất khẩu l-
ơng thực lớn ra thị trờng thế giới, đồng thời giải quyết đợc vấn đề việc làm cho
xã hội góp phần ổn định đất nớc .
Tóm lại, việc thực thi chiến lợc thay thế nhập khẩu ở các nớc NICs cũng
nh các tiến hành chiến lợc thay thế nhập khẩu các nớc đều khắc phục đợc vấn đề
lơng thực và giải quyết đợc việc làm cho xã hội .
Ngay từ nhận định ban đầu, chiến lợc thay thế nhập khẩu chỉ phát huy
trong thời gian ngắn với quy mô thị trờng nhỏ. Sau đó, nó bộc lộ những hạn chế
của mình nh giới hạn về thị trờng trong nớc, không cập nhật đợc với khoa học
công nghệ hiện đại đặc biệt là làm chậm tiến độ công nghiệp hoá của đất nớc .
II. Hạn chế của chiến lợc thay thế nhập khẩu .
Những hạn chế của chiến lợc hớng nội là xuất phát từ phạm vi áp dụng
của nó và yêu cầu để thực hiện chiến lợc này có hiệu quả. Khi đối tợng áp dụng
cho chiến lợc này không phù hợp thì những u điểm của nó không những không
đợc phát huy mà còn bộc lộ những hạn chế làm kìm hãm xu hớng phát triển kinh
tế của một đất nớc .
Thực vậy, khi thực hiện một đờng lối, vạch ra một phơng hớng phát triển
thì không thể không tính đến thị trờng ảnh hởng của nó. Xuất phát từ nội dung
của chiến lợc thay thế nhập khẩu là sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu
tối thiểu của đất nớc tức là lấy thị trờng trong nớc làm trọng tâm để buôn bán và
lu thông hàng hoá thì chí ít về quy mô thị trờng đó trớc hết phải rộng rãi. Đối với
một nớc thị trờng nội địa đợc coi là phù hợp với chiến lợc này là một đất nớc có
quy mô dân số đông, sức tiêu thụ lớn. Khi quy mô dân số đông và khả năng tiêu
dùng lớn thì tơng quan giữa sản xuất và tiêu dùng mới cân đối tức là sản xuất mở
rộng cũng tiêu thụ hết. Do đó, với những nớc có quy mô dân số nhỏ bé thì dung

lợng thị trờng nhỏ, chỉ cần sản xuất dới mức tối u cũng đã đáp ứng đủ nhu cầu.
Điều đó đồng nghĩa với không có động lực để mở rộng sản xuất hay tối u hoá
các yếu tố nguồn lực.Thực tế điều này xảy ra ở những nớc có quy mô nhỏ bé nh
Hàn Quốc.
Nh vậy với những nớc có phạm vi, quy mô thị trờng nhỏ thì việc áp dụng
chiến lợc hớng nội là không phù hợp. Đây có thể coi là một yêu cầu để thực hiện
chiến lợc nhng cũng có thể coi là một hạn chế của chiến lợc.
Tuy nhiên nói nh thế không có nghĩa là khi quy mô thị trờng lớn thì áp
dụng chiến lợc hớng nội là thành công mà ngay khi điều kiện đó đợc đáp ứng thì
những hạn chế khác của chiến lợc nh làm giảm khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp trong nớc lại tăng lên. Sở dĩ nảy sinh ra vấn đề này là xuất phát từ
sự can thiệp của Chính phủ.
Khi mà động cơ có tác động mạnh mẽ nhất để các doanh nghiệp sản xuất
cạnh tranh với nhau là lợi nhuận thì yếu tố này đã bị triệt tiêu khi có sự can thiệp
của Chính phủ. Bởi vì, khi Chính phủ bảo hộ bằng hạn ngạch hay thuế quan tức
là Chính phủ đã chịu phần thua lỗ thực sự mà các doanh nghiệp hoạt động không
có hiệu quả mang lại. Do đợc bảo hộ và mua nguyên vật liệu đầu vào với giá rẻ
nên các nhà sản xuất yên tâm không phải lo cạnh tranh tìm kiếm thị trờng để
mua đợc nguyên liệu rẻ, hay cải tiến công nghệ để nâng cao năng xuất, hạ giá
thành sản phẩm cạnh tranh với giá hàng nhập trên thị trờng quốc tế. Tất cả các
quá trình đó đáng nhẽ họ phải tìm tòi nghiên cứu thì họ lại trông chờ vào sự bảo
hộ của Chính phủ. Kết quả của sự bảo hộ này làm thất thu cho ngân sách nhà n-
ớc đồng thời làm tăng khoảng cách chênh lệch trình độ sản xuất giữa các nớc
trong khu vực cũng nh trong thị trờng quốc tế. Quá trình này nếu không kịp thời
nhận ra, dần dần bãi bỏ bảo hộ thì sẽ làm cho nền kinh tế trì trệ lạc hậu, ngày
càng tụt hậu so với thời đại.
Thực tế các nớc NICs và ASEAN cũng nhanh chóng nhận ra hạn chế này
và họ khắc phục bằng cách giảm dần bảo hộ hoặc thay đổi chiến lợc bảo hộ cho
phù hợp với điều kiện của đất nớc mình. Hàn Quốc là một ví dụ: trong giai đoạn
phát triển mậu dịch 1962-1971 Hàn Quốc thực thi chiến lợc thay thế nhập khẩu

gặp khó khăn là năng lực xuất khẩu hạn chế dẫn tới mất cân đối xuất và nhập
khẩu. Hàn Quốc cũng phát triển một số ngành công nghiệp nặng tạo điều kiện
chuyển mạnh sang chính sách hớng về xuất khẩu.
Nh vậy, hạn chế thứ nhất của chiến lợc hớng nội là làm giảm cạnh tranh
của các doanh nghiệp trong nớc đợc xuất phát từ sự can thiệp của Chính phủ.
Nhng không vì thế mà Chính phủ bỏ mặc cho nền kinh tế tự vận động theo cơ
chế thị trờng mà cần phải khẳng định một cách chắc chắn rằng: vai trò của Chính
phủ là một điều kiện quan trọng nhất để thực hiện chiến lợc hớng nội thành
công. Bởi vì, trong thời kỳ đầu công nghiệp trong nớc còn non trẻ cha thể đa ra
để cạnh tranh trên thị trờng quốc tế thì Chính phủ cần phải bảo hộ để nuôi dỡng
nó cho đủ lông đủ cánh rồi phải đa nó ra thi trờng cho nó tự vận động. Cho
nên, biện pháp bảo hộ chỉ là biện pháp tạm thời và cần phải đợc giảm dần khi
các ngành sản xuất trong nớc phát triển hơn.
Hạn chế thứ hai của chiến lợc hớng nội đó là những tệ nạn phát sinh từ
việc thực hiện không nghiêm túc của các đối tợng chịu thuế và các cơ quan thuế
vụ. Điều này dẫn đến tình trạng trốn lậu thuế, hối lộ đội ngũ cán bộ thuế quan
gây ra thất thu cho ngân sách nhà nớc, làm mất lòng tin của nhân dân. Đây
không còn là vấn đề vi phạm luật đơn thuần mà ngày nay đặc biệt đối với nớc ta
nó trở thành một quốc nạn.
Bên cạnh việc trốn lậu thuế là việc xin xỏ, hối lộ các quan chức phụ trách
phân phối hạn ngạch nhập khẩu. Việc đánh giá sự thành công của các doanh
nghiệp sẽ không còn chính xác nếu nhìn vào đó mà đánh giá thực lực của doanh
nghiệp cũng nh khả năng quản lý của lãnh đạo mà sự thành công đó có thể nhờ
vào tài khéo léo, biết thơng lợng có hiệu quả với các nhà chức trách phụ trách
thuế quan hay hạn ngạch. Điều này không khuyến khích các t nhân giỏi phát huy
năng lực của mình.
Một hạn chế nữa của chiến lợc thay thế nhập khẩu là hạn chế xu hớng
công nghiệp hoá của đất nớc. Chiến lợc này bắt nguồn từ công nghiệp hàng tiêu
dùng sau đó tiếp tục tạo thị trờng cho các ngành sản xuất sản phẩm trung gian.
Thờng thị trờng trung gian nhỏ hơn thị trờng hàng tiêu dùng nên đầu t vào lĩnh

vực này lại gặp những khó khăn nhất định. Do vậy, lại trông chờ vào bảo hộ điều
này làm tăng giá đầu vào đối với những ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Để đảm
bảo lợi nhuận của các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng vẫn tiếp tục
phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu làm cho các ngành công nghiệp sản xuất
nguyên vật liệu trong nớc không có khả năng phát triển hạn chế sự hình thành cơ
cấu công nghiệp đa dạng của đất nớc.
Theo một số nhà kinh tế hiện đại thì chiến lợc thay thế nhập khẩu không
đồng nhất với sự đóng cửa nền kinh tế mà nó song song diễn ra hai quá trình :
một mặt hạn chế thậm chí ngăn cấm việc nhập khẩu hàng hoá trong nớc có khả
năng sản xuất, khuyến khích tiêu dùng nội địa, Mặt khác cho phép nhập khẩu
các yếu tố để sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu. Trong khi đó để khuyến
khích các nhà đầu t phát triển sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, Chình phủ
áp dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó quan trọng nhất là hàng hoá sản
xuất trong nớc bằng thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, u đãi đầu t, Chính từ
những u đãi này nên các sản phẩm sản xuất trong nớc không có khả năng cạnh
tranh và khả năng tiêu thụ trên thị trờng quốc tế. Do đó, không có khoản thu
ngoại tệ từ xuất khẩu nhng vẫn phải chi ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị
và ngyuên liệu từ nớc ngoài dẫn tới tình trạng thâm hụt cán cân thơng mại và nợ
nớc ngoài gia tăng. Nền kinh tế đó trái hẳn với mô hình kinh tế mà các nớc đang
phát triển xây dựng đó là : xây dựng một nền kinh tế độc lập, phát huy nội lực là
chính, ít bị phụ thuộc vào nớc ngoài.
Do chiến lợc hớng nội có những hạn chế trên, muốn khắc phục nó để đa
nền kinh tế phát triển đi lên tất yếu phải tìm cách thay đổi chiến lợc. Các nớc
đang phát triển nhận thấy rằng để khắc phục vấn đề nợ nớc ngoài, mất cân đối
trong hoạt động xuất khẩu, quy mô thị trờng nhỏ hẹp thì chỉ có cách là dựa vào
thị trờng rộng lớn bên ngoài. Muốn vậy, phải mở cửa tiến hành chiến lợc hớng
ngoại.
III. Tính tất yếu khách quan thực thi chiến lợc hớng vào xuất
khẩu.
Nh đã phân tích ở trên, lựa chọn chiến lợc phát triển kinh tế cho một đất n-

ớc có tầm quan trọng nh thế nào tới sự thành công hay thất bại của nớc đó. Nó
quyết định nhanh chóng phát triển cùng với xu hớng thời đại hay không, hoàn
thành quá trình CNH nhanh hay chậm. Chiến lợc thay thế nhập khẩu đã nhanh
chóng bộc lộ những hạn chế đặt ra một đòi hỏi tất yếu cho các nớc đang áp dụng
nó phải đổi hớng chiến lợc. Điều đó là phù hợp với xu hớng phát triển của nền
kinh tế, phù hợp với quy luật khách quan đó là cái cũ phải đợc thay thế bằng một
cái mới tiến bộ hơn, là chiến lợc hớng về xuất khẩu. Với chiến lợc này các nớc
khắc phục đợc những điều kiện không phù hợp của mình với chiến lợc thay thế
nhập khẩu đó là một thị trờng trong nớc nhỏ hẹp, một nền kinh tế mất cân đối và
nợ chồng chất nớc ngoài. Đồng thời chiến lợc này cho phép tất cả mọi nớc tiêu
dùng một lợng hàng hoá dịch vụ nhiều hơn mức có thể tiêu dùng với giới hạn sản
xuất trong nớc dựa vào lợi thế so sánh. Điều ấy có nghĩa là tôi có thể tiêu dùng
một mức nhiều hơn khả năng tôi sản xuất nếu tôi trao đổi với anh và ngợc lại anh
cũng đợc lợi khi anh trao đổi với tôi. Xét một cách khái quát hơn chiến lợc hớng
về xuất khẩu tác động vào phát triển nền kinh tế ở những mặt sau.
-Tạo ra khả năng xây dựng cơ cấu kinh tế mới, năng động hơn. Sự phát
triển của ngành công nghiệp trực tiếp xuất khẩu tác động đến các ngành cung
cấp đầu vào tạo ra một mối liên hệ ngợc có hệ thống thúc đẩy những ngành phát
triển. Không những thế, khi có tích luỹ từ việc xuất khẩu sản phẩm tìm mối liên
hệ xuôi giữa sản phẩm thô và ngành công nghiệp chế biến phát triển. Sự phát
triển của tất cả các ngành này làm tăng thu nhập cho ngời lao động, tạo ra mối
liên hệ gián tiếp cho sự phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và dịch vụ. Nh
vậy, chiến lợc hớng ngoại kéo các ngành trong nền kinh tế lại gần nhau và buộc
chúng phải có quan hệ với nhau.
- Nếu nh chiến lợc thay thế nhập khẩu lấy thị trờng trong nớc làm trọng
tâm cho phát triển thì chiến lợc hớng vào xuất khẩu lại lấy thị trờng quốc tế làm
trung tâm cho mọi sự phát triển. Trong chiến lợc hớng nội các doanh nghiệp Nhà
nớc ỷ lại vào Chính phủ, không có khả năng cạnh tranh thì trong chiến lợc hớng
ngoại các doanh nghiệp trong nớc muốn đứng vững trong cạnh tranh phải dựa
vào các tiêu chuẩn quốc tế. Mặt khác, các doanh nghiệp không bị giới hạn bởi

một quy mô thị trờng nhỏ hẹp cho nên họ có thể mở rộng sản xuất để lợi dụng
lợi thế quy mô.
-Không những khi xây dựng nền kinh tế mở tiếp cận đợc với nền kinh tế
có trình độ, phát triển cao hơn mà nhờ vào xuất khẩu đất nớc còn có nguồn thu
nhập là ngoại tệ, không phải nợ lần bị động mà còn có tiền để mua sắm máy
móc thiết bị hiện đại, đầu t cho nghiên cứu phát triển máy móc điều đó giúp cho
nền kinh tế chủ động hơn trong chiến lợc của mình.
Tất cả những u điểm mà chiến lợc hớng ngoại khắc phục đợc hạn chế của
chiến lợc hớng nội là một nguyên nhân để các nớc chuyển hớng chiến lợc phát
triển thì nguyên nhân thứ hai là xu hớng hội nhập kinh tế quốc tế .
Có thể nói hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu cần thiết của quá trình phát
triển lực lợng sản xuất. Sự lớn mạnh của lực lợng sản xuất khiến thị trờng nội địa
trở nên nhỏ hẹp, buộc các quốc gia phải ngồi lại với nhau để tìm cách khơi thông
dòng chảy của hàng hoá, dịch vụ, đồng vốn và sức lao động. Họ đấu tranh thoả
hiệp với nhau nhằm mở rộng hơn nữa thị trờng cho phát triển kinh tế. Xét cả về
phơng diện nhu cầu phát triển của bản thân, cả về phơng diện buôn có bạn, bán
có phờng.Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này.
IV. Tác động của quá trình hội nhập hình tế quốc tế đến hoạt
động ngoại thơng của Việt nam
Hoạt động đối ngoại gồm ba nội dung cơ bản, hoạt động ngoại thơng, hoạt
động hợp tác và hoạt động du lịch-dịch vụ thì hoạt động ngoại thơng chiếm vị trí
quan trọng.
Thông qua hoạt động ngoại thơng các quốc gia phát hiện ra những lợi thế
của mình và phát huy trên thị trờng quốc tế. Hội nhập kinh tế tạo điều kiện cho
các quốc gia tận dụng đợc lợi thế so sánh, mà muốn tận dụng đợc thì phải thông
qua buôn bán ngoại thơng. Quan hệ giữa hội nhập quốc tế và hoạt động ngoại th-
ơng là quan hệ hữu cơ với nhau. Khi hội nhập càng mạnh mẽ thì ngoại thơng cần
đợc tự do hoá, xoá bỏ độc quyền. Do đó, hoạt động ngoại thơng đợc quan tâm
vào bậc nhất ở tất cả mọi quốc gia. Bản thân hoạt động ngoại thơng có những tác
động đến tăng trởng kinh tế.

Kết quả của hoạt động ngoại thơng đợc đánh giá qua cán cân thanh toán
xuất nhập khẩu biểu hiện sự tăng hoặc giảm thu nhập ngoại tệ của đất nớc.
ở nớc ta, đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế là một chủ trơng của đại
hội VIII mà đảng ta đặc biệt chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động của kinh tế
đối ngoại. Kết hợp chặt chễ hoạt động ngoại giao của nhà nớc hoạt động đối
ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế quản lý
thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực
này.
Nói tóm lại, do yêu cầu khách quan của đất nớc phải phù hợp với thực tiễn
và thời đại nên hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung và hoạt động ngoại thơng
nói riêng có những thay đổi đáng kể thể hiện ở những mặt sau :
- Nớc ta mở rộng quan hệ với các nớc trên thế giới trên tinh thần Viêt
Nam muốn làm bạn và là đối tác tin cậy của các nớc trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
- Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phơng và đa phơng lẫn nhau tôn trọng
độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau.
- Những ngành thay đổi trong hoạt động kinh tế đối ngoại dẫn tới những
chuyển biến quan trọng trên toàn bộ hoạt động kinh tế của đất nớc ta nhiều lĩnh
vực đầu t, hợp tác quốc tế và đặc biệt là hoạt động ngoại thơng .
- Nhà nớc xoá bỏ độc quyền ngoại thơng sang tự do ngoại thơng .
- Cán cân thơng mại dần dần đợc cải thiện đáp ứng đợc 4/5 kim ngạch
ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị .
- Cơ cấu nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu đợc mở rộng đặc biệt là nhóm,
mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
- Thị trờng xuất khẩu của Việt Nam cũng dần dần đựơc khai thông, mở
rộng trên quy mô và tỷ trọng trên từng thị trờng.
- Nhập khẩu cũng có những thay đổi cơ bản về cơ cấu mặt hàng giảm
mạnh nhập khẩu các thiết bị toàn bộ và tăng tỷ trọng của các hàng lẻ gồm
nguyên nhiên liệu, thiết bị và phụ tùng
V- ảnh hởng của các chính sách trong kinh tế đối ngoại tới

hoạt động xuất khẩu của nớc ta.
Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh CNH-HĐH thì hội
nhập kinh tế sẽ tạo điều kiện thu hút nguồn vật chất nh vốn, thiết bị, vật liệu mà
nớc ta đang rất thiếu và rất cần. Tuy nhiên để có thể thu hút đựợc nguồn vật chất
đó, nớc ta phải tạo ra những cơ hội đầu t hấp dẫn để thu hút vốn nớc ngoài, phải
có ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị tiến kịp khoa học và công nghệ hiện
đại. Đồng thời phải đón đầu những kiến thức quản lý kinh tế hiện đại để vận
dụng có hiệu quả .
Hoạt động xuất nhập khẩu là một nội dung quan trọng trong hoạt động
ngoại thơng. Do đó hoạt động này chịu ảnh hởng trực tiếp của các chính sách
ngoại thơng. Những thay đổi trong hoạt động xuất nhập khẩu làm thay đổi căn
bản hoạt động ngoại thơng, đến lợt mình, những thành công trong hoạt động
ngoại thơng thúc đẩy hoạt động xuất khẩu phát triển.
Trong những năm qua, nớc ta đã có những chính sách đổi mới theo hớng
mở cửa rất hấp dẫn thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thay đổi một cách toàn diện
trên các mặt nhu : quy mô mở rộng và tốc độ tăng trởng nhanh, cơ cấu nhóm
hàng, mặt hàng xuất khẩu cũng đợc mở rộng theo chiều sâu cơ cấu thị trờng xuất
khẩu đợc mở rộng đặc biệt là hàng xuất khẩu Việt Nam đã xâm nhập vào một số
thị trờng khó tính nhất trên thế giới là Mỹ và EU .
Bớc vào thế kỷ mới Việt Nam vẫn phát triển trên tinh thần phát huy nội
lực là chính nhng phải tận dụng các nguồn ngoại lực. Kết hợp nội lực với ngoại
lực thành sức mạnh tổng hợp tiến công mạnh mễ vào CNH- HĐH. Qua đó ta
thấy hoạt động xuất nhập khẩu trong thời gian tới không những không bị xem
nhẹ mà còn đợc quan tâm tạo điều kiện phát triển từ những chính sách u đãi. Đặc
biệt là từ nay đến 2006 Việt Nam phải dần dần hoàn thành giảm dần tiến tới xoá
bỏ hạn ngạch và thuế quan theo hiệp định hiệu lực chung (CEPT) để tham gian
trên tinh thần phát huy nội lực là chính nhth thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)
để tham gian trên tinh thần phát huy nội lực là thuế quan có hiệu lực chung
(CEPT) để tham gian trên.
Sự phát triển nhanh chóng của hoạt động xuất khẩu trong mời năm qua có

thể xem là một thành tựu nổi bật của công cuộc đổi mới. Điều đó thể hiện qua
tốc độ tăng trởng, quy mô xuất khẩu, cơ cấu nhóm, mặt hàng xuất khẩu, cơ cấu
thị trờng xuất khẩu và cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu.
Năm 1989 kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 4.511,8 triệu rúp-USD trong đó
xuất khẩu 1946 triệu, đến năm 2000 con số này đã lên tới 23,16 tỷ USD trong đó
xuất khẩu chiếm 11.540 triệu USD. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu bình quân
hàng năm của thời kỳ 91-95 là 28%.
Trong 6 năm qua, toàn đảng toàn dân ra sức thực hiện Nghị quết Đại hội
VIII nên đã đạt đợc những thành tựu sau : xuất khẩu nông nghiệp (gạo, hàng
thuỷ sản và các sản phẩm cây công nghiệp) chiếm gần 40% tổng kim ngạch xuất
khẩu cả nớc. Xuất khẩu sản phẩm cây công nghiệp tăng nhanh, giá trị xuất khẩu
hàng công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, thủ công năm 2000 khoảng 8,7 tỷ
USD gấp 3 lấn so với năm 1995.
Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt cao nhất từ trớc tới nay khoảng 50 tỷ USD
tăng bình quân 18,6%. Chênh lệch xuất, nhập khẩu giảm mạnh từ 49,6%(năm
1995) xuống còn 3,1% (năm 2000) so với tổng kim ngạch xuất khẩu.
Đạt đợc kết quả trên ngoài yếu tố xây dựng và phát triển thị trờng còn phải
kể đến đầu t và phát triển năng lực sản xuất ở mọi thành phần kinh tế mà biểu
hiện rõ nhất lầ việc hình thành nhiều ngành hàng mũi nhọn. Số liệu thống kê cho
thấy trên 78% kim ngạch xuất khẩu mời tháng đầu năm nay thuộc về những mặt
hàng chủ lực bao gồm những nhóm, mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu từ 100 triệu
USD trở lên. Nếu trong những năm 1991-1993 mới có lác đác một vài mặt hàng
chủ lực thì đến nay con số đã lên tới 12- 13 mặt hàng.
Tuy đạt đợc những kết quả trên nhng khi nhìn lại trong những năm qua thì
thấy tốc độ tăng chậm lại biểu hịên cụ thể là : năm 1994 tốc độ tăng xuất khẩu là
35,8%; năm 1995 tăng 34,4%; năm 1996 tăng 33,2%; năm 1998 chỉ còn 26%;
năm 1999 chỉ còn 2,4% đến năm 2000 là 23,1%.
Một nguyên nhân quan trọng của hiện tợng này là do cơ cấu hàng xuất
khẩu cha có những thay đổi căn bản so với thời kỳ 91-95 để tạo ra những xung l-
ợng mới cho tăng trởng xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc chuyển hớng các mặt hàng

xuất khẩu đặc biệt là thịt chế biến vào thị trờng Liên Xô (cũ) gặp rất nhiều khó
khăn. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực cũng nh sự gia tăng xuất khẩu của
Trung Quốc đã làm cho việc xuất khẩu thịt lợn sang thị trờng Hồng Kông trở nên
bế tắc.
Về quy mô, xuất khẩu của nớc ta còn hết sức nhỏ bé xét cả về tơng đối
lẫn tuyệt đối. Nếu tính bình quân đầu ngời ngay từ những năm 1986 và hiện lên
tới 80-90 tỷ USD. Thái Lan đạt kim ngạch xuất khẩu 10 tỷ từ những năm 1987,
hiện lên tới 55-60 tỷ USD. Philipin là nớc kém hơn nhng cũng đạt kim ngạch
xuất khẩu 10 tỷ USD vào năm 1992 và hiện nay xấp xỉ 25 tỷ USD. Nếu tính kim
ngạch xuất khẩu/đầu ngời, năm 1996 Malaixia đã đạt 3700 USD, Thái Lan đạt
930 USD và Philipin đạt 285 USD trong khi đó Việt Nam mới đạt 96 USD. Năm
2000 Indolexia đạt 267 USD, Philipin 344 USD, Thái Lan 943 USD, Malaixia
3750 USD, Hàn Quốc 3961 USD, Xingapo 4167 USD, VIệt Nam 150 USD/đầu
ngời.
Thực tế cho thấy, nguy cơ này xa hơn là hiện thực nếu nh chúng ta không
có giải pháp để tạo ra những chuyển biến cơ bản cho hoạt động xuất nhập khẩu
nói chung và cho xuất khẩu nói riêng. Nh trên đã phân tích một trong những
nguyên nhân chủ quan quan trọng gây ra hiện tợng tốc độ xuất khẩu ngày một
chậm dần là do cơ cấu mặt hàng ít có sự thay đổi căn bản.
Trong thời gian qua, việc chuyển dịch cơ cấu diện ra chủ yếu nhờ tăng
nhanh kim ngạch xuất khẩu của bốn nhóm hàng : dệt may, giầy dép, sản phẩm
gỗ tinh chế và điện tử (bao gồm cả linh kiện máy tính ). Trong số này chỉ có sản
phẩm gỗ tinh chế là đạt hàm lợng nội địa cao các nhóm hàng còn lại chủ yếu dựa
vao phơng pháp gia công hàm lợng nội địa tơng đối thấp.
Song một điều không thể phủ nhận khi nhìn lại trong thời gia qua cơ cấu
nhóm, mặt hàng xuất khẩu vẫn tiếp tục chuyển dịch theo hớng tăng dần tỷ trọng
hàng đã qua chế biến, nhất là chế biến sâu. Nếu nh năm 1991, hàng nguyên liệu
thô chiếm trên 92%thì nay chỉ còn 60% kim ngạch xuất khẩu. Hàng chế biến
trong đó có hàng chế tạo năm 1991 chỉ chiếm khoảng 8% thì đến năm 2000 đã
tăng lên 40%. Nhóm hàng nông lâm thuỷ-hải sản năm 91 chiếm 53% đến nay

xuống còn 36,5%, nhóm hàng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp năm 91 chiếm
47%, năm 2000 đã lên tới 63,5% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Nhóm hàng xuất khẩu ngày càng đợc mở rộng đã có 16 nhóm mặt hàng
hoàn toàn mới và khoảng 20 nhóm mặt hàng lần đầu tiên thâm nhập vào một số
thị trờng. Nếu nh năm 1991 mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu
thô, thuỷ-hải sản, gạo và dệt may thì đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng chủ
lực mới là cà phê, cao su, điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công
mỹ nghệ và rau quả. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào diễn biến của thị trờng quốc tế
mức đóng góp của mỗi mặt hàng chủ lực trong từng năm có khác nhau. Nếu
hàng dệt may, giầy dép, thuỷ sản, cà phê, hạt điều đóng góp lớn vào việc tăng tốc
độ tăng trởng xuất khẩu của năm 97(26,6%) thì đầu năm đến nay đến lợt dầu
thô, thuỷ sản, máy tính điện tử, thủ công mỹ nghệ, rau quả đóng vai trò tiên
phong trong việc tăng trởng giá trị suất khẩu. Theo Tổng cục Thống kê tỷ trọng
đóng góp vào tốc độ tăng trởng xuất khẩu trong mời tháng qua của dầu thô là
51%; thuỷ sản là 16,3%; máy tính điện tử là 7,3%.
Một điều nữa đáng ghi nhận là từ đầu năm đến nay nhóm hàng nông sản
của Việt Nam (trừ gạo) luôn tỏ ra sung sức về khả năng sản xuất và có mức xuất
khẩu ngày một tăng. Trong năm vừa qua, cả nớc xuất khẩu 74000 tấn lạc nhân
(tăng gần 47%); 214000 tấn cao su (tăng 18,3%) ; 543000 tấn cà phê (tăng
65,4%) đã vợt kế hoach cả năm 8,5%; 34000 tấn chè (tăng 36% so với cùng kỳ
năm ngoái). Đặc biệt lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong năm qua
không những vợt ngỡng một tỷ mà còn đạt 1,16 tỷ USD tăng 49.45% so với cùng
kỳ năm trớc, vợt 6% so với kế hoạch năm. Kết quả xuất khẩu của nhóm hàng
công nghiệp chế tác từ đầu năm đến nay vẫn giữ đợc nhịp độ tăng trởng khá.
Kim ngạch xuất khẩu của hàng dệt may trong mời tháng qua đạt trên 1.516 tỷ
USD ( tăng 4.4% so với cùng kỳ năm trớc), giầy dép đạt 1.163 tỷ USD tăng
5.2%, hàng thủ công mỹ nghệ đạt gần 200 triệu USD tăng gần 49% và vợt kế
hoạch năm 10.6%, điện tử đạt 132 triệu USD tăng 9%, máy vi tính đạt 518 triệu
USD tăng 38.6% so với cùng kỳ năm trớc.
Theo ông Lê Đức Gia-Phó vụ Trởng Vụ tổ chức Bộ thơng mại ba nhóm

hàng nêu trên có tầm quan trọng nh ba chân kiềng của hoạt động xuất khẩu nớc
ta. Ông nhận định : hàng năm do nhiều yếu tố khác nhau có thể nhóm hàng này
tăng nhóm hàng kia giảm nhng nếu biết phát huy để bù trừ cho nhau thì kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trởng bền vững.
Nếu nh trên phân tích cho rằng một trong những nguyên nhân quan trọng
của hiện tợng tốc độ tăng trởng giảm dần là do cơ cấu hàng xuất khẩu cha có
những thay đổi trên tất cả các mặt hàng mà chủ yếu nhờ tăng nhanh kimh ngạch
của bốn nhóm hàng cơ bản : dệt may, giầy dép, sản phẩm gỗ tinh chế và điện tử
thì vấn đề thị trờng xuất khẩu là lời giải cho câu hỏi vì sao cơ cấu hàng xuất khẩu
có sự thay đổi tích cực mà tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn tiềm ẩn nguy cơ tăng
trởng chậm.
Hiện nay, nớc ta đã có quan hệ thơng mại với hơn 60 nớc và có thoả thuận
đối xử tối hậu quốc (MFN) với 68 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Sự tan rã của khối SEV dẫn tới những thay đổi lớn trong cơ cấu thị trờng
xuất khẩu của nớc ta thể hiện : Liên Xô (cũ) và Đông Âu, Việt Nam chỉ còn
chiếm gần 2% kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD. Do đó, Châu á trở thành
thị trờng xuất khẩu chính ở nớc ta. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu cho thị trờng
này tăng từ 26,73% vào năm 1989 lên 43,29% vào năm 1990 và năm 1991 tăng
lên tới 76,73% và luôn duy trì trong khoảng 72-74% từ đó đến nay. Trong đó
Nhật Bản và ASEAN đóng vai trò lớn ( Nhật Bản chiếm 15,8%; các nớc ASEAN
chiếm 21,3%). Nhìn chung, cơ cấu thi trờng xuất khẩu đã có những chuyển hớng
tích cực. ở khu vực Châu á- Thái Bình Dơng do các thị trờng trong khu vực
đang trên đà khôi phục, sức mua tăng lên một số mặt hàng của Việt Nam xuất
khẩu tăng lên ( điện tử, lơng thực, thực phẩm ).
Khu vực Âu- Mỹ hàng năm nớc ta xuất siêu trên 2000 triệu USD. Các mặt
hàng xuất khẩu chủ yếu là: hàng may mặc, giầy dép, thuỷ sản, cao su .
Với thị trờng Tây-Nam A-Châu Phi quan hệ kinh tế-thơng mại giữa Việt
Nam và khu vực này cha đợc phát triển đáng kể, mặc dù ta có khả nâng xuất
khẩu gạo, chè. đồ điện tử, hàng may mặc, giầy dép có thể nhận định rằng đây
là khu vực còn nhiều tiềm năng để khai thác nếu sử lý tốt vấn đề thông tin, xây

dựng lòng tin và sự tín nhiệm.
Bên cạnh nớc ta là Trung Quốc, sự gia tăng của Trung Quốc là một hạn
chế gây ảnh hởng rất lớn cho thị trờng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên kim
ngạch xuất khẩu chính sang Trung Quốc tăng từ 340, 2 triệu USD năm 1996 lên
858,9 triệu USD vào năm 2000.
Tỷ trọng xuất khẩu sang EU nói riêng và Châu Âu nói chung tăng dần
trong những năm qua. Năm 1991, EU mới chiếm 5 - 6% kim ngạch xuất khẩu thì
đến nay đã tăng lên 21,7%.
Nhìn chung quá trình chuyển dịch cơ cấu thị trờng suất khẩu đã diễn ra t-
ơng đối tốt trong thời gian qua, góp phần đáng kể vào việc duy trì tốc độ tăng tr-
ởng kim ngạch suất khẩu sau khi mất đi thị trờng truyền thống. Tuy nhiên, sự
chuyển dịch này cha đợc định hớng trên tầm nhìn dài hạn, chủ yếu mới là sự
thích ứng với thay đổi đột biến của tình hình và vì vậy đã nhanh chóng bộc lộ
những điểm yếu. Từ chỗ trớc đây phụ thuộc chủ yếu vào buôn bán với hội đồng
tơng trợ kinh tế (SEV) xuất khẩu nớc ta hiện nay lại phụ thuộc lớn vào thị trờng
Châu á. Dẫn đến cơ cấu thị trờng nớc ta hiện nay vẫn thiên lệch, thậm chí trên
phơng diện nào đó còn thiên lệch hơn cả trớc đây.
Thị trờng nớc ta mới chỉ có chiều rộng mà cha có chiều sâu, hàng hoá và
dịch vụ của nớc ta cha chiếm đớc thị phần lớn tại các thị trờng đã xâm nhập đợc,
thậm chí còn bị mất chỗ đứng trên một số thị trờng. Một hạn chế nữa là ở một
số thị trờng có dung lợng hàng hoá và dịch vụ của ta cha có mặt, việc tìm kiếm,
mở rộng thị trờng còn có phần thụ động, hoạt động xúc tiến thơng mại và đầu t
để xâm nhập thị trờng cha đợc quan tâm đúng mức.
Mặt khác, việc chậm trở lại với thị trờng truyền thống và mở lối để lách
chân vào các thị trờng khác trong những năm gần đây thể hiện sự bất cập trong
chính sách bạn hàng xuất khẩu của nớc ta. Nh vậy, mặc dù chúng ta chủ trơng đa
phơng hoá thị trờng, đa phơng hoá quan hệ nhng trên thực tế lại thiếu những
chính sách và giải pháp cụ thể thúc đấy quan hệ đó.
Bên cạnh những chuyển động về cơ cấu thị trờng, cơ cấu chủ thể tham gia
hoạt đông xuất khẩu cũng có những thay đổi lớn trong những năm vừa qua. Cơ

chế xuất nhập khẩu đẫ đợc đổi mới một cách cơ bản, chuyển từ cơ chế nhà nớc
độc quyền ngoại thơng sang cơ chế mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho cacs địa
phơng, các ngành và các thành phầ kinh tế; từ cơ chế hành chính mệnh lệnh sang
sự vận hành theo cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa. Ngày 30/7/1999,
chính phủ đã ban hành nghị định số 57/1999 ND-OP quy định chi tiết về hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và mua bán hàng hoá, đại lý với nớc ngoài.
Nghi định và xu hớng thay đổi cơ chế trên đã xoá bỏ hoàn toàn chế độ giấy phép
kinh doanh xuất nhập khẩu. Tới nay đã có 8.137 doanh nghiệp đăng ký mã số
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tăng hơn 3 lần so với thời thời gian tr-
ớc ngày 1/9/1999, trong đó các doanh nghiệp quốc doanh là 4.497, ngoài quốc
doanh là 3.640. Cùng với sự thay đổi cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trờng, thì sự
thay đổi cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu đợc xem là sự thay đổi sâu
rộng nhất. Điều đó chứng tỏ nhà nớc ta đã có những nhận định ban đầu đúng
đắn, những chính sách đa ra dù cha đợc là hoàn chỉnh thì cũng đã phần nào phù
hợp với xu hớng phát triển và điều kiện thực tiễn. Kết quả của những cố gắng đó
là kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vẫn tăng trởng bền vững nh phó vụ tr-
ởng vụ tổ chức Bộ thơng mại nhận xét. Ngoài việc phát huy nội lực của các
doanh nghoiệp trong nớc, để đạt đợc kết quả trên cong có phần đóng góp của các
doanh nghiệp cóa vốn đầu t nớc ngoài cha kể kim ngạch xuất khẩu dầu thô (trên
2,75 tỷ USD), kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng khác của khu vực đầu t n-
ớc ngoài cũng đạt trên 2,7 tỷ USD, tăng 29,7% so với kết quả 10 tháng đầu năm
2000.
Tựu chung lại, xuất khẩu Việt Nam trong thời gian qua có những thay đổi
lớn cả về quy mô, tốc độ, cơ cấu mặt hàng, cơ cấu thị trờng và đặc biệt là cơ cấu
chủ thể tham gia hoạt đông xuất khẩu. Những chuyển biến này làm thay đổi cục
diện nền kinh tế đất nớc, góp phần lớn vào thu nhập quốc dân, cải thiện đời sống
của nhân dân, thay đổi căn bản cơ cấu công nghiệp của đất nớc thúc đẩy sự hình
thành cơ cấu copong nghiệp đa dạng của đất nớc. Qua đó, phát hiện những
ngành có tiềm năng phát triển lớn, có khả năng tạo bớc đột phá và trở thành
ngành xuất khẩu đầu tầu nh dệt may, dầy dép, điện tử và đặc biệt là ngành khai

thác và chế biến thuỷ sản.
Tình hình xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua
Thuỷ sản là một ngành kinh tế quan trọng của Việt Nam. Nó không những
đóng góp vào thu nhập quốc dân cũng nh là mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao
mà còn là một ngành góp phần giải quyết lao động d thừa ở nông thôn, cải thiện
bộ mặt của nông thôn miền biển, làm giầu cho đất nớc.
Hơn nữa ngành thuỷ sản nớc ta còn có tiềm năng rất lớn, cần phải phát
huy hơn nữa để tăng vai trò của ngành thuỷ sản trong sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá đất nớc. ở Việt Nam, nh chỉ thị 20 CT/TƯ của Bộ chính trị đã nêu
rõ: vùng biển, hải đảo và ven biển là địa bàn chiến lợc có vị trí quyết định đối
với sự phát triển của nớc ta, là thế mạnh và tiềm năng quan trọng chọ sự nghiệp
CNH, HĐH Do vậy chỉ thị cũng nêu: Dựa trên những tiến bộ về khoa học và
công nghệ làm động lực vừa thúc đẩy nghiên cứu, quản lý khai thác tiềm năng
biển có hiệu quả
Cùng với tốc độ tăng trởng của hoạt động xuất khẩu, kim ngạch xuất khẩu
năm 1999 chiếm 8,17% toàn quốc đứng hàng thứ t trong số mặt hàng thu nhiều
ngoại tệ cho đất nớc, trong thời gian 10 năm qua ngành thuỷ sản có mức tăng tr-
ởng bình quân hàng năm về tổng sản lợng khoảng 4%, giá trị kim ngạch xuất
khẩu tăng từ 0 đến 15% đạt 858,6 triệu USD vào năm 1999. Tuy nhiên đây mới
chỉ là con số khởi đầu (theo nhận xét của ông Nguyễn Trọng Hồng Thứ trởng
bộ thuỷ sản) bởi vì ngành khai thác và chế biến thuỷ sản vẫn còn là ngành tiềm
năng cha đợc đầu t và phát triển đúng mức.
Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản đang khẳng định vai trò chủ lực trong
xuất khẩu ở Việt Nam. Hiện nay nớc ta đứng thứ 29 trên Thế giới về xuất khẩu
thuỷ sản, xuất khẩu sang 45 nớc. Trong 12 năm qua, tốc độ tăng trởng xuất khẩu
bình quân là 20% /năm (từ 90 triệu USD năm 1988 năm 2001 dự kiến 1.2 tỷ
USD) ớc tính giá trị xuất khẩu thuỷ sản quý 1/2001 sẽ đạt 212 triệu USD tăng
13,88% so với cùng kỳ năm ngoái. Kết quả cao nhất là trong hai năm 1999
2000 đã đa hàng thuỷ sản lọt vào danh sách năm hàng xuất khẩu chủ lực đạt giá
trị cao nhất của Việt Nam và là một trong ba mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt

mức tăng trởng trên 10% về giá trị trong hai năm qua: năm 1999 tăng 10,59% so
với năm 1998, năm 2000 tăng 13,08% so với năm 1999. Nếu tính cả giai đoạn 11
năm 1990 đến 2000 tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 4,06 lần so với
năm 1990.
Về cơ cấu mặt hàng xuất khẩu trong hai năm 1999 và 2000 những mặt
hàng thuỷ sản xuất khẩu chính là: đơn vị là %.
Mặt hàng 1999 2000
Hàng khô 7 5
Cá đông lạnh 10 8
Tôm đông lạnh 59 35
Nhuyễn thể đông lạnh 11 9
Các loại khác 13 43
Nhìn vào số liệu trên thì trong hai năm 1999 và 2000 cơ cấu mặt hàng
xuất khẩu chính của thuỷ sản đợc mở rộng nhng vẫn trọng điểm là hàng tôm
đông lạnh chiếm 39%.
Tính đến hết tháng 8/2000, sản lợng khai thác thuỷ sản đạt 911233 tấn
tăng 110,47% so với cùng kỳ năm 1999. Một số loài trớc đây dùng chế biến bột
cá hoặc phơi khô rồi tiêu dùng nội địa nh cá bò, cá cơm nay cũng tận dụng để
chế biến xuất khẩu .
Phơng thức nuôi trồng cũng đợc chuyển đổi : mức độ thâm canh cáo nâng
sản lợng khai thác lên tới 442.888 tấn kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng nhanh
nh vậy là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan; đó là thiên
thời địa lợi , nhu cầu thuỷ sản trên thế giới tăng mạnh đặc biệt là với mặt hàng
chế biến giá trị gia tăng và giá trị cao hàng thuỷ sản Việt Nam đợc đánh giá cao
hơn so với những năm trớc. Do đó, doanh nghiệp đa tỷ trọng hàng giá trị gia tăng
từ 19,7% năm 2000, lên khoảng 30% trong năm nay.
Mặt khác giá trị xuất khẩu một số mặt hàng thuỷ sản chủ lực của Việt
Nam tăng lên đáng kể : riêng giá trị kim nghạch xuất khẩu tôm các loại trong
năm 2000 đạt 428 triệu USD so với 282 triệu USD của năm 1999.
Kết quả trên là hệ quả tất yếu của việc chủ động tìm khách hàng, lấy xuất

khẩu làm trọng tâm của ngành thuỷ sản. Cùng với chính sách hỗ trợ của Chính
Phủ về thuế, tín dụng, đầu t các doanh ngiệp xuất khẩu thuỷ sản đã phát huy
hết khả năng và tích cực mở rộng thị trờng. Việt Nam hiện nằm trong danh sách
một xuất khẩu vào liên minh châu Âu (EU) và có 40 cơ sở nớc ta có mã số cho
thị trờng này. Đây chính là bàn đạp quan trọng cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
vào các thị trờng khác.
Trong những năm gần đây kim nghạch xuất khẩu của nớc ta sang Mỹ
cũng tăng lên từ 39 triệu năm 1998 lên tới 80 triệu năm 1999 và 129 triệu năm
2000. Ước tính tổng giá trị xuất khẩu thuỷ sản sang thị trờng này trong cả năm
2001 sẽ đạt 250 triệu và Mỹ là thị trờng nhập khẩu thuỷ sản lớn thứ hai của Việt
Nam.
Về cơ cấu chủ thể tham gia hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trong thời gian
qua đã có những thay đổi đáng kể. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam đủ điều kiện
xuất khẩu sang thị trờng EU, có thể liệt kê ra một số doanh nghiệp nh An Giang
fisery import-export company, work shop No 1- AGIFISH Ngoc Ha company
Ltd. Food processing and trading đặc biệt là ngày 14-7-1999 Chủ tịch nớc ký
quyết định 287/KT/CTN đã phong tặng danh hiệu anh hùng lao động với thành
tích đặc biệt xuất sắc trong thời kỳ đổi mới cho xí nghiệp chế biến thuỷ sản xuất
khẩu Cần Thơ (Cafatex). Đây là xí nghiệp đạt đợc những thành công to lớn trong
việc xác định đúng thị hiếu của khách hàng để cân đối cơ cấu sản phẩm xuất
khẩu, tìm đợc sự tin cậy hợp tác quý báu của khách hàng trong và ngoài nớc.
Mặt khác Cafatex là đơn vị đi đầu trong việc tìm kiếm nguyên liệu cho chế biến.
Công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản An Giang cũng là một doanh nghiệp có
nhiều đóng góp trong kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nớc nhiều năm liền là
đơn vị dẫn đầu ngành thuỷ sản và là một trong những đơn vị đứng đầu tỉnh An
Giang về năng suất, chất lợng và hiệu quả. Trong 11 năm 1990 và 2000 tổng
doanh thu của doanh nghiệp tăng 11 lần nộp ngân sách nhà nớc 7,45 tỷ. Là một
trong 18 doanh nghiệp đầu tiên đợc cộng đồng châu Âu đa vào danh sách nhóm
một các doanh nghiệp đợc phép xuất khẩu thuỷ sản vào EU.
VI. Các chính sách thúc đẩy hoạt động xuất khẩu .

1. Chính sách thuế u đãi đối với hàng xuất khẩu .
Thuế là một công cụ Nhà nớc dùng để đánh vào các loại hàng hoá và dịch
vụ.
Tác động của thuế tới hoạt động xuất khẩu là tác động xuôi chiều, khi
thuế thấp kích thích xuất khẩu (thuế u đãi). Phần lớn các nớc hiện nay có xu h-
ớng khuyến khích xuất khẩu nên việc đánh thuế vào hàng hoá xuất khẩu hay đầu
vào dùng để xuất khẩu đều đợc hởng những u đãi nhất định. Đặc biệt là ở Việt
Nam khi mà thiếu ngoại tệ để nhập công nghệ mới, cải tiến kỹ thuật thì những
chính sách thuế đối với hàng hoá xuất khẩu đợc các nhà lập chính sách cân nhắc
rất kỹ sao cho có lợi nhất cho doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, tham gia
hoạt động xuất khẩu. Cụ thể là :
Điều 3 của luật thuế tiêu thụ đặc biệt(TTĐB) quy định đối tợng không
chịu thuế TTĐB là hàng hoá quy định tại khoản 1 điều 1 luật thuế TTĐB khi cơ
sở sản xuất gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, uỷ thác cho các cơ sở kinh
doanh xuất khẩu .
Hiện nay do chính sách u tiên xuất khẩu nên hàng hoá đặc biệt khi xuất
khẩu không phải là đối tợng chịu thuế TTĐB. Nh vậy ngay trong việc thực hiện
chính sách và ban hành chính sách u tiên xuất khẩu cũng có những vấn đề đặt ra:
Hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu, thoát ly khỏi ràng buộc của thuế TTĐB
do ngời tiêu dùng ở ngoài lãnh thổ Việt Nam Nhà nớc không điều chỉnh tiêu
dùng của đối tợng này.
Mặt khác việc xác định hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu thuộc đối tợng
chịu thuế nào?
Ngoài việc, xác định đối tợng chịu thuế đối với hàng hoá xuất khẩu đã có
những u đãi thì việc hoàn thuế với hàng hoá xuất khẩu cũng đợc khuyến khích.
Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp dụng thuế suất 0% không theo
mặt hàng hay nhóm hàng nh các mức thuế suất 5%, 10% hoặc 20% đợc quy định
theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Luật thuế giá trị gia tăng quy định việc áp
dụng thuế suất 0% không theo mặt hàng hay nhóm hàng nh các mức thuế suất
5%, 10% hoặc 20% đợc quy định theo mục đích và hàng hoá xuất khẩu. Điều

này có nghĩa là bất cứ mặt hàng nào thuộc đối tợng chịu thuế VAT khi đem xuất
khẩu đều đợc áp dụng thuế suất 0% và đợc hoàn thuế VAT đầu vào. Nh vậy cùng
với việc khuyến khích xuất khẩu, kích thích sản xuất cùng với vấn đề giải quyết
việc làm, hàng hoá đặc biệt khi xuất khẩu đợc bình đẳng với hàng hoá khác khi
xuất khẩu .
2. Chính sách tỷ giá hối đoái.
Cũng giống nh các biến số kinh tế vĩ mô khác, tỷ giá hối đoái rất nhạy
cảm với sự thay đổi của nó có những tác động rất phức tạp, ảnh hởng đến toàn bộ
nền kinh tế quốc dân theo những tác động khác nhau thậm chí trái ngợc nhau. Đ-
a đến những kết quả khó lờng trớc, đụng chạm không chỉ tới xuất nhập khẩu, cán
cân thơng mại mà còn tới mặt bằng giá cả, lạm phát và tiền lơng thực tế, đầu t và
vay nợ nớc ngoài, ngân sách nhà nớc ,cán cân thanh toán quốc tế cũng nh sự ổn
định kinh tế vĩ mô nói chung .
Ngay từ 1996, thực hiên chính sách đổi mới toàn diện và sâu sắc, nớc ta có
những điều chỉnh lại tỷ giá một cách căn bản. Hoạt động ngoại thơng phát triển
mạnh, kim ngạch xuất khẩu 2000 gấp hơn 4 lần so với 1990, quan hệ với các nớc
trên thế giới mở rộng. Với sự phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống
nhất tỉ giá chính thức với thị trờng, xoá bỏ cơ bản hệ thống tỉ giá cũ quá phức tạp
thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỉ giá của Việt Nam đã có bớc
chuyển biến rất căn bản sang cơ chế thị trờng, thoát khỏi trạng thái thụ động để
trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở.
Trong giai đoạn 1992-1996, ổn định tỉ giá hối đoái quan trọng hơn là tăng
giá để khuyến khích xuất khẩu là điều cốt lõi và cũng là thành công của chính
sách tỷ giá trong giai đoạn này biểu hiện kim ngạch xuất khẩu liên tục qua các
năm tăng cao từ 20-30%/năm.
Sự ra đời của thị trờng ngoại tệ cho phép 7 ngoại tệ đợc sử dụng để giao
dịch: USD, DEM, GBP, FF, JPY, HKD, VND, cùng với việc ra đời 2 trung tâm
giao dịch ngoại tệ ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là bớc tiến đáng kể theo hớng
thị trờng gián tiếp kích thích xuất khẩu thông qua tạo mặt bằng giá hợp lý hơn.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, xuất khẩu là một trong những nguồn cung

ngoại tệ chủ chốt song cung cầu ngoại tệ luôn luôn căng thẳng và VND không
có khả năng chuyển đổi hoàn toàn nên trong thời gian tới vẫn tập chung ngoại tệ
vào các ngân hàng, để ngân hàng thống nhất ngoại hối. Đồng thời tự do hoá
quyền sở hữu và sử dụng ngoại tệ, đặt ngoại tệ thành một hàng hoá đặc biệt đợc
trao đổi trên thị trờng. Đẩy mạnh các biện pháp khuyến khích không tiêu dùng
tiền mặt trong thanh toán ngoại tệ, mở rộng tiến tới tự do hoá mở và sử dụng tài
khoản nớc ngoài và kinh tế trong nớc. Để kích thích xuất khẩu giảm dần tiến tới
xoá bỏ việc bảo đảm cân đối ngoại tệ từ phía chính phủ. Mở rộng quyền sử dụng
ngoại tệ của các doanh nghiệp xuất khẩu, tăng cờng quyền hạn và vai trò của
ngân sách Nhà nớc trong dịch vụ xuất khẩu. Để đảm bảo cho nhà xuất khẩu một
mặt cần điều chỉnh giá mua ngoại tệ linh hoạt không để doanh nghiệp bị thua lỗ
do biến động tỷ giá. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu mở,
sử dụng, chuyển cũng nh đóng tài khoản của mình.
Trong dài hạn, mục tiêu là khả năng chuyển đổi hoàn toàn của Việt Nam
và một tỷ giá thích hợp có tác dụng khuyến khích tăng trởng kinh tế và khuyến
khích xuất khẩu. Khi VND có khả năng chuyển đổi hoàn toàn thì quy định về
ngoại hố nói chung về bản tệ nói riêng sẽ đợc dần dần nới lỏng và các nhà xuất
khẩu có toàn quyền sở hữu và chủ động sử dụng số ngoại tệ của mình theo cơ
chế thị trờng.
Tóm lại trong thời gian tới vẫn tiếp tục duy trì chính sách tỷ giá hợp lý để
ngân hàng Nhà nớc điều chỉnh tỷ giá một cách linh hoạt, phù hợp cung cầu
không gây biến động lớn cho nền kinh tế, góp phần khuyến khích xuất khẩu
trong ngắn hạn và trung hạn không đặt vấn đề kích thích xuất khẩu bằng công cụ
phá giá và nới lỏng quản lý ngoại hối mà chỉ dừng lại ở chính sách tỷ giá không
cản trở hay bóp chết xuất khẩu .
3. Chính sách đầu t đối với doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu và tham
gia hoạt động xuất khẩu .
Đầu t là hoạt động bỏ vốn và làm tăng quy mô của tài sản quốc gia.
Hoạt động đầu t bao gồm đầu t trong nớc và đầu te nớc ngoài. Đối với đầu
t trong nớc đặc biệt là những doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng hoá xuất

khẩu đợc Nhà nớc khuyến khích xuất khẩu nhất là các mặt hàng chủ lực có lợi
thế so sánh thông qua vận hành quỹ hỗ trợ xuất khẩu, quỹ bảo lãnh xuất khẩu
cũng nh các biện pháp hỗ trợ về thông tin, tìm kiếm khách hàng, tham dự triển
lãm
Đối với khu vực đầu t nớc ngoài nói chung và đầu t trực tiếp nớc ngoài là
một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá mức độ hội nhập kinh tế của
một đất nớc, là một cầu nối quan trọng giữa kinh tế nội địa với nền kinh tế toàn
cầu. Do đó, tăng cờng thu hút vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài đợc coi là giải pháp
quan trọng húc đẩy xuất khẩu. Trong đề án này em xin đa ra giải pháp thu hút
vốn đầu t trực tiếp nớc ngoài thúc đẩy xuất khẩu .
Trớc tiên, cần phải khẳng định rằng, trong thời gian qua khu vực có vồn
đầu t nớc ngoài cung cấp cho xã hội khối lợng hàng hoá ngày càng lớn, nhất là
hàng hoá xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Cụ thể là: Kim ngạch xuất khẩu của
khu vực có vốn đầu t nớc ngoài năm 1991 là 52 triệu USD, năm 1995 tăng lên
440 triệu, năm 1996 đạt 786 triệu, năm 1998 đạt 1,5 tỷ(chiếm khoảng 15% tổng
kim nghách xuất khẩu cả nớc) cha kể dầu thô. Trong 10 năm qua đầu t trực tiếp
nớc ngoài đóng góp tích cực vào quá trình phát triển kinh tế xã hội và đóng góp
ngày càng cao và tăng kim nghạch xuất khẩu cũng nh đóng góp vào GDP: năm
1992 là 2%, đến năm 1998 là 8,6%. Trong những năm tới Nhà nớc liên tục có
những điều chỉnh chính sách đầu t nớc ngoài nhằm phát huy vai trò của nố đối
với hoạt động xuất khẩu thông qua: Bổ sung nguồn vốn cho doanh nghiệp,
chuyển giao công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, mở rộng thị tr-
ờng
Nh vậy có thể thấy rằng gia tăng quy mô và nâng cao hiệu quả sử dung
vốn đầu t trực tiếp từ nớc ngoài là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm
đạt mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu .
Hoạt động xuất khẩu nói chung và hoạt động thuỷ sản nói riêng đều khát
vốn. Nh ta đã biết, ngành khai thác và chế biến thuỷ sản có tiềm năng phát triển
rất lớn mà quy mô vốn đầu t mới chỉ đáp ứng đợc 20%. Trong đó cha kể đầu t
còn cha đồng bộ mang nặng tính tự phát khiến dự án thuỷ sản cha phát huy đợc

hiệu quả.
Có lẽ việc quy hoạch vùng nuôi còn dang dở nên các tổ chức cho vay tín
dụng tỏ ra khá e dè trong việc thẩm định dự án vay vốn để nuôi trồng. Đây là
nguyên nhân đầu tiên khiến cho khu vực nuôi thuỷ sản khát vốn
Hiện nay, nhiều tỉnh cha có quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội
hoặc có nhng lại không cập nhật với thực tiễn cộng với việc chanh chấp và thiếu
phân định rõ ràng giữa nuôi trồng thuỷ sản và đất nông nghiệp gây trở ngại
klhông nhỏ cho quá trình xét duyệt cấp vốn.
Theo các chuyên gia thuỷ sản, trong khi vốn trong nớc còn hạn chế thì
việc thu hút thêm nguồn đầu t trực tiếp từ nớc ngoài sẽ giúp ngành thuỷ sản
thành công.
Theo ông Nguyễn Trọng Hồng - Thứ trởng bộ thuỷ sản việc huy động
35.000 tỷ đồng vào thuỷ sản là rất khó khăn bởi vì nhìn vào khoảng thời gian 86-
98 tỷ trọng vốn đầu t cho thuỷ sản chỉ đợc 12,49% tơng đơng với 974 tỷ đồng.
Trong khi đó có rất ít doanh nghiệp đầu t cho đổi mới công nghệ, sản phẩm có
giá trị gia tăng mới chỉ chiếm 6 -7% kim ngạch xuất khẩu. Trình độ bảo quản
nguyên liệu hạn chế nên việc thất thoát sau thu hoạch là vẫn cao. Đó là lý do giải
thích vì sao Việt Nam cho đến nay chỉ có 35 doanh nghiệp đăng ký nâng cao cơ
sở chế biến theo HACCP và chỉ có 27 doanh nghiệp đợc công nhận sản xuất
hàng hoá đạt yêu cầu thị trờng EU
Giải quyết vấn đề vấn đề vốn thứ trởng bộ thuỷ sản cho rằng: chỉ nhà nớc
mới giám đầu t vốn vào các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, đòi hỏi vốn lớn, khó
và lâu thu hồi vốn nh cầu cảng, bến cá , mua sắm thiết bị phục vụ nghiên cứu
khoa học điều tra nguồn lợi đào tạo khuyến ng.
Từ nay đến 2010 nên chăng bộ thuỷ sản hoàn thành hàng loạt công trình hạ
tầng dịch vụ nh cầu cảng, bến đậu, hệ thống cấp dầu, nớc ngọt, kho chứa tại các
tuyến bờ, tuyến đảo. Đồng thời vốn ngân sách nhà nớc cũng sẽ đóng góp chủ lực
để khôi phục và nâng cấp các bến cá địa phơng ở các tỉnh ven biển nh Hòn Gai,
Đồ Sơn, Ninh Cơ cũng nh nạo vét các cửa sông để thuyền bè ra vào đợc dễ
dàng.

4. Chính sách, chiến lợc xúc tiến xuất khẩu .
Khái niệm xúc tiến thơng mại đợc coi là mới ở những nớc có nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung. Nhìn từ góc độ nghiệp vụ kinh doanh quốc tế xúc tiến
thơng mại có thể là xúc tiến xuất khẩu, xúc tiến nhập khẩu và phát triển thơng
mại nội địa. Xúc tiến xuất khẩu là một bộ phận của xúc tiến thơng mại nhng do
tầm quan trọng của nó nên nhiều khi ngời ta thờng nói tới nh một khái niện
riêng biệt. Xúc tiến xuất khẩu gồm ba nhóm yếu tố sau:
Kết cấu hạ tầng cơ bản.
Chế độ tỷ giá hối đoái, chính sách lãi suất và những biện pháp khuyến
khích nhằm tạo ra môi trờng thuận lợi cho xuất khaảu.
Biện pháp công cụ cụ thể để một nớc tham gia thành công vào thị trờng
quốc tế.
Quá trình phát triển xuất khẩu ở Việt Nam, vấn đề kết cấu hạ tầng còn
thiếu trên mọi lĩnh vực đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc
đã cản trở rất nhiều cho hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thuỷ sản
nói riêng. Hầu hết sản phẩm hải sản khai thác đều có tính tơng đồng cao. Do đó
sức cạnh tranh của mặt hàng với công nghệ bảo quản sau thu hoạch sẽ quyết
định phần lớn u thế trên thị trờng quốc tế. Trong khi đó ở Việt Nam bảo quản
thuỷ sản chủ yếu trong hầm đá và các mắt tre do đó gây ra sự giảm sút chất
dinh dỡng dẫn đến giá cả bị tụt xuống. Mặt khác, đối với khai thác thuỷ sản ở n-
ớc ta, phơng tiện đánh bắt xa bờ còn hết sức thô sơ, lạc hậu và thiếu thốn cho nên
ảnh hởng không nhỏ tới việc bảo quản sau thu hoạch.
Vai trò to lớn của kết cấu hạ tầng đòi hỏi chúng ta phải thành lập khu chế
xuất để tạo ra nguồn xuất khẩu sản phẩm chế biến. Việc cung cấp một số kết cấu
hạ tầng trong các khu vực địa lý đợc phân định rõ theo các khu chế xuất có thể
góp phần xúc tiến xuất khẩu trong một thời gian tơng đối ngắn thông qua khả
năng cung cấp cho các nhà công nghiệp Việt Nam nhiều kinh nghiệm, kiến thức
chuyên môn về quản lý, marketing, thu hút công nghệ, Tuy nhiên lợi ích của
khu chế xuất mang lại không đợc nh ngời ta mong đợi nên không coi chúng là
biện pháp xúc tiến xuất khẩu. ở Việt Nam, chúng ta áp dụng biện pháp xúc tiến

xuất khẩu sau:
Thứ nhất, về tỷ giá hối đoái: Việt Nam áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thống
nhất. Ngày 27/2/1998, thống đốc ngân hàng Nhà nớc Việt nam ra quyết định
45/QĐ-NH về việc quy định nguyên tắc ấn định tỷ giá mua, bán ngoại tệ của các
tổ chức tín dụng đợc phép kinh doanh ngoại tệ trong phạm vi biên độ dao động
5% so với tỷ giá chính thức do thống đốc ngân hàng công bố hàng ngày. theo
quyết định 16-1998 QĐNHNN7 ra ngày 10/1/1998 thì biên độ này là 10 so với
tỷ giá chính thức. Điều đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất
khẩu đẩy mạnh công tác xuất khẩu ở doanh nghiệp mình.
Thứ hai, về tín dụng xuất khẩu đợc thông qua ngân hàng thơng mại. Việc mở
rộng quyền cấp tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nớc
của các ngân hàng thơng mại là một bớc tiến lớn trong hệ thống ngân hàng. Chủ
trơng chuyển hoá từ cho vay nhập khẩu sang cho vay đầu t xuất khẩu của các
ngân hàng góp phần nâng cao hệ số sử dụng vốn.
Để khắc phục vấn đề khát vốn cho doanh nghiệp xuất khẩu ở Việt Nam đó
là một hình thức tín dụng thuê mua ra đời. Công ty cho thuê tài chính quốc tế tại
Việt Nam ra đời có ý nghĩa rất lớn đối với doanh nghiệp không đủ vốn vẫn có
thể thuê đợc máy móc, thiết bị hiện đại để thay đổi công nghệ sản xuất, chất l-
ợng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam trên
thị trờng quốc tế.
Thứ ba về chính sách lãi suất: Sự điều chỉnh linh hoạt chính sách lãi suất
của ngân hàng là một việc làm tích cực giúp doanh nghiệp xuất khẩu mạnh dạn
vay vốn phát triển sản xuất kinh doanh xuất khẩu, hạ giá thành nhờ lợi thế quy
mô, và nâng cao khả năng cạnh trang của hàng Việt Nam.
Tóm lại, trong 10 năm tới GDP nớc ta phát triển tăng chí ít là gấp đôi và
đến năm 20 về cơ bản trở thành nớc công nghiệp. Để thực hiện nhiệm vụ này,
xuất khẩu chiếm vị trí cực kỳ quan trọng, tốc độ phát triển của nó chí ít phải gấp
đôi tốc độ tăng trởng của GDP, đồng thời hạn chế đi tới chấm dứt tình trạng nhập
siêu, cân bằng cán cân thơng mại quốc tế. Để đẩy mạnh xuất khẩu trong những
năm tới có ba khâu then chốt gắn quyện với nhau là đổi mới cơ cấu mặt hàng,

mở rộng thị trờng và nâng cao sức cạnh tranh.
Về cơ cấu mặt hàng thuận chiều với cơ cấu kinh tế thế giới, bám sát tín
hiệu thị trờng, phù hợp với nhu cầu không ngừng của ngời tiêu dùng. Tức là
chúng ta sản xuất những mặt hàng xuất khẩu mà thiên hạ cần chứ không chỉ làm
ra những gì ta có. Theo đó tỷ trọng hàng thô và sơ chế không ngừng giảm tơng
đối, sản phẩm chế biến, chế tạo tăng mạnh, sản phẩm của các ngành công nghệ
cao, hàm lợng chất xám nhiều phải chiếm vị trí thoả đáng.
Tuy nhiên đi đôi với phơng châm trên cần khai thác mọi nguồn lực để đẩy
mạnh xuất khẩu theo phơng châm nặng nhặt, chặt bị. Bởi quá trình chuyển
dịch cơ cấu không thể hoàn thành trong một sớm một chiều, hơn nữa lao động n-
ớc ta còn d thừa nhiều, vấn đề việc làm còn bức xúc.

×