Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.19 KB, 69 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH
TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG
MẠI ........................................................................................................ 3
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại: ............................... 3
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay: ................................................. 3
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay: .................................................. 10
1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho vay: .............................................. 11
1.2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng
thương mại: ................................................................................................ 12
1.2.1. Thế nào là Thẩm định trong hoạt động cho vay? .................... 12
1.2.2. Vai trò của Thẩm định ................................................................ 13
1.2.3. Nội dung Thẩm định .................................................................. 15
1.2.4. Nguồn thông tin cho thẩm định ................................................ 21
1.3. Chất lượng Thẩm định ...................................................................... 23
1.3.1. Chất lượng Thẩm định là gì? ..................................................... 23
1.3.2. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng Thẩm định ......................... 23
1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng Thẩm định ............... 25
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CHO VAY TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG
THÀNH CÔNG .................................................................................... 30
2.1. Khái quát về Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và chi nhánh
Thành Công ................................................................................................ 30
2.1.1. Lịch sử hình thành: ..................................................................... 30
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
Chuyên đề tốt nghiệp
2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh năm 2006, 2007 của chi
nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công .................................... 33
2.1.3. Những khó khăn mà chi nhánh đang gặp phải : ...................... 41


2.2. Thực trạng chất lượng Thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi
nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công ........................................ 42
2.2.1. Quy trình Thẩm định trong cho vay ........................................ 42
2.2.2. Những mặt đạt được: .................................................................. 52
2.2.3. Những mặt còn hạn chế và nguyên nhân .................................. 53
CHƯƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG THÀNH
CÔNG: .................................................................................................. 54
3.1. Đinh hướng hoạt động cho vay tại Ngân hàng ngoại thương Thành
Công trong thời gian tới: .......................................................................... 54
3.2. Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng Thẩm định trong
hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng ngoại thương Thành Công
..................................................................................................................... 55
3.2.1. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ: ........................................ 55
3.2.2. Các cán bộ thẩm định phải tăng cường chủ động tìm kiếm
những khách hàng có chất lượng, những dự án đầu tư khả thi. ....... 57
3.2.3. Đa dạng hóa nguồn thông tin phục vụ công tác thẩm định: ... 58
3.2.4. Hoàn thiện phương pháp thẩm định và phương pháp chấm
điểm tín dụng - xếp hạng khách hàng: ............................................... 60
3.2.5. Một số ý kiến đề xuất khác: ........................................................ 61
3.3. Một số kiến nghị: ................................................................................ 62
3.3.1. Về phía Nhà nước và các Bộ, ngành .......................................... 62
3.3.2. Đối với NHNN .............................................................................. 63
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
Chuyên đề tốt nghiệp
3.3.3. Đối với khách hàng: .................................................................... 63
KẾT LUẬN ........................................................................................... 65
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B


Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Các nghiệp vụ ngân hàng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc bởi những đặc
trưng của nền kinh tế nói chung và mục đích hoạt động của ngân hàng nói riêng trong
từng thời kỳ nhất định. Công tác thẩm định trong hoạt động cho vay cũng không
đứng ngoài nguyên tắc này.
Năm 2007, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng với nhiều cơ hội từ việc
gia nhập WTO mang lại. Một số ngành đã xấp xỉ đạt chỉ tiêu kế hoạch phát triển đến
năm 2010 như thủy sản, dệt may, … Năm qua, GDP tăng trưởng 8,2% cùng với sự
tăng trưởng nhanh của lĩnh vực xuất nhập khẩu, công nghiệp, xây dựng, điện lực,
hàng không, đầu tư trực tiếp nước ngoài,… Việc gia nhập và thực hiện các cam kết
WTO sẽ mang lại những thay đổi theo hướng tạo ra một thị trường mở hơn và có tính
cạnh tranh cao hơn, thúc đẩy khu vực ngân hàng tăng trưởng cả về qui mô và tính
phức tạp.
Kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực rất nhạy cảm, hàm chứa nhiều rủi ro, đặc
biệt trong hoạt động cho vay. Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà
ngân hàng phải gánh chịu do khách hàng không trả nợ đúng hạn, không trả được hoặc
không trả đầy đủ cả vốn lẫn lãi. Hoạt động cho vay có quy mô lớn nhất trong tất cả
các hoạt động tại ngân hàng, mang lại lợi nhuận chủ yếu cho ngân hàng, nên khi có
rủi ro, thì rủi ro đó tác động đến tất cả các hoạt động khác trong ngân hàng như huy
động vốn, kinh doanh dịch vụ, kế toán thanh toán,…Để hạn chế rủi ro tín dụng, ngân
hàng cần tìm kiếm những khách hàng có khả năng vay và trả đúng hạn, tìm kiếm
được những phương án sản xuất kinh doanh khả thi, mang lại lợi nhuận để ra quyết
định cho vay. Muốn vậy, ngân hàng cần làm tốt công tác thẩm định trước khi cho vay
để hạn chế mức thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận có
thể thu được.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp nâng
cao chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Đề tài đã nêu ra
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B

1
Chuyên đề tốt nghiệp
một số kiến thức cơ bản về hoạt động cho vay của NHTM và công tác thẩm định
trong hoạt động cho vay. Đồng thời, đề tài này cũng nêu lên thực trạng công tác thẩm
định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh Ngân hàng Ngoại thương Thành Công
trong những năm gần đây, hướng đến một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất
lượng thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi nhánh.
Chuyên đề được chia làm ba phần chính:
Chương I: Lý thuyết về Chất lượng thẩm định trong hoạt động cho vay của
Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng công tác thẩm định trong hoạt động cho vay tại Chi
nhánh NHNT Thành Công
Chương III: Một số ý kiến đề xuất nhằm nâng cao chất lượng thẩm định trong
hoạt động cho vay tại Chi nhánh NHNT Thành Công.
Ngoài ra, chuyên đề còn có hệ thống các bảng số liệu, biểu đồ minh họa.
Em xin cảm ơn sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của cô giáo - Th.s Hoàng Lan
Hương đã giúp em hoàn thành chuyên đề này, cảm ơn toàn thể cán bộ của Ngân hàng
Ngoại thương Thành Công, đặc biệt là các anh chị ở phòng Quan hệ khách hàng đã
tạo điều kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ và cung cấp đầy đủ số liệu trong suốt thời
gian em thực tập tại ngân hàng.
Em xin chân thành cảm ơn!
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
2
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I: LÝ THUYẾT VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
1.1.1. Khái niệm về hoạt động cho vay:
1.1.1.1. Tổng quan về Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh

tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại, tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói
chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó, ngân hàng thương mại thường chiếm
tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng
là một kênh quan trọng thu hút vốn nhàn rỗi và cung cấp nguồn vốn đáp ứng nhu cầu
nền kinh tế.
Xét theo phương diện các loại hình dịch vụ mà nó cung cấp, Peter Rose cho
rằng: Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện
nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế.
Theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
1997, Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và hoạt động ngân hàng
với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Theo Nghị định 49-CP của Chính phủ ban hành năm 2000, Ngân hàng thương
mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện các mục tiêu kinh
tế của Nhà nước.
Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay đều có định hướng
hoạt động khá giống nhau là kinh doanh đa năng, đa lĩnh vực, phục vụ đa dạng các
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
3
Chuyên đề tốt nghiệp
khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Đây cũng là xu hướng phát triển hoạt động
kinh doanh của hầu hết các tổ chức tài chính, NHTM trên thế giới
Các chức năng cơ bản của một ngân hàng đa năng ngày nay:
1.1.1.2. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
Cho vay là hoạt động quan trọng nhất của NHTM nói riêng và của các trung
gian tài chính nói chung, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ
lãi lớn nhất và cũng mang lại nhiều rủi ro nhất.

Theo Điều 4, NĐ 49/2000/NĐ-CP, Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng
cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ
có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước.
Cho vay là một bộ phận của hoạt động tín dụng. Theo QĐ 1627/2001/ QĐ –
NHNN thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó các tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng một khoản tiền sử dụng vào một mục đích và trong một thời gian
nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”. Qua hoạt động cho
vay, ngân hàng điều hòa vốn trong nền kinh tế dưới hình thức là phân phối lại nguồn
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
Ngân hàng hiện
đại
Môi giới
Bảo hiểm
Ngân hàng đầu

Thanh
toán
Tiết kiệm
Tín dụng
Ủy thác
Quản lý tiền
mặt
Lập kế hoạch đầu

4
Chuyên đề tốt nghiệp
vốn nhàn rỗi huy động được từ dân cư, doanh nghiệp, Nhà nước, các tổ chức tín dụng
khác, để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng.
Điều 5 NĐ này quy định: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân

vay vốn dưới các hình thức :
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch
vụ, đời sống.
- Cho vay trung hạn, dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, đời sống.
Phân loại:
 Căn cứ theo thời gian:
- Cho vay ngắn hạn: dưới 12 tháng, mục đích của loại cho vay này thường tài
trợ cho việc đầu tư vào tài sản lưu động của khách hàng;
- Cho vay trung hạn: từ 1 đến 5 năm, nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào tài sản cố
định;
- Cho vay dài hạn: trên 5 năm, thường là đầu tư vào các dự án.
Việc xác định thời hạn trên cũng chỉ mang tính tương đối vì nhiều khoản vay
không xác định trước được chính xác thời hạn. Việc phân chia theo thời gian có ý
nghĩa rất quan trọng đối với ngân hàng vì thời gian liên quan mật thiết đến tính an
toàn và sinh lợi của tài sản.
 Căn cứ vào phương thức cho vay của ngân hàng:
- Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay mà ngân hàng cho phép khách hàng
(người vay) được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn
nhất định và trong một khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức
thấu chi. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng không phù hợp về thời
gian và quy mô. Hình thức cho vay này tạo điều kiện cho khách hàng trong việc
thanh toán: chủ động, nhanh chóng và kịp thời. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
5
Chuyên đề tốt nghiệp
hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho doanh
nghiệp lẫn cá nhân trong vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả
lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,… Do vậy hình thức này chỉ sử dụng cho
đối tượng khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn.

- Cho vay theo hạn mức: Là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thỏa thuận
cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng, là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn
mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu
cầu vay vốn của khách hàng. Trong kỳ khách hàng có thể vay – trả nhiều lần nhưng
số dư không được vượt quá hạn mức tín dụng.
- Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa.
Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho khách hàng vay
để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Cho vay dựa trên lưu chuyển
của hàng hóa nên cả ngân hàng và khách hàng đều phải nghiên cứu kỹ kế hoạch lưu
chuyển hàng hóa để dự đoán dòng ngân quỹ trong thời gian tới. Rất thuận tiện cho
khách hàng vì chỉ cần làm thủ tục 1 lần cho nhiều khoản vay.
- Cho vay gián tiếp: Phần lớn các khoản cho vay của ngân hàng đều là cho vay
trực tiếp, bên cạnh đó ngân hàng cũng phát triển hình thức cho vay gián tiếp- là hình
thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Ngân hàng cho vay qua các tổ, đội,
hội, nhóm như nhóm sản xuất, Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh,…
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của quá trình cho vay sang các tổ chức trung
gian, như thu nợ, phát tiền vay,… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp
cho các thành viên vay vốn. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc
không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí trung gian, ngân hàng trích
một phần thu nhập để lại cho trung gian. Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua
người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn
chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Hình thức cho vay gián tiếp thường được
áp dụng đối với thị trường có các món vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân
hàng, qua trung gian có thể tiết kiệm được chi phí cho vay ( phân tích, giám sát, thu
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
6
Chuyên đề tốt nghiệp
nợ,…). Mặc dù hình thức cho vay qua trung gian hạn chế được rủi ro và chi phí cho
ngân hàng, nhưng nó cũng bộc lộ một số khuyết điểm như: nhiều trung gian đã lợi
dụng vị thế của mình và nếu ngân hàng không kiểm soát tốt sẽ tăng lãi suất để cho

vay lại, hoặc giữ lấy số tiền của các thành viên khác cho mình, các nhà bán lẻ có thể
lợi dụng để bán hàng kém chất lượng hoặc với giá đắt cho người vay vốn.
 Căn cứ theo hình thức hoàn trả nợ vay:
- Cho vay trả góp: Là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàng cho phép khách
hàng trả gốc làm nhiều lần trong thới hạn tín dụng xác định. Cho vay trả góp thường
được áp dụng với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho TSCĐ hoặc hàng lâu
bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Ngân
hàng thanh toán tiền hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp cho người bán lẻ. Các
cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía ngân hàng, và làm đại lý thu
tiền cho ngân hàng, hoặc khách hàng trả tiền trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình
thức tín dụng tài trợ cho người mua ( qua đó đến người bán) nhằm khuyến khích tiêu
thụ hàng hóa. Đây là hình thức cho vay mang lại rủi ro cao do khách hàng thường
dùng chính hàng hóa mua trả góp để thế chấp, khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu
nhập đều đặn của người vay. Vì rủi ro cao nên cho vay trả góp thường có lãi suất cao
nhất trong khung lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Cho vay trực tiếp từng lần: Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân
hàng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều
kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình
ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng, ký hợp
đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất
và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu
gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước
hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nổi theo thời điểm tính
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
7
Chuyên đề tốt nghiệp
lãi. Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản, ngân hàng có thể kiểm soát từng
món vay cách biệt.
 Căn cứ theo đảm bảo hay dựa vào mức độ tín nhiệm khách hàng:

- Cho vay không có tài sản đảm bảo;
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản thế chấp hoặc cầm cố.
Về nguyên tắc mọi khoản cho vay của ngân hàng đều phải có đảm bảo. Tuy
nhiên ngân hàng chỉ ghi vào hợp đồng tín dụng loại đảm bảo mà ngân hàng có thể
bán đi để thu nợ nếu khách hàng không trả nợ. Do đó các khoản nợ có đảm bảo thực
chất là các khoản tài trợ có nguồn thu nợ thứ hai từ đảm bảo. Các khoản nợ không
gắn với hợp đồng đảm bảo được ngân hàng xếp vào tài trợ không đảm bảo. Việc
phân chia này không nói lên tính an toàn của khoản tài trợ của ngân hàng mà chỉ giúp
ngân hàng theo dõi các hợp đồng về đảm bảo, đưa ra các biện pháp xử lý đảm bảo
khi cần thiết.
 Căn cứ vào mục đích: Cho vay đầu tư theo dự án và cho vay tiêu dùng.
- Cho vay đầu tư theo dự án: Bên cạnh loại hình truyền thống là cho vay ngắn
hạn, ngân hàng ngày càng trở nên năng động hơn trong việc cho vay đối với các dự
án, tài trợ cho xây dựng các nhà máy mới, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao.
Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định,… nhằm thực hiệ
những dự án nhất định, có thể xin vay ngân hàng. Một trong những yêu cầu của ngân
hàng là người đi vay phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng
như quá trình thực hiện dự án. Thẩm định dự án là điều kiện để ngân hàng quyết định
phần vốn cho vay và khả năng hoàn trả của doanh nghiệp. Do rủi ro trong loại hình
tín dụng này nói chung là rất cao song lãi lại lớn.
- Cho vay tiêu dùng: là những món vay nhỏ lẻ cho cá nhân, phục vụ cho mục
đích tiêu dùng, mua hàng trả góp hàng hóa lâu bền như ô tô, xe máy, nhà cửa,… Cho
vay tiêu dùng được bắt đầu từ các hãng bán lẻ, do yêu cầu đẩy mạnh tiêu thụ hàng
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
8
Chuyên đề tốt nghiệp
hóa. Hình thức cho vay tiêu dùng của các hãng là bán trả góp. Một số hãng đã phải
vay ngân hàng để bù đắp vốn lưu động thiếu hụt.
Trong thời gian đầu hầu hết các ngân hàng đều không tích cực cho vay đối với
cá nhân và hộ gia đình, vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro vỡ nợ

tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dân dẫn đến nhu cầu tiêu dùng
ngày một cao và sự cạnh tranh trong cho vay đã khiến ngân hàng phải hướng tới
người tiêu dùng như một đối tượng khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới
thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng
trưởng mạnh nhất ở các nước phát triển.
Phương thức cho vay có thể cho vay trực tiếp đối với người mua hoặc thông
qua tài trợ cho các doanh nghiệp bán lẻ hàng lâu bền, các công ty xây dựng để các
doanh nghiệp này bán hàng trả góp. Ngân hàng có thể tài trợ (hoặc đồng tài trợ) toàn
bộ, hoặc một phần giá trị hàng hóa. Cho vay tiêu dùng có rủi ro rất cao. Nếu người
vay bị chết, ốm, hoặc mất việc, ngân hàng sẽ khó thu được nợ. Nhiều khoản cho vay
với thời hạn dài (mua nhà thế chấp), vì vậy ngân hàng cần lập dự phòng cho vay tiêu
dùng để chuyên theo dõi. Bên cạnh đó ngân hàng thường đòi hỏi lãi suất rất cao, yêu
cầu người vay phải mua bảo hiểm thất nghiêp, bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm hàng hóa
đã mua,…
Ngoài ra các ngân hàng cũng có thể cho vay bằng cách mua trái phiếu trung và
dài hạn của Chính phủ hoặc doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài
sản cố định. Kì hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất, tình hình tài chính
của doanh nghiệp, các kế hoạch tương lai… đều được ngân hàng tính toán khi mud
trái phiếu. Trái phiếu cũng có thể xem như là khoản đầu tư của ngân hàng trung và
dài hạn.
Ngân hàng thực hiện tài trợ theo nhiều nghiệp vụ và hình thức khác nhau, nhằm
đáp ứng nhu câù ngày càng cao và đa dạng của hàng triệu khách hàng, từ quốc gia, tổ
chức tài chính, tổ chức liên chính phủ và phi chính phủ, các doanh nghiệp, hộ gia
đình,… Các loại hình cho vay không ngừng được mở rộng, đa dạng và hoàn thiện
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
9
Chuyên đề tốt nghiệp
theo hướng mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng, đồng thời vẫn đảm bảo an toàn
và lợi ích cho ngân hàng.
1.1.2. Vai trò của hoạt động cho vay:

Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản vốn (huy
động vốn) để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo
nên các tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài
sản lớn nhất và quan trọng nhất. Cho vay là tài sản lớn nhất trong các khoản mục tín
dụng, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Đối với nền kinh tế:
- Cho vay là một kênh cung cấp vốn quy mô lớn và quan trọng nhất trong nền
kinh tế. Có rất nhiều cách để huy động vốn như: góp vốn, đi vay, phát hành cổ phiếu,
trái phiếu, vốn từ tài trợ, huy động từ các nguồn khác,…tuy nhiên đi vay vẫn là kênh
vốn phổ biến nhất với chi phí vừa phải, và tiết kiệm thời gian.. Mặc dù nếu doanh
nghiệp huy động vốn bằng các hình thức khác, lãi suất sẽ thấp hơn nhưng những chi
phí khác mà doanh nghiệp phải bỏ ra không phải là nhỏ, lại mất nhiều thời gian.
Ngoài ra đi vay còn giúp doanh nghiệp có một khoản tiết kiệm từ thuế không phải
nộp cho Nhà nước.
- Cho vay đóng vai trò quan trọng trong đầu tư phát triển. Trong mỗi thời kỳ,
Nhà nước đều có những chính sách, chiến lược khác nhau, nhưng đầu tư phát triển
luôn là mục tiêu hàng đầu. Do vậy hoạt động cho vay luôn được khuyến khích, quan
tâm.
1.1.2.2. Đối với ngân hàng:
Cho vay là nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng nhằm sử dụng nguồn vốn đã huy
động được để thu lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay là nguồn lợi nhuận
chính của ngân hàng, (chiếm khoảng 70% tổng lợi nhuận).
Cho vay còn là kênh “tiêu thụ” cho nguồn vốn huy động được, không để nguồn
tiền nhàn rỗi trong dân cư trở nên lãng phí trong khi có rất nhiều dự án phục vụ đầu
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
10
Chuyên đề tốt nghiệp
tư phát triển đang cần vốn. Ngân hàng cho vay, thu lãi nhằm bù đắp phần lãi phải trả
cho người gửi tiền, đồng thời kiếm lợi cho mình, đảm bảo duy trì ổn định và kinh
doanh có hiệu quả.

1.1.3. Đặc điểm của hoạt động cho vay:
Bản chất của hoạt động cho vay là một loại hình cấp tín dụng nên nó có đầy đủ
những đặc điểm của hoạt động tín dụng. Ngân hàng cấp tín dụng vì mục tiêu sinh lời,
như vậy, mục tiêu an toàn và sinh lời vẫn là mục tiêu chính trong quản lý tín dụng.
Cho vay là hoạt động mang lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng.
Thu dự tính từ hoạt động cho vay (là một bộ phận của thu lãi) phụ thuộc vào
quy mô, thời gian và lãi suất; và cả ba yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau. Thứ
nhất, ngân hàng sử dụng mọi nỗ lực của mình để tăng quy mô cho vay như mở rộng
mạng lưới, đa dạng hóa các loại hình cho vay, phát triển công nghệ mới nhằm gia
tăng tiện ích cho khách hàng, giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều kiện ưu đãi,…các
biện pháp này một mặt làm tăng quy mô, song mặt khác cũng làm tăng chi phí. Do
vậy, thứ hai ngân hàng phải nghiên cứu và xác lập mối quan hệ giữa các biện pháp
tăng quy mô với thu nhập ròng từ hoạt động cho vay thông qua chênh lệch lãi suất
biên. Mối quan hệ này cho phép ngân hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ
khác với các khách hàng lớn, quan trọng và liên kết với các tổ chức tín dụng khác
trên thị trường.
Cho vay cũng là hoạt động mang lại rủi ro lớn nhất cho NHTM.
Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất và làm giảm
thu nhập của ngân hàng. Có nhiều khoản cho vay mà tổn thất có thể chiếm phần lớn
vốn chủ sở hữu, đẩy ngân hàng đến tình trạng phá sản. Do vậy, an toàn tín dụng là
nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi ngân hàng thương mại. Có hai mối quan
hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động cho vay. Trước khi cho vay, mối quan hệ có
thể là: rủi ro càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn; cho vay trung và dài hạn, cho vay
tiêu dùng,… rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa sẽ cao hơn so với lãi suất cho vay
ngắn hạn hoặc cho vay đối với doanh nghiệp,… Tuy nhiên sau khi cho vay rồi thì
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
11
Chuyên đề tốt nghiệp
mối quan hệ sẽ là: tổn thất càng cao thì sinh lời càng thấp. Ngân hàng có thể theo
đuổi chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải xác lập mối

quan hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong dài
hạn.
Nếu phân chia theo thời gian có cho vay ngắn hạn và cho vay trung, dài hạn. Tỷ
trọng cho vay ngắn hạn trong ngân hàng thường cao hơn so với cho vay trung và dài
hạn: các ngân hàng chủ yếu tài trợ cho tài sản lưu động của khách hàng. Cho vay
trung và dài hạn thường có tỷ trọng thấp hơn do rủi ro cao hơn, nguồn vốn đắt và
khan hiếm hơn. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ này như: kỳ hạn và tính ổn định
của nguồn vốn, khả năng quản lý thanh khoản của ngân hàng, khả năng dự báo và dự
phòng rủi ro trong trung và dài hạn,…
Tín dụng là hoạt động có quy mô rất lớn, khoản mục này thường chiếm khoảng
70% tổng tài sản của ngân hàng, mà trong đó phần lớn là cho vay.
Với quy mô như vậy, cho vay ảnh hưởng tới rất nhiều chiến lược hoạt động của
ngân hàng như dự trữ, huy động vốn, đầu tư,… Khi chứng khoán thanh khoản chưa
có hoặc khan hiếm, hoặc khi khả năng gia tăng huy động vốn bị hạn chế, nhiều ngân
hàng đã phải sử dụng co vay như một tài sản đảm bảo thanh khoản. Vì vậy ngân hàng
thường nghiêng về việc nắm giữ các khoản cho vay ngắn hạn, hoặc các khoản tín
dụng có khả năng chuyển đổi nhanh. Các khoản cho vay 3 tháng nhanh chóng sẽ
được thu hồi để đáp ứng nhu cầu chi trả. Trong điều kiện ngân hàng chuyển hoán kì
hạn của nguồn, việc thu nợ nhiều lần trong kì (nhiều kì hạn nợ) sẽ góp phần tăng tính
thanh khoản cho khoản cho vay.
1.2. Thẩm định tài chính trong hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
1.2.1. Thế nào là Thẩm định trong hoạt động cho vay?
Cho vay là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất cho NHTM.Tổn thất nếu xảy ra
sẽ làm giảm thu nhập dự tính của ngân hàng, có thể gây ra thua lỗ hoặc dẫn đến ngân
hàng bị phá sản. Do vậy, các ngân hàng phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
12
Chuyên đề tốt nghiệp
rủi ro và sinh lời trước khi quyết định tài trợ. Đó chính là quá trình phân tích tín
dụng, trong đó có quá trình thẩm định trước khi cho vay. Đây là bước quan trọng

nhất, quyết định chất lượng của phân tích tín dụng. Quá trình thẩm định phải khẳng
định được khoản vay có đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định cho vay của pháp
luật, có mang tính khả thi và hiệu quả hay không, khách hàng có đủ khả năng trả nợ
cả gốc lẫn lãi theo kì hạn đề nghị không, ngân hàng có quyền đối với tài sản đảm bảo
như thế nào,… từ đó phải đưa ra quyết định có cho khách hàng vay hay không, và rủi
ro dự kiến là bao nhiêu.
Thẩm định trong hoạt động cho vay là việc xem xét, đánh giá hồ sơ xin vay vốn
của khách hàng, kết hợp với thu thập các thông tin khác để đưa ra kết luận về khả
năng hoàn trả nợ vay của khách hàng cũng như hiệu quả và mức độ rủi ro của
phương án vay, từ đó nêu rõ ý kiến về việc đồng ý hay không đồng ý cho vay và các
điều kiện vay được áp dụng.
1.2.2. Vai trò của Thẩm định
Cho vay là nghiệp vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất và đóng vai trò quan trọng trong
hoạt động của NHTM. Tuy nhiên hoạt động cho vay lại chứa đựng nhiều rủi ro nhất
đối với ngân hàng, có khả năng làm giảm thu nhập của ngân hàng và nguy cơ dẫn đến
phá sản ngân hàng. Vì vậy, việc thẩm định trước khi cho vay là khâu vô cùng quan
trọng trong việc dự kiến rủi ro có thể xảy ra và lợi nhuận có thể thu được, xem xét
mối quan hệ giữa chúng, từ đó hạn chế đến mức tối thiểu rủi ro cho ngân hàng.
Khi đi vay, khách hàng nào cũng muốn vay được tiền, nên thường cung cấp một
hồ sơ “đẹp” cho ngân hàng. Thông tin khách hàng đưa ra thường được phản ánh
không đúng với thực tế, khai tăng số liệu theo chiều hướng có lợi cho khách hàng. Vì
vậy khâu thẩm định là vô cùng quan trọng và cũng rất khó khăn nhằm xác định đâu là
thông tin chính xác, thông tin nào là khai man, có bao nhiêu % đúng sự thật, thông tin
nào là cần thiết đối với ngân hàng,…
Trong thực tế, công tác phân công quản lý khách hàng của các NHTM Việt
Nam hiện nay đều rất ít có sự phân công cán bộ tín dụng theo ngành nghề kinh tế.
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Cán bộ tín dụng làm việc chủ yếu theo kiểu đa năng, tích luỹ được nhiều kinh nghiệm

song không đi chuyên sâu vào một ngành cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức
chuyên ngành hẹp. Thực tế là nhiều doanh nghiệp, khi nộp hồ sơ xin vay kèm báo
cáo nghiên cứu khả thi, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn
xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá thường đòi hỏi chi phí cao, các
ngân hàng đa phần không thực hiện. Biện pháp chủ yếu mà các ngân hàng thường làm
trong những trường hợp này là tìm hiểu thông tin thông qua các cơ quan quản lý ngành
mà doanh nghiệp hoạt động hoặc Tổng cục Đo lường chất lượng để xác minh. Song,
các cơ quan quản lý tầm vĩ mô không theo sát được hoạt động của các đơn vị kinh
doanh nên trong nhiều trường hợp cũng không thể đưa ra ý kiến chính xác. Nếu cán bộ
ngân hàng không có kiến thức chuyên môn của riêng mình về chuyên ngành cần thẩm
định trong dự án của khách hàng sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho doanh
nghiệp hoặc ngược lại, bị doanh nghiệp thông tin sai mà không biết, gây ra những
quyết định sai lầm trong cho vay.
Ngân hàng thẩm định khoản vay để xem khoản vay có đáp ứng đủ điều kiện
theo quy định về cho vay của pháp luật và ngân hàng hay không, khách hàng có khả
năng trả nợ đúng hạn hay không, phương án sản xuất kinh doanh do khách hàng đưa
ra có khả thi không.
Để hạn chế rủi ro tín dụng tại các ngân hàng, biện pháp hàng đầu và có hiệu quả
nhất là ngân hàng phải tìm kiếm được những khách hàng có khả năng vay và trả đúng
hạn, tìm kiếm được những phương án sản xuất kinh doanh khả thi, mang lại lợi
nhuận để ra quyết định cho vay. Vì vậy công tác thẩm định trước khi cho vay đóng
vai trò hết sức quan trọng. Thông qua hoạt động này, Ngân hàng có thể đánh giá
được năng lực tài chính của khách hàng, cũng như phân tích hiệu quả dự án vay vốn
khách hàng đề xuất mang lại, từ đó có được quyết định cho vay đúng đắn, hạn chế tối
thiểu khả năng có thể xảy ra rủi ro tín dụng, tổn thất cho ngân hàng.
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
14
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.3. Nội dung Thẩm định
Thẩm định cho vay là bước quan trọng nhất trong việc xét duyệt hồ sơ vay vốn

của khách hàng. Thẩm định thường được thực hiện sau khi nhận đầy đủ hồ sơ, tài
liệu do khách hàng cung cấp, cộng thêm quá trình thu thập thông tin bên ngoài của
cán bộ thẩm định. Thẩm định với mục đích kiểm tra xem khoản vay có đáp ứng đủ
các điều kện theo quy định cho vay của pháp luật hay không, khoản vay có mang tính
khả thi và hiệu quả hay không, khách hàng có đủ khả năng trả nợ cả gốc lẫn lãi theo
kì hạn đã định hay không, và trong trường hợp xấu nhất có thể xảy ra thì rủi ro dự
kiến là ở mức nào,...
Nội dung thẩm định:
a, Đánh giá tài sản của khách hàng:
Các doanh nghiệp đều có bảng cân đối kế toán (Bảng cân đối tài sản), trong đó
phần tài sản phản ánh số kết dư giá trị tài sản tại một thời điểm, hoặc số kết dư trung
bình trong kì. Đối với hộ gia đình, hoặc người tiêu dùng, ngân hàng yêu cầu các
thông tin về tình hình kinh doanh, tài sản cá nhân, lương và các khoản thu nhập khác.
Các thông tin về tái sản cho thấy qui mô, khả năng quản lý của khách hàng, rất quan
trọng đối với quyết định cho vay của ngân hàng. Quan trọng hơn, tài sản (tất cả hoặc
một phần) của khách hàng luôn được coi là vật đảm bảo cho khoản vay, tạo khả năng
thu hồi nợ khi khách hàng mất khả năng sinh lời.
Ngân quỹ: Bao gồm tiền gửi ngân hàng, tiền mặt trong két, các khoản phải thu.
Tiền gửi và tiền mặt là tài sản có thể dùng để chi trả ngay, song thường chiếm tỷ
trọng nhỏ trong tổng tài sản của khách hàng. Các khoản phải thu ( chủ yếu là tiền bán
hàng hóa dịch vụ chưa thu được tiền) luôn có khả năng chuyển thành tiền gửi hoặc
tiền mặt. Ngân hàng cần xem xét kỹ khoản này để loại trừ các khoản bán chịu không
thu được, khó thu hoặc đã bán lại cho người khác. Các khoản cho vay ngắn hạn liên
quan chặt chẽ đến ngân quỹ của khách hàng, đặc biệt thời hạn cho vay có thể tính
toán dựa trên số ngày của kỳ thu tiền.
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
15
Chuyên đề tốt nghiệp
Các chứng khoán có giá: Là các tài sản tài chính của doanh nghiệp. Các tài
sản này làm tăng nguồn thu và có thể mang bán khi cần tiền để chi trả.

Hàng tồn kho: Rất nhiều món vay ngắn hạn với mục đích tăng dự trữ hàng
hóa, có nghĩa là một phần hàng hóa trong kho được hình thành từ vốn vay ngân hàng.
Do đó ngân hàng quan tâm tới số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã, bảo hiểm, rủi ro
đối với hàng hóa trong kho. Ngoài xem xét trên sổ sách, ngân hàng còn yêu cầu
người vay mở kho hàng kiểm tra để loại trừ hàng hóa kém, mất phẩm chất, chậm tiêu
thụ, phát hiện hàng giả, hàng nhái, hàng người khác gửi,...
Tài sản cố định: Gồm nhà cửa, sân bãi, trang thiết bị, phương tiện vận tải, thiết
bị văn phòng,... thường là đối tượng tài trợ trung và dài hạn.
b, Đánh giá các khoản nợ:
Nợ của người vay có thể được phân chia thành nhiều tiêu thức khác nhau:
Về thời gian: gồm nợ ngắn hạn (vay ngắn hạn) và nợ trung và dài hạn (vay
trung và dài hạn). Nhiều khi ngân hàng còn xem xét các khoản nợ đến hạn trong năm,
và các khoản nợ phải trả trong những năm sau. Nhìn chung, các khoản vay ngắn hạn
thường dùng tài trợ cho tài sản lưu động, còn các khoản vay trung và dài hạn thường
dùng tài trợ cho tài sản cố định. Do đó tính tương quan giữa chúng là đối tượng phân
tích của ngân hàng. Nếu khoản cho vay của ngân hàng phải trả trong năm thì các
khoản nợ đến hạn và ngân quỹ trong năm của khách hàng là 2 yếu tố chính tạo nên
quyết định của ngân hàng.
Ngân hàng cũng quan tâm tới nợ quá hạn và các nguyên nhân.
Ngân hàng quan tâm tới tất cả chủ nợ của khách hàng: có thể là các khoản nợ
cũ, các khoản nợ của ngân hàng khác, nợ người cung cấp, nợ người lao động,... Vị trí
của ngân hàng trong danh sách chủ nợ luôn được nghiên cứu kỹ lưỡng. Nếu ngân
hàng giành vị trí quan trọng nhất, nó dễ dàng thu nợ hơn là ở các vị trí khác.
Ngân hàng cũng xem xét đến các khoản nợ ưu đãi, nợ có đảm bảo, và các nợ
khác. Các tài sản đã và đang làm tài sản đảm bảo cho khoản vay cũ cần phải được
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
16
Chuyên đề tốt nghiệp
tính lại theo giá trị trị trường và bị loại trừ; nếu chúng được lấy làm tài sản đảm bảo
cho khoản vay mới thì cần tính toán giá trị dôi thừa so với tiền vay cũ.

c, Phân tích luồng tiền:
Nhiều khách hàng tạo ra lợi nhuận trong quá khứ, thậm chí có khả năng tạo ra
lợi nhuận trong tương lai, Tuy nhiên, việc trả nợ ngân hàng lại liên quan chặt chẽ tới
ngân quỹ của người vay (ví dụ, cho vay tiêu dùng, nguồn trả nợ là các khoản thu
nhập của người vay, kì hạn thu nợ có thể lệch pha với khoản thu của người vay,...).
Trong khi lợi nhuận là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng đối với các vấn đề tín
dụng trong tương lai. Và nhiều khoản mục liên quan đén dòng tiền lại không được
chỉ dẫn đầy đủ trong Bảng cân đối tài sản của doanh nghiệp như: phần lớn luồng tiền
sau tháng 12 đều không được ghi vào bảng cân đối, phần lớn trách nhiệm thanh toán
không được chỉ ra trong cân đối khi mà vào thời điểm đó nó không tồn tại. Bán hàng
là nguồn tiền quan trọng để trả nợ song trong bảng cân đối lại đề cập rất ít đến bán
hàng.
Để hỗ trợ cho ngân hàng và khách hàng, các luồng tiền trong tương lai - phu
thuộc vào kế hoạch chi tiêu trong tương lai- cần phải được dự kiến. Kế hoạch này ghi
lại vận động hàng tháng của các khoản mục tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, các khoản
thanh toán hàng tháng. Người vay có lợi nhuận trong hiện tại coa thể có dự án chi
trong tương lai cao và với thu bán hàng không đổi, sẽ có thể có luồng tiền âm (không
có khả năng chi trả).
d, Sử dụng các tỉ lệ:
Để quá trình phân tích được thực hiện với thời gian ngắn, và phần nào được
chuẩn hóa, các ngân hàng đều cố gắng xây dựng các tỷ lệ phản ánh năng lực tài
hcinhs của người vay có liên quan đến khả năng trả nợ. Các tỷ lệ này sẽ được áp
dụng trong phân tích từng người vay có tính đến các điều kiện cụ thể. Trong nhiều
trường hợp, ban lãnh đạo ngân hàng còn yêu cầu cán bộ tín dụng sắp xếp và cho điểm
tín dụng đối với từng tỷ lên của mỗi người vay. Điểm cần chú ý là các tỷ lệ này
thường được cấu thành từ hai số có bản chất khác nhau, do đó tìm kiếm các số có mối
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
17
Chuyên đề tốt nghiệp
tương quan với nhau là rất cần thiết. Hơn nữa các tỷ lệ này lấy ra từ các báo cáo tài

hcinhs phản ánh tình hình đã đang xảy ra, trong khi ngân hàng lại quan tâm chủ yếu
đến những cái sẽ xảy ra trong tương lai, nên các tỷ lệ này không phải lúc nào cũng là
những chỉ dẫn cho các quyết định của ngân hàng.
Các loại tỷ lệ:
 Nhóm tỷ lệ thanh khoản: Đo khả năng của người vay vốn trong việc đáp ứng
trách nhiệm tài chính ngắn hạn. Dựa vào đó, ngân hàng tìm kiếm khả năng thanh toán
các trái phiếu khi đến hạn của người vay. Nhìn chung các tỷ lệ này càng cao thì khả
năng thanh toán của người vay càng tốt.
- Tỷ lệ thanh toán nhanh: được đo bằng ngân quỹ của người vay trên các khoản
nợ hiện hành (các khoản nợ ngắn hạn, trung và dài hạn đến hạn trong kỳ). Mẫu số
phản ánh nợ đến hạn sắp phải trả, trong khi đó tử số gồm tiền mặt trong két và tiền
gửi ngân hàng, hiện có, các khoản đang trong quá trình thu (sắp thu). Điều đáng chú
ý là tiền mặt và tiền gửi ngân hàng có thể giảm nhanh chóng do người vay cần thanh
toán tiền mua hàng hoặc ttả lương, các khoản đang trong quá trình thu có thể không
thu được. Do đó ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng các khoản đang trong quá trình thu,
tính số ngày thực tế của một kỳ thu, loại trừ nợ nần dây dưa.
- Tỷ lệ thanh toán trung bình: đo bằng tỷ lệ TSLĐ trên nợ hiện hành. Tử số gồm
ngân quỹ và hàng hóa của người vay (gồm hàng tồn kho, hàng đang đi đường, hàng
tại quầy,...). Điều đáng quan tâm là giá cả hàng tồn kho và các loại hàng hóa kém
luân chuyển. Ngân hàng phải loại các loại hàng hóa này ra khỏi tử số của tỷ lệ thanh
khoản.
 Nhóm tỷ lệ sinh lời: Đo khả năng tạo ra lợi nhuận của người vay. Khả năng
sinh lời của người vay quyết định khả năng hoàn trả vốn và lãi cho ngân hàng. Các tỷ
lệ này đều có tử số là lợi nhuận ròng trước hoặc sau thuế, hoặc doanh thu, còn mẫu số
là vốn tự có, vốn lưu động, vốn cố định hoặc tổng vốn. Để có thể phân tích được các
tỷ lệ sinh lời, bên cạnh bảng cân đối kế toán, ngân hàng cần có Báo cáo kết quả kinh
doanh.
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
18
Chuyên đề tốt nghiệp

 Nhóm tỷ lệ rủi ro: Rủi ro của người vay rất đa dạng. Chúng ta cần có nhiều
trường hợp điều chỉnh rủi ro trong mọi trường hợp. Có rất nhiều cách tiếp cận rủi ro
của người đi vay như:
- Sản xuất: Doanh nghiệp có bao nhiêu nguồn cung cấp nguyên liệu? Tác động
trong thay đổi chi phí là bao nhiêu? Cái gì là yếu tố chi phí quan trọng nhất? Lao
động, hay vốn? Có thay đổi nhanh trong kỹ thuật khác như thế nào? Tác động của
nghiên cứu và phát triển? Tác động của thay đổi chi phí cơ cấu là gi? Rủi ro tác động
tới việc sử dụng trang thiết bị là gì?
- Tiếp thi: Các nhân tố tác động tới việc bán hàng? Cầu co giãn với giá hay
không? Thu nhập là co giãn? Sản phẩm thay thế là gì? Nhập khẩu có lớn không?
Chiến lược cạnh tranh là gi? Những gì cản trở việc các đối thủ khác gia nhập thi
trường là gi? Thay đổi trong nhu cầu của khách hàng? Người bán có quyền lực hơn
người mua? Rủi ro thua lỗ của khách hàng là gì?
- Nhân sự: Cái gì làm năng suất lao động tăng? Cái gì khuyến khích người lao
động? Rủi ro của đình công? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào những cá nhân đặc
biệt?
- Tài chính: Sức chịu đựng của doanh nghiệp với thay đổi của lãi suất? Có bao
nhiêu cách huy động tiền? Sự phụ thuộc của doanh nghiệp vào một dự án? Việc đa
dạng các nguồn thu?
- Chính sách của chính phủ: Chính phủ và các cơ quan Nhà nước có thể tác
động tới khách hàng như thế nào? Chính sách kinh tế? Bảo vệ nhập khẩu? Trợ cấp
xuất khẩu? Hợp đồng với Nhà nước? Giấy phép đối với sản phẩm mới?
 Nhóm tỷ lệ đo khả năng tài trợ bằng vốn chủ sở hữu:
- Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn chủ sở hữu đủ để tài trợ một
phần cho TSLĐ và TSCĐ.
- Tỷ lệ tài trợ bằng vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu / Tổng tài sản
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
19
Chuyên đề tốt nghiệp
- Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp

Việt Nam hiện nay, tỷ lệ này vào khoảng 0.3 – 0.4 hoặc thấp hơn, buộc ngân hàng
phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay.
- Tùy theo yêu cầu vay ngắn hạn hay trung và dài hạn mà ngân hàng tập trung
chú ý vào tỷ lệ tài trợ vào tài sản lưu động hay tài sản cố định. Khi cho vay ngắn hạn,
ngân hàng xem xét vốn lưu động tự có của doanh nghiệp. Một khoản xin vay ngắn
hạn có thể được ngân hàng chấp nhận nếu không làm xấu đi tình trạng tài trợ của
doanh nghiệp (ngân hàng sẽ cộng thêm khoản vay mới để xác định lại tỷ lệ này). Nếu
doanh nghiệp vay vốn trung và dài hạn, thì khấu hao và thu nhập sau thuế cùng với
giá trị còn lại của tài sản là những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân
hàng.
Bảng 1: Các chỉ tiêu đánh giá
STT Chỉ số Nội dung
Chỉ tiêu thanh khoản
1 Khả năng thanh toán hiện hành Tài sản lưu động + đầu tư tài chính ngắn
hạn / (nợ ngắn hạn + nợ dài hạn đến hạn)
2 Khả năng thanh toán nhanh Tài sản có tính lỏng cao / nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu hoạt động
3 Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán /Hàng tồn kho bình quân
đầu kỳ và cuối kỳ
4 Kỳ thu tiền bình quân (Giá trị các khoản phải thu bình quân
/Doanh thu thuần) * 365
5 Doanh thu thuần /Tổng tài sản Doanh thu thuần /Tổng tài sản bình quân
đầu và cuối kỳ
Chỉ tiêu cân nợ
6 Nợ phải trả /Tổng tài sản Nợ phải trả /Tổng tài sản
7 Nợ phải trả /Nguồn vốn chủ sở hữu Nợ phải trả /Nguồn vốn chủ sở hữu
8 Nợ phải trả /Tổng dư nợ ngân hàng Nợ phải trả /Tổng dư nợ ngân hàng
Chỉ tiêu sinh lời
9 Tổng thu nhập trước thuế /Doanh
thu thuần

Tổng thu nhập trước thuế /Doanh thu thuần
10 Tổng thu nhập trước thuế /Tổng tài
sản
Tổng thu nhập trước thuế /Tổng tài sản
bình quân
11 Tổng thu nhập trước thuế /Nguồn
vốn chủ sở hữu
Tổng thu nhập trước thuế /Nguồn vốn chủ
sở hữu bình quân
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
20
Chuyên đề tốt nghiệp
1.2.4. Nguồn thông tin cho thẩm định
Vấn đề quan trọng đầu tiên khi thực hiện thẩm định là thu thập thông tin có chất
lượng. Chất lượng thông tin đưa vào thẩm định có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
phân tích, qua đó ảnh hưởng lớn đến quyết định cho vay của ngân hàng. Chất lượng
thông tin được thể hiện ở 3 thuộc tính: đầy đủ, kịp thời và chính xác. Chỉ khi nào
thông tin thu thập được đầy đủ 3 yếu tố trên thì mới được xem là thông tin có chất
lượng và hữu ích cho quá trình thẩm định.
Thông tin phục vụ cho quá trình thẩm định có thể được thu thập từ các nguồn:
- Thông tin từ hồ sơ vay vốn của khách hàng:
Bước đầu tiên của quá trình tín dụng là tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ vay vốn của
khách hàng. Khi khách hàng đề nghị vay vốn, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải
nộp cho ngân hàng một bộ hồ sơ. Qua bộ hồ sơ này, ngân hàng có thể thu thập khá
nhiều thông tin về khách hàng, bao gồm:
+Thông tin về tư cách pháp nhân của khách hàng vay vốn.
+Thông tin về tình hình tài chính của khách hàng thể hiện qua các báo cáo tài
chính của các kỳ gần nhất.
+Thông tin về kế hoạch, chiến lược sản xuất kinh doanh của khách hàng.
+Thông tin về hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng và khả năng hoàn trả

nợ vay thể hiện qua phương án sản xuất kinh doanh hiệu quả….
Từ các thông tin được khách hàng cung cấp trong hồ sơ vay vốn, đặc biệt là từ
các báo cáo tài chính và phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng, ngân hàng
có cơ sở để dự đoán về tình hình tài chính của khách hàng trong tương lai gần, ước
tính nhu cầu sử dụng vốn, nhu cầu tài trợ, các thiệt hại có thể xảy ra nếu khách hàng
không trả hoặc không trả đầy đủ, giá trị tài sản thế chấp có thể phát mãi khi cần thiết.
Lê Thị Kim Oanh Tài chính doanh nghiệp 46B
21

×