Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP quân đội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.83 KB, 81 trang )

Chuyên đề thực tập
LỜI MỞ ĐẦU
Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đánh dấu một bước ngoặt
quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế nước ta. Đến nay, sau 20
năm đổi mới Việt Nam đã gặt hái được những thành quả quan trọng trên
nhiều lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội…Bước vào trế kỷ 21, mục tiêu hội
nhập kinh tế quốc tế, gia nhập các tổ chức kinh tế toàn cầu và khu vực như
WTO, AFTA , thích nghi với xu thế cạnh tranh và hợp tác đã đặt ra cho
chúng ta những thời cơ mới, thách thức mới và nhiệm vụ mới. Ngành ngân
hàng, với vai trò cực kỳ quan trọng nền kinh tế cũng không nằm ngoài xu thế
đó. Hơn nữa, các ngân hàng thương mại còn phải tìm cho mình một hướng đi
đúng đắn để có thể giữ vững vị thế của mình, chiến thắng trong cuộc cạnh
tranh đồng thời thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Một hướng đi mà các ngân hàng thương mại Việt Nam đang nỗ lực theo đuổi
và bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ là thực hiện hoạt động cho vay
tiêu dùng. Đó là một hướng đi đúng đắn và đang trở thành xu thế ngày càng phổ
biến của các ngân hàng thương mại hiện đại, bởi thị trường cho vay tiêu dùng ở
Việt Nam là hiện hữu và đem lại mức lợi nhuận hấp dẫn cho các ngân hàng. Hoạt
động cho vay tiêu dùng một mặt giúp các ngân hàng thương mại hoạt động kinh
doanh hiệu quả hơn và bớt rủi ro hơn, mặt khác nó còn khuyến khích sản xuất và
tiêu dùng, từ đó kích thích tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng TMCP Quân đội bắt đầu triển khai nghiệp vụ này từ đầu năm
2000. Đến nay, sau 7 năm hoạt động cho vay tiêu dùng đã trở thành hoạt động kinh
doanh chủ yếu và mang lại không nhỏ cho ngân hàng.Tuy vậy, để thực hiện thành
công loại hình kinh doanh này đòi hỏi ngân hàng phải có sự đầu tư thích đáng về
vốn, công nghệ, nguồn nhân lực…kết hợp với môi trường kinh doanh thuận lợi.
Nhận thức được hướng kinh doanh đó của các ngân hàng thương mại nói
chung và Ngân hàng TMCP Quân đội nói riêng, được sự hướng dẫn của thầy giáo
– PGS-TS Đàm Văn Huệ với những kiến thức thực tiễn thu được trong quá trình
Chuyên đề thực tập
thực tập tại Ngân hàng TMCP Quân đôị, em đã quyết định chọn đề tài: “Mở rộng


hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP Quân đội”.
Kết cấu của chuyên đề, ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo
gồm 3 phần:
Chương I: Cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại
Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng TMCP
Quân đội.
Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân
hàng TMCP Quân đội
Do thời gian nghiên cứu không nhiều, những hạn chế nhất định về hiểu biết,
chuyên đề của em không tránh kkhỏi những thiếu xót, em rất mong được sự quan
tâm đóng góp của các thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
Chuyên đề thực tập
Chương 1
Cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng thương mại
1.1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại:
1.1.1.Khái niệm và ý nghĩa về hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán, và thực
hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong
nền kinh tế.
Ngân hàng thương mại là trung gian tài chính, họ nhận tiền gửi từ các cá nhân
và các tổ chức và cho vay.
Ngân hàng bắt nguồn từ một công việc rất đơn giản là giữ các đồ vật quý cho
những người chủ sở hữu của nó, tránh gây mất mát. Đổi lại, người chử sở hữu phải
trả cho người giữ một khoản tiền công. Khi công việc này mang lại nhiều lợi ích
cho những người gửi , các đồ vật ngày càng đa dạng hơn, và đa đại diện cho các vật
có giá trị như là tiền, dần dần, ngân hàng là nơi giữ tiền cho những người có tiền.
Khi xã hội phát triển, thương mại phát triển, nhu cầu về tiền ngày càng lớn, tức là
phát sinh nhu cầu vay tiền ngày càng lớn trong xã hội. Khi nắm trong tay một lượng

tiền, những người giữ tiền này nảy sinh nhu cầu cho vay số tiền đó. Từ đó phát sinh
nghiệp vụ đầu tiên cơ bản nhất của ngân hàng nói chung, đó là huy động vốn và cho
vay vốn.
Ngân hàng là tổ chức thu hút tiền tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh
tế. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ của xã hội. Mọi cá nhân, tổ chức xã
hội, doanh nghiệp đều có thể mở tài khoản tại ngân hàng để gửi tiền vào đó. Ngoài
việc đảm bảo trong việc cất tài sản, những người tới gửi tiền vào ngân hàng còn
được hưởng một nguồn thu nhập từ lãi suất tiền gửi. Tỉ lệ này có thể giống hoặc
khác nhau giữa các ngân hàng, xong chúng luôn thay đổi trong một giới hạn nhất
định, theo quy định của ngân hàng trung ương trong từng nước.
Chuyên đề thực tập
Ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng cho hàng triệu khách hàng, trong đó
có cả các cá nhân cũng như doanh nghiệp. Đối với các cá nhân, ngân hàng cho vay
để mua sắm đồ dùng gia đình, xây dựng nhà cửa, cho vay du học, du lịch Đối với
doanh nghiệp, ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng cho doanh nghiệp bổ xung
vốn lưu động, mua sắm máy móc thiết bị, nhà xưởng, cho vay phát triển dự án
Ngân hàng còn giúp thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là các chính
sách tiền tệ nhằm điều tiết sự phát triển kinh tế theo các mục tiêu xã hội do nhà
nước đặt ra.
Ngoài ra, ngân hàng còn cung cấp phương tiện thanh toán cho các cá nhân và
doanh nghiệp trong xã hội, như: séc, thẻ tín dụng, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu Bên
cạnh đó, ngày nay các ngân hàng còn cung cấp thêm mảng tư vấn tài chính, bảo
lãnh, thực hiện đầu tư trên thị trường chứng khoán
Tóm lại, xã hội sẽ không phát triển mạnh mẽ như bây giờ nếu không có sự
đóng góp của ngân hàng, nó là chìa khoá cho sự phát triển kinh tế cũng như xã hội ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới. Có thể nói, đứng sau sự phát triển của mỗi một
quốc gia là một hệ thống ngân hàng khổng lồ, điều đó đã được chứng minh , ở
những nước công nghiệp phát triển luôn đi kèm với một hệ thống các tổ chức tài
chính hùng hậu, phục vụ mọi yêu cầu phát triển.
Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là huy động và sự dụng vốn. Việc

sử dụng vốn chủ yếu của các ngân hàng là để cho vay lấy lãi, chiếm đến trên 70%
tổng tài sản.
Cho vay, còn gọi là tín dụng, là việc một bên (bên cho vay) cung cấp nguồn tài
chính cho đối tượng khác (bên đi vay) trong đó bên đi vay sẽ hoàn trả tài chính cho
bên cho vay trong một thời hạn thoả thuận và thường kèm theo lãi suất.
Cho vay là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn và cũng mang lại nguồn thu chính
cho các ngân hàng. Khoản mục cho vay hình thành khi ngân hàng cho khách hàng
vay vốn và đổi lại khách hàng phải có trách nhiệm hoàn trả số tiền trên đúng hạn và
kèm theo số tiền lãi do cầm khoản tiền đó trong thời gian dài. Xong khoản mục này
cũng hàm chứa nhiều rủi ro, như việc khách hàng không trả được nợ, không trả
đúng hạn dẫn đến việc ngân hàng bị tổn thất, trường hợp số tiền là quá lớn, ngân
Chuyên đề thực tập
hàng có thể lâm vào nguy cơ phá sản. Do đó công tác cho vay luôn được ngân hàng
cẩn trọng xem xét và giám sát.
Do các ngân hàng là những trung gian tài chính, cho nên nó nắm trong tay một
lượng lớn lượng tiền trong xã hội dưới hình thức các khoản tiết kiệm, các khoản
tiền gửi của các cá nhân tổ chức. Ngoài ra các ngân hàng ngày nay còn hoạt động
liên thông với nhau, nhằm đáp ứng tốt nhất cho hoạt động chuyển vốn tới các thành
phần kinh tế. Cho nên, chỉ một sự phá sản của một ngân hàng ở một phạm vi nào đó
cũng sẽ ảnh hưởng đến các ngân hàng khác. Vì vậy, loại hình hoạt động chủ yếu
này luôn thu hút được nhiều sự quan tâm nhất của ngân hàng cũng như xã hội.
Nhìn chung cho vay là loại tài sản có rủi ro cao nhất, xong nó cũng mang lại
thu nhập cao nhất cho ngân hàng, vì vậy việc tìm kiếm và lựa chọn khách hàng phù
hợp là rất quan trọng, nhằm giảm thiểu rủi ro tín dụng.
1.1.2. Phân loại hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại có nhiều hình thức rất đa
dạng và phong phú, đáp ứng mọi yêu cầu của khách hàng trong việc tìm nguồn vốn
vay nhanh và rẻ nhất.
1.1.2.1. Căn cứ theo thời hạn vay
Phân chia theo thời gian có ý nghĩa với ngân hàng, vì thời gian liên quan mật

thiết đến tính an toàn và sinh lợi của tín dụng cũng như khả năng thanh toán khoản
vay của khách hàng. Theo đó, gồm:
- Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống.
- Tín dụng trung hạn: từ trên 1 năm đến 5 năm.
- Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.
Thời hạn tín dụng thường được xác định cụ thể (ngày ,tháng, năm) và ghi trong hợp
đồng tín dụng, là thời hạn mà trong đó ngân hàng cam kết cấp cho khách hàng một
khoản tín dụng. Thời hạn tín dụng có thể được tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của
ngân hàng đước phát ra đến khi đồng lãi cuối cùng được thu về. Thời hạn tín dụng
có thể là thời gian mà khi kết thúc, ngân hàng sẽ xem xét lại quan hệ tín dụng với
khách hàng ( thường trong truờng hợp để xem có nên cho vay tiếp không).
1.1.2.2. Căn cứ theo tài sản đảm bảo
Chuyên đề thực tập
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được nguồn thu
lợi thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất (từ quá trình sản
xuất kinh doanh) không có hoặc không đủ.
Bao gồm các hình thức : tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của khách hàng, có
đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
Cam kết đảm bảo là cam kết của người nhận tín dụng về việc dùng tài sản ma
mình đang sở hữu hoặc sử dụng , hoặc khả năng trả nợ của người thứ ba để trả nợ
cho ngân hàng.
Tín dụng dựa vào uy tín của chính khách hàng chỉ áp dụng cho những khách
hàng là ăn thường xuyên có lãi, tình hình tài chính trong sạch , tốt, ít sảy ra tình
trạng nợ nần dây dưa, hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người đi vay.;các
khoản cho vay theo chỉ thị của Chính phủ mà chính phủ yêu cầu không cần tài sản
đảm bảo; những khoản cho vay các tổ chức tài chính lơn, các công ty lớn, hoặc
những khoản cho vay trong thời gian ngắn mà ngân hàng có thể giám sát
1.1.2.3. Căn cứ theo hình thức cho vay.
Bao gồm : chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê.
Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng

tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Ngân hàng tuy ứng trước tiền cho người bán,
song thực chất là thay thế người mua trả tiền trước cho người bán.
Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng
phải hoàn trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính hộ khách
hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra, song ngân hàng đã cho khách hàng
sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng thuê theo
những thoả thuân nhất định. Sau thời gian nhất định, khách hàng phải trả cả gốc lẫn
lãi cho ngân hàng.
Chuyên đề thực tập
1.2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của các Ngân hàng thương mại
1.2.1. Quá trình hình thành và phát triển hình thức cho vay tiêu dùng tại Ngân
hàng thương mại
Sau những cải cách trong hệ thống ngân hàng những năm 80 để hình thành nên
hệ thống ngân hàng cấp 2 gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh và ngoài
quốc doanh, nền kinh tế nước ta dần được khởi sắc. Bên cạnh đó qúa trình mở cửa
đất nước, học hỏi khoa học kĩ thuật của các nước trên thế giới đã làm cho đời sống
của nhân dân ta thay đổi mạnh mẽ, cơ sở vật chất được cải thiện, thu nhập trên đầu
người tăng, mức sống ngày càng tăng lên, nhu cầu mua sắm, sinh hoạt của dân cư
cũng tăng theo. Để thích ứng với nhu cầu mới , các ngân hàng thương mại trước đây
chủ yếu cho vay các doanh nghiệp và hợp tác xã thì bây giờ phát triển thêm mạng
dịch vụ cho vay tiêu dùng, cho vay các cá nhân có nhu cầu mua sắm, tiêu
dùng Cho vay tiêu dùng ra đời là cầu nối những nhu cầu về tiêu dùng cho phù hợp
với khả năng thanh toán của từng cá nhân. Người tiêu dùng có thể sử dụng loại
hàng hoá mà họ mong muốn với cam kết hoàn trả tiền cho ngân hàng đúng thời hạn.
Hiện nay doanh số của lĩnh vực ngân hàng bán lẻ tăng trưởng hàng năm trên 25%
và còn có xu hướng mạnh hơn nữa trong 5-10 năm tới, trong khi tỷ trọng cho vay
tiêu dùng tại các ngân hàng ở Việt Nam chỉ mới khoảng 5% trên tổng dư nợ tín

dụng. Qua đó cho thấy với tốc độ phát triển mạnh mẽ như hiện nay và với dân số
trên 82 triệu người đang mở ra thị trường cho vay tiêu dùng vô cùng rộng lớn và
đầy tiềm năng.
1.2.2. Khái niệm cho vay tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng được hiểu là hình thức tài trợ cho mục đích chi tiêu cá nhân,
hộ gia đình theo nguyên tắc các cá nhân này phải hoàn trả gốc và lãi sau một thời
gian nhất định. Các khoản cho vay tiêu dùng này là nguồn tài chính quan trọng giúp
người tiêu dùng chi trả các nhu cầu trong cuộc sống hàng ngày như nhà ở, phương
tiện đi lại hay nhu cầu đi du lịch, du học trước khi họ có đủ tiền để trang trải
những khoản này.
1.2.3. Đặc điểm cho vay tiêu dùng:
Chuyên đề thực tập
Cho vay tiêu dùng có những đặc điểm giống và khác với tín dụng ngân hàng
nói chung.
- Khách hàng vay là các cá nhân và các hộ gia đình. Cho vay tiêu dùng tập
trung vào các cá nhân có nhu cầu mua sắm những hàng hoá có giá trị không lớn, số
lượng cá nhân cần vay ngân hàng hiện nay rất nhiều và đang có xu thế tăng lên, hứa
hẹn một thị trường tiềm năng cho các Ngân hàng.
- Mục đích vay nhằm phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của cá nhân, hộ gia đình
không phải xuất phát từ mục đích kinh doanh. Do đó, hình thức cho vay này phụ
thuộc vào nhu cầu, tính cách của từng đối tượng khách hàng, chu kỳ kinh tế và giá
cả hàng hoá dịch vụ mà người đi vay muốn mua. Một khoản vay chỉ có thể được
chấp nhận khi mà mục đích vay tiền của khách hàng là phù hợp với chính sách của
ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cần khách hàng thể hiện là mình có trách nhiệm
hoàn trả đầy đủ và đúng hạn các khoản nợ.
- Quy mô món vay nhỏ nhưng số lượng các món vay lớn.
Vì các cá nhân thường mua những hàng hoá tiêu dùng có giá trị không lớn,
hoặc họ chỉ vay để bổ xung vào só tiền còn thiếu. Cho nên, mỗi lần cho vay, ngân
hàng lại phải tíên hành đủ thủ tục cho vay đối với từng các nhân, cho nên chi phí tổ
chức cao, vì vậy lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao hơn lãi suất cho vay thương

mại.
- Chi phí mà ngân hàng bỏ ra để quản lý cho vay tiêu dùng là lớn.
Do để tiến hành một hợp đồng cho vay, các ngân hàng phải tiến hành đầy đủ
thủ tục, nhưng lượng vốn vay thường nhỏ, mà số lượng các món vay lại lớn, thêm
vào đó khách hàng thường không công khai về tài chính, muốn che dấu thông tin,
cho nên sau khi giải ngân , ngân hàng thường phải mất chi phi quản lý kiểm tra,
giám sát khoản vay một cách thường xuyên.
- Các khoản cho vay tiêu dùng thường có lãi suất cố định, nhất là hình thức
cho vay trả góp, tuy nhiên trong trường hợp khoản vay là trung và dài hạn thì lãi
suất có thể thay đổi.
- Các khoản cho vay tiêu dùng có rủi ro cao. Do phần lớn loại hình cho vay
này căn cứ trên mức thu nhập hàng tháng ổn định của khách hàng cá nhân, vì vậy
Chuyên đề thực tập
khi gặp một tác động bất lợi khiến cho khách hàng mất thu nhập ổn định đó: như
gặp tai nạn, mất việc thì sẽ tạo các khoản nợ xấu cho ngân hàng. Khác với cho vay
các doanh nghiệp, thời hạn hoạt động dài, ít biến động, nên cho vay tiêu dùng rủi ro
hơn là cho vay thương mại.
- Những khách hàng có việc làm , mức thu nhập ổn định và có trình độ học
vấn là những tiêu chí quan trọng để ngân hàng thương mại quyết định cho vay. Vì
người đi vay là các cá nhân, cho nên các ngân hàng phải khẳng định được khả năng
sẽ thu hồi được vốn mới cho họ vay được.
- Cho vay tiêu dùng mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Do khó khăn trong
việc quản lý cũng như khả năng trả nợ đối với cá nhân là rủi ro lớn hơn doanh
nghiệp cho nên lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao, mang lại khoản thu nhập cao
cho ngân hàng. Thêm nữa số lượng các món vay nhiều, làm gia tăng thêm khoản
thu vào ngân hàng. Chính vì vậy mà các ngân hàng không ngừng mở rộng lĩnh vực
cho vay tiêu dùng, coi đó là một mảng hoạt động mới đầy tiềm năng cần được khai
thác nhiều hơn nữa.
- Tài sản đảm bảo. Giống như mọi khoản khác, cho vay tiêu dùng cũng đòi hỏi
các tài sản đảm bảo. Đây sẽ là nguồn trả nợ thứ hai cho ngân hàng trong trường hợp

người vay không trả đựơc. Tài sản đảm bảo có thể là tài sản độc lập, hoặc là tài sản
hình thành từ vốn vay ngân hàng.
- Khách hàng vay tiêu dùng thường quan tâm đến số tiền họ fải thanh toán chứ
ít quan tâm đến lãi suất khoản vay. Do mục địch của các cá nhân khi tham gia dịch
vụ vay này là nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình, cho nên họ thường nhìn vào
kết quả món tiền cần phải thanh toán trọn gói để so sánh với giá phải trả nếu không
vay ngân hàng. Chính vì vậy, với một chu trình cho vay chuyên nghiệp, ngân hàng
có thể thoả mãn được nhu cầu của khách hàng lại tăng được thu nhập cho bản thân
ngân hàng.
1.2.4.Cơ sở cho vay tiêu dùng
Nhiều công ty lớn, có thể tự phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu để tự tài trợ,
nhiều công ty tài chính cũng mở rộng thêm thị phần cho vay các doanh nghiệp,
thêm nữa, các công ty nước ngoài tham gia ngày càng nhiều vào lĩnh vực tài chính
Chuyên đề thực tập
khiến cho mảng hoạt động cho vay các doanh nghiệp ở các ngân hàng bị thu hẹp lại.
Điều này đưa đến kết quả tất yếu là các ngân hàng phải tìm kiếm nguồn thu nhập
mới, do vậy cho vay tiêu dùng ngày nay rất được chú trọng trong các ngân hàng.
Bên cạnh đó, việc quốc tế hoá, mở rộng kinh tế với nước ngoài khiến cho cụôc
sống xã hội ngày càng sôi động, mọi người có công ăn việc làm ổn định, thu nhập
bình quân đầu người ngày càng tăng lên, dẫn đến phát sinh nhu cầu tiêu dùng, mua
sắm cũng tăng lên. Những cá nhân có nhu cầu mua sắm thường là những người có
thu nhập cao và ổn định, nhưng chưa thể có ngay số tiền đủ lớn để chi cho việc mua
sắm của mình. Việc cho vay tiêu dùng sẽ giúp họ nâng cao mức sống, tăng khả
năng đào tạo, mở ra thêm nhiều cơ hội cho cá nhân phát triển, đồng thời sẽ tăng
thêm khả năng chi trả cho ngân hàng. Đây là nhu cầu mới và ngày càng gia tăng, nó
sẽ là một lĩnh vực tiềm năng cho các ngân hàng trong tương lai.
Các món vay cá nhân thường không quá lớn, thời gian vay thường ngắn do vậy
chi phí huy động trên 1 đồng tiền cho vay tiêu dùng sẽ thấp hơn là chi phí huy động
các khoản cho vay doanh nghiệp. Các món vay lại được rải rác, không tập trung vào
một số đối tượng chính, số lượng các món vay nhiều, khiến cho rủi ro sẽ được phân

tán. Song do đối tượng vay là các cá nhân, nên việc xem xét khả năng trả nợ sẽ chủ
yếu tập trung vào sức khoẻ, năng lực làm việc, tuổi thọ của khách hàng, cho nên sẽ
không được đảm bảo như các doanh nghiệp cụ thể. Vì vậy, lãi suất cho vay tiêu
dùng thường cao, mang lại thu nhập cao cho ngân hàng.
Có thể nói cho vay tiêu dùng là một phạm vi hoạt động mới ở châu Á nói
chung và Việt Nam nói riêng, rất tiềm năng và ẩn chứa cũng nhiều rủi ro, cần phải
có những học hỏi kĩ lưỡng từ các nước đi trước.
1.2.5. Các loại hình và phương thức cho vay tiêu dùng
1.2.5.1. Phân loại cho vay tiêu dùng
- Căn cứ vào mục đích vay có thể phân loại tín dụng tiêu dùng thành 2 loại:
+ Cho vay tiêu dùng cư trú: là các khoản cho vay nhằm phục vụ nhu cầu xây
dựng, mua sắm hoặc cải tạo nhà ở của cá nhân, hộ gia đình. Đặc điểm của những
món vay này là quy mô thường lớn, thời gian dài.
Chuyên đề thực tập
+ Cho vay tiêu dùng phi cư trú: đó là các khoản cho vay phục vụ nhu cầu cải
thiện đời sống như mua sắm phương tiện, đồ dùng, du lịch, học hành hoặc giải
trí Đặc điểm của những khoản tín dụng này là thường có quy mô nhỏ, thời gian tài
trợ ngắn do đó mức độ rủi ro thấp hơn những khoản cho vay tiêu dùng cư trú.
- Căn cứ vào hình thức có thể chia cho vay tiêu dùng thành 2 loại
+ Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua các khoản
nợ phát sinh của các doanh nghiệp đã bán chịu hàng hoá hoặc đã cung cấp các dịch
vụ cho người tiêu dùng, hình thức này ngân hàng cho vay thông qua các doanh
nghiệp bán hàng hoặc làm các dịch vụ mà không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng.
Với hình cho vay này, nó có những ưu điểm: (1) các ngân hàng thương mại dễ mở
rộng và tăng doanh số cho vay, (2) các ngân hàng thương mại sẽ tiết kiệm và giảm
được các chi phí cho vay, (3) là cơ sở để mở rộng quan hệ với khách hàng và tạo
điều kiện thuận lợi cho các hoạt động khác của ngân hàng, (4) nếu các ngân hàng có
quan hệ tốt với các doanh nghiệp bán lẻ, thì hình thức cho vay tiêu dùng gián tiếp
có mức độ rủi ro thấp hơn cho vay tiêu dùng trực tiếp. Bên cạnh đó cũng có hạn
chế: (1) Khi cho vay các ngân hàng thương mại không tiếp xúc trực tiếp với khách

hàng, mà thông qua các doanh nghiệp bán chịu hàng hoá, dịch vụ, nên không thể
nắm vững được khả năng trả nợ của khách hàng, (2) thiếu sự kiểm soát của ngân
hàng ( trứơc và sau khi vay vốn), nhất là trong việc lựa chọn khách hàng, (3) quy
trình nghiệp vụ với hình thức cho vay này rất phức tạp.
+ Cho vay tiêu dùng trực tiếp: là ngân hàng và khách hàng trực tiếp gặp nhau
để tiến hàng cho vay hoặc thu nợ. Hình thức này có ưu điểm là: (1) ngân hàng có
thể sử dụng triệt để trình độ, kiến thức, kinh nghiệm và kỹ năng của cán bộ tín
dụng, do đó các khoản cho vay thường có chất lượng cao hơn so với cho vay gián
tiếp, (2) cán bộ tín dụng khi cho vay chú ý nhất đến chất lượng khoản vay còn các
doanh nghiệp bán lẻ, thường coi trọng nhiều đến tăng doanh số bán hàng hơn là
chất lượng khoản vay, cho nên dễ dẫn đến việc cấp các khỏan tín dụng không chính
đáng, ngược lại có thể từ chối đối với những khách hàng tốt của mình, (3) hình thức
cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn hình thức cho vay gián tiếp, vì khi gặp trực
tiếp khách hàng, ngân hàng mới xử lý tốt các vấn đề phát sinh, giải quyết tốt hơn
Chuyên đề thực tập
những yêu cầu của cả hai phía, (3) do đối tượng khách hàng rất rộng , do đó việc
đưa ra các dịch vụ, tiện ích mới là rất thuận lợi, đồng thời tăng cường quảng bá hình
ảnh của ngân hàng đến với khách hàng.
- Căn cứ vào phương thức hoàn trả
+ Cho vay tiêu dùng trả góp :là hình thức cho vay trong đó ngân hàng cho
phép khách hàng trả gốc và lãi làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả thuận.
Loại hình cho vay này thường được áp dụng cho các khoản vay có giá trị lớn hoặc
thu nhập từng kì của người đi vay không đủ khả năng thanh toán hết một lần số nợ
vay. Khách hàng có thể trả trực tiếp cho ngân hàng hoặc trả qua nhà cung cấp dịch
vụ trả góp để trả nợ ngân hàng.
Trong phương thức này, các ngân hàng cần chú ý một số vấn đề cơ bản như:
* Số tiền trả trước: khách hàng phải trả trước một phần tiền ( khoảng 30%-
40% giá trị hàng hoá dịch vụ), phàn còn lại ngân hàng sẽ cho vay. Nhờ cách này,
khách hàng sẽ có ý thức là mình là chủ sở hữu của tài sản này, nên sẽ có ý thức
hoàn trả số nợ vay, hạn chế rủi ro cho ngân hàng. Số tiền trả trước nhiều hay ít tuỳ

thuộc vào các yếu tố sau:
- Loại tài sản: với những tài sản mất giá nhanh thì số tiền trả trước thường
nhiều và ngược lại.
- Thị trường tiêu thụ tài sản sau khi sử dụng: nếu tài sản sau khi được sử
dụng dễ bán thì số tiền trả trước ít và ngược lại.
- Môi trường kinh tế : trong môi trường kinh tế phải cạnh tranh lớn giữa
các ngân hàng, thì các ngân hàng thường yêu cầu mức trả trước thấp hơn so với đối
thủ nhằm thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của mình.
- Năng lực tài chính của người đi vay : những khách hàng có năng lực tài
chính tốt thường số tiền phải trả trước không lớn như những khách hàng không
chứng minh đựoc năng lực tài chính tốt, do rủi ro những khách hàng lớn hơn.
* Loại tài sản được tài trợ: việc trả nợ sẽ tốt hơn nếu tài sản hình thành từ tiền
vay đáp ứng nhu cầu thiết yếu đối với họ lâu dài trong tương lai. Điều này nói lên
trách nhiệm trả tiền đúng thời hạn theo như hợp đồng của khách hàng.
Chuyên đề thực tập
* Chi phí tài trợ : Chủ yếu là lãi mà khách hàng phải trả cho ngân hàng và các
chi phí khác có liên quan.
* Điều khoản thanh toán: các điều khoản này phải phù hợp với việc thanh
toán nợ của khách hàng như về số tiền thanh toán mỗi kỳ, kỳ hạn trả nợ
- Cho vay tiêu dùng phi trả góp: là phương thức khách hàng thanh toán cho
ngân hàng chỉ một lần khi đến hạn. Thường thì các khoản cho vay tiêu dùng phi trả
góp chỉ được cấp cho các khoản vay có giá trị nhỏ với thời hạn không dài. Tiền gốc
và lãi đựoc thanh toán như sau: tiền gốc (C) được thanh toán một lần vào cuối hạn
cho vay, tiền lãi mỗi kỳ (C
k
) được thanh toán đều đặn theo đúng kỳ hạn: C
k
=C*i ( i:
lãi suất cho vay mỗi kỳ hạn).
- Cho vay tiêu dùng tuần hoàn: đây là các khoản cho vay tiêu dùng trong đó

ngân hàng cho phép khách hàng sử dụng thẻ tín dụng hoặc phát hành loại séc được
phép thấu chi dựa trên tài khoản vãng lai. Theo phương thức này, thời hạn tín dụng
được thoả thuận trước, căn cứ vào nhu cầu chi tiêu và thu nhập kiếm được từng kỳ,
khách hàng được ngân hàng cho phép thực hiện việc vay và trả nợ nhiều kỳ một
cách tuần hoàn theo một hạn mức tín dụng.
Lãi suất mà khách hàng phải chịu được tính theo những cách sau: (1) lãi suất
được tính theo dư nợ thực tế có tính đến sự điều chỉnh. Theo phương thức này số dư
nợ được dùng để tính lãi là số dư cuối cùng của mỗi kỳ sau khi khách hàng đã thanh
toán nợ cho ngân hàng; (2)lãi suất được tính theo dư nợ thực tế của khách hàng
trước khi có sự điều chỉnh. Theo phương thức này số dư dùng để tính lãi là số dư nợ
mỗi kỳ có trước khi khoản nợ được thanh toán; (3) lãi suất được tính trên dư nợ
bình quân của ngân hàng. Phương pháp này có lợi cho khách hàng vì khách hàng
chỉ cần làm thủ tục vay một lần nhưng có thể vay ngân hàng nhiều lần với số tiền
khác nhau. Nhưng số tiền vay không được quá lớn và trong thời hạn dài.
1.2.5.2. Một số phương pháp cho vay tiêu dùng:
Các ngân hàng trên thế giới thường sử dụng 2 phương pháp chính :
(1) Phương pháp hệ thống điểm: là tập hợp các tiêu thức khác nhau liên quan
đến từng đối tượng khách hàng. Mỗi tiêu thức tương ứng với một điểm nhất định,
tuỳ theo từng tiêu thức và tầm quan trọng trong hệ thống các tiêu thức. Tuy nhiên,
Chuyên đề thực tập
phương pháp hệ thống điểm số trên phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như môi
trường, kinh tế xã hội nếu các yếu tố này có biến động lớn thì ngân hàng cần phải
xem xét điều chỉnh lại các tiêu thức cho phù hợp, bảo đảm chất lượng cho vay và
thu hồi nợ.
(2) Phương pháp phán đoán là quá trình trong đó ngân hàng tiến hành phân
tích, đánh gía toàn bộ thông tin định tính và định lượng về khách hàng nhằm hạn
chế các khoản cho vay có rủi ro cao. Vì khi quyết định cho vay, ngân hàng cần phải
quan tâm đến nhiều vấn đề khác như khả năng trả nợ của khách hàng, điều kiện
kinh tế hiện tại của khách hàng, các điều kiện khác của khách hàng có phù hợp với
cơ chế, chính sách của ngân hàng hay không

1.2.5.3. Quy trình nghiệp vụ cho vay tiêu dùng.
Nhìn chung khi đến các ngân hàng để xin vay vốn thường theo một thủ tục
chung như sau:
(1) Cán bộ tín dụng cá nhân được phân công giao dịch với khách hàng cá nhân
có nhu cầu vay vốn và có trách nhiệm huớng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn và
tiến hành thẩm định các điệu kiện vay vốn theo quy định.
(2) Trưởng phòng tín dụng hoặc tổ trưởng tín dụng có trách nhiệm kiểm tra
tính hợp lệ, hợp pháp của hồ sơ và báo cáo thẩm định do cán bộ tín dụng lập, tiến
hành xem xét, tái thẩm định nếu cần thiết, ghi ý kiến vào báo cáo tái thẩm định (nếu
có) và trình cấp giám đốc quyết định.
(3) Giám đốc ngân hàng nơi cho vay căn cứ báo cáo thẩm định, tái thẩm định
(nếu có) do phòng tín dụng trình, quyết định cho vay hoặc không cho vay:
- Nếu cho vay thì ngân hàng nơi cho vay cùng khách hàng lập hợp đồng tín
dụng, hợp đồng bảo đảm tiền vay ( trường hợp cho vay có bảo đảm bằng tài sản).
- Nếu không cho vay thì thông báo cho khách hàng biết.
(4) Hồ sơ khoản vay được giám đốc ký duyệt cho vay được chuyển cho kế
toán thực hiện nghiệp vụ hạch toán kế toán, thanh toán, chuyển thủ quỹ để giải ngân
cho khách hàng ( nếu cho vay bằng tiền mặt)
(5) Thời gian thẩm định cho vay:
Chuyên đề thực tập
Trong thời gian không quá 5 ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không
quá 15 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi ngân hàng nơi cho
vay nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng
theo quy định của ngân hàng nhà nước, ngân hàng nơi cho vay phải quyết định và
thông báo việc cho vay hoặc không cho vay đối với khách hàng.
(6) Kiểm tra và giám sát món vay, thu nợ gốc và lãi theo như hợp đồng.
1.2.6. Tác động của hoạt động cho vay tiêu dùng
1.2.6.1.Tác động đối với Ngân hàng
Khi thực hiện cho vay, ngân hàng phải huy động vốn từ các nguồn trong xã
hội, từ các cá nhân, tổ chức , xã hội và ngân hàng phải trả lãi suất cho số tiền đi vay

được. Còn khi ngân hàng mang số tiền huy động được để cho vay lại, ngân hàng sẽ
thu được được lợi nhuận thông qua lãi suất cho vay, khoản tiền lãi này thường có lãi
suất cao hơn là lãi trả cho tiền huy động vào ngân hàng. Ngân hàng càng cho vay
được nhiều với lãi suất cao, thì lợi nhuận thu về được càng nhiều, mà thị trường cho
vay tiêu dùng là thị trường rộng lớn và rất tiềm năng, đang có xu hướng mở rộng
thêm nữa. Cho nên, cho vay tiêu dùng đang là mảng hoạt động được tập trung vào
hoạt động mạnh nhất hiện nay tại các ngân hàng.
Mặc dù chi phí cho các món vay tiêu dùng thường cao hơn các món vay khác,
song các ngân hàng vẫn tập trung vào khai thác mảng này, để có thể mở rộng thêm
quan hệ với các cá nhân, đưa đến cho người dân nhiều dịch vụ đi kèm nữa, làm cho
mối quan hệ giữa cá nhân và ngân hàng ngày càng được mở rộng và phát triển. Bên
cạnh đó, việc mở rộng lĩnh vực cho vay tiêu dùng giúp ngân hàng phân tán rủi ro,
không tập trung vốn nhiều vào một số đối tượng, do vậy làm tăng khả năng an toàn
cho vốn của ngân hàng.
1.2.6.2. Tác động đối với người tiêu dùng
Cho vay tiêu dùng là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu chi tiêu ,
mua sắm của người dân. Do vậy đối tượng của cho vay tiêu dùng chính là người
tiêu dùng, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình. Với mức lương không
cao nhưng ổn định thì họ phải mất một khoảng thời gian dài để tích kiệm mới mong
mua được những sản phẩm tiêu dùng có giá trị lớn hơn khả năng chi trả hiện tại của
Chuyên đề thực tập
họ, cho nên việc xuất hiện loại hình cho vay tiêu dùng đã giúp họ có thể thoả mãn
nhu cầu tiêu dùng này. Việc thoả mãn những yêu cầu cơ bản này sẽ mang lại sự cải
thiện trong cuộc sống hàng ngày, làm tăng khả năng tài chính cho người tiêu dùng,
cho nên việc hoàn trả khoản vay lại càng dễ dàng.
Trên thực tế, ta thấy có nhiều nhu cầu mang tính tự nhiên, thiết yếu, có ý nghĩa
quan trọng trong cuộc sống đối với cá nhân và hộ gia đình , như nhu cầu về nhà ở,
phương tiện đi lại như xe máy,ô tô, hay các đồ dùng tiện nghi sinh hoạt khác song
khả năng tài chính thường có giới hạn. Vì vậy thường khi đã lớn tuổi, hay phải trải
qua một thời gian dài dành dụm mới có đủ khả năng để thoả mãn nhu cầu, việc này

sẽ làm giảm cảm giác thụ hưởng của các cá nhân. Do vậy việc dùng các khoản cho
vay tiêu dùng, sẽ phối hợp được một cách khéo léo sự thoả mãn tiêu dùng trong
hiện tại với khả năng thanh toán của hiện tại và tương lai. Hay họ có thể hưởng thụ
trước số tiền sẽ có trong tương lai.
Chính vì vậy, có thể khẳng định là người tiêu dùng là người hưởng lợi trực
tiếp và đều nhất những lợi ích do hình thức cho vay tiêu dùng mang lại.
1.2.6.3. Tác động đến các doanh nghiệp
Một doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất thương mại thì mục tiêu
quan trọng nhất là bán được nhiều hàng hoá, thu hồi được vốn và có lợi nhuận.
Càng nhiều khách hàng mua sản phẩm thì càng tốt, tuy nhiên không phải ai cũng có
thể mua được các mặt hàng có giá trị lớn ngay tức thì, do đó việc phối hợp với ngân
hàng để mở cho vay trả góp là một bước đi hiệu quả, vừa tăng được doanh số bán
hàng, vừa tăng thêm thu nhập, thu hồi vốn nhanh. Bên cạnh đó , phối hợp cho vay
tiêu dùng với ngân hàng sẽ tạo ra thế mạnh cạnh tranh với các đối thủ khác trong thị
trường, từ đó nâng cao doanh số, mở rộng sản xuất kinh doanh, giải quyết được
hàng hoá lưu kho trong thời gian nhanh nhất.
1.2.6.4. Tác động tới nền kinh tế
Cho vay tiêu dùng có tác dụng kích thích mua sắm trong xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Cho vay tiêu dùng giúp cho người tiêu dùng được hưởng các tiện ích
trước khi tích luỹ đủ tiền và đặc biệt có thể thoả mãn những nhu cầu chi tiêu có tính
cấp bách như y tế, du học Các nhà sản xuất thì bán được hàng, thu hồi vốn nhanh,
Chuyên đề thực tập
gia tăng sản xuất, mở rộng quy mô, thu hút nhiều lao động hơn nữa cho sản xuất, từ
đó làm giảm tỷ lệ thất nghiệp, đồng thời cũng gia tăng tính cạnh tranh trong sản
xuất giữa các hãng trong cùng một ngành để có thể đáp ứng các yêu cầu của người
tiêu dùng. Người tiêu dùng có càng nhiều lựa chon, qua đó tạo nên sự năng động
của nền kinh tế. Các doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải hoàn thiện mình, nâng cao
chất lượng hàng hoá, làm cho nền sản xuất ngày càng phát triển.
1.3 Các vấn đề mở rộng cho vay tiêu dùng
1.3.1 Một số chỉ tiêu phản ánh sự mở rộng cho vay tiêu dùng tại các ngân hàng

thương mại
- Số lượng khách hàng cho vay
Dịch vụ cho vay tiêu dùng mở ra nhằm cung cấp cho nhu cầu chi tiêu nhưng
chưa có khả năng thanh toán ngay của các cá nhân, hộ gia đình. Số lượng này là rất
lớn, nhưng không phải ai cũng có thể vay được của ngân hàng,do những điều kiện
cho vay rất chặt chẽ. Vì thế việc nới lỏng những điều kiện này sẽ giúp gia tăng số
lượng khách hàng lên, qua đó ngân hàng sẽ thu được nhiều lợi nhuận hơn nữa.
- Doanh số cho vay
Tăng quy mô vón vay và số lượng các khoản vay, cho thấy rõ được tốc độ mở
rộng cho vay tiêu dùng ở ngân hàng. Doanh số cho vay tăng lên, chứng tỏ nhu cầu
vay của khách hàng được đáp ứng tốt, và lợi nhuận thu được của ngân hàng tăng
lên.
- Hạn mức cho vay
Hạn mức cho vay sẽ giới hạn khả năng vay vốn của khách hàng. Việc nới rộng
hơn hạn mức cho vay sẽ tạo điều kiện tăng doanh số cho vay, tăng quy mô cho vay
tín dụng. Nhưng ngân hàng cũng cần phải chú ý trong việc xác định các đối tượng
khách hàng được hưởng sự mở rộng hạn mức này, tránh tình trạng việc mở rộng
hạn mức tín dụng lại làm tăng hơn nữa rủi ro tín dụng cho ngân hàng.
- Danh mục sản phẩm
Một danh mục sản phẩm đa dạng tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn cho khách hàng,
mở rộng được phạm vi khách hàng, phục vụ được nhiều nhu cầu cho vay hơn nữa.
Đây cũng là một điều mà ngân hàng cần chú ý phát triển.
Chuyên đề thực tập
- Phạm vi cung ứng dịch vụ cho vay tiêu dùng
Phạm vi càng được mở rộng, khách hàng tìm đến sử dụng dịch vụ càng đông,
không chỉ trong khu vực mà ngân hàng đặt trụ sở mà còn cả các địa bàn khác đến
vay vốn.
- Chất lượng dịch vụ
Các ngân hàng hiện nay cạnh tranh nhau trong chất lượng dịch vụ. Chất lượng
dịch vụ càng cao thì càng làm hài lòng khách hàng đến ngân hàng, tạo nên uy tín

trong việc cung cấp các dịch vụ , và đó cũng là một cách để lôi kéo khách hàng về
phía mình của các ngân hàng hiện nay.
1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng tới cho vay tiêu dùng
1.3.2.1. Các nhân tố chủ quan
Đó là các nhân tố bắt nguồn từ bản thân chính ngân hàng như: vốn tự có,
nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kĩ thuật, chiến lược phát triển, chính sách tín dụng,
quy trình hoạt động
- Vốn tự có và khả năng huy động vốn
Vốn tự có cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng, mở rộng quy
mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới
của NHTM. Vốn tự có được phân thành 2 cấp: vốn cấp 1 và vốn cấp 2.
+ Vốn cấp 1 về cơ bản gồm: (1) vốn điều lệ: là số vốn do tất cả thành viên góp
và được ghi vào Điều lệ công ty; (2) lợi nhuận không chia và (3) là các quỹ dự trữ
được lập trên cơ sở trích lập từ lợi nhuận của tổ chức tín dụng như quỹ dự trữ bổ
xung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính và quỹ đầu tư phát triển. Vốn cấp 1 được
dùng để xác định giới hạn mua, đầu tư vào tài sản cố định của tổ chức tín dụng
( theo quy định hiện hành không quá 50%).
+ Vốn cấp 2 về cơ bản gồm (1) phần giá trị tăng thêm do định giá lại tài sản
của tổ chức tín dụng (bao gồm 50% giá trị tăng thêm đối với tài sản cố định và 40%
giá trị tăng thêm đối với các loại chứng khoán đầu tư); (2) nguồn vốn gia tăng hoặc
bổ xung từ bên ngoài (bao gồm trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và một số
công cụ nợ thứ cấp nhất định); (3) dự phòng chung cho rủi ro tín dụng (tối đa bằng
1,25% tổng tài sản "Có" rủi ro). Song tổng giá trị vốn cấp 2 tối đa cho phép bằng
Chuyên đề thực tập
100% tổng giá trị vốn cấp 1 và tổng giá trị trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi và
các công cụ nợ khác tối đa bằng 50% vốn cấp 1.
Việc xác định vốn tự có theo hai cấp sẽ cho phép các ngân hàng thương mại
trong nước tính toán cụ thể và nâng cao được mức vốn tự có của mình vốn dĩ trước
đây chỉ được tính trên cơ sở vốn cấp 1.
Việc gia tăng vốn tự có sẽ tạo nhiều thế mạnh cho ngân hàng như gia tăng tổng

dư nợ cho vay đối với khách hàng, tăng tổng mức bảo lãnh, cho thuê tài chính Vốn
tự có của ngân hàng càng lớn thì ngân hàng càng có nhièu khả năng thực hiện chiến
lược mở rộng kinh doanh của mình.
Ngoài nguồn vốn tự có của mình, các ngân hàng không ngừng huy động vốn
để có thể đáp ứng được nhu cầu về vốn cho vay của khách hàng. Thường thì tỷ lệ
vốn huy động chiếm khoảng 70% nguồn vốn của ngân hàng, đóng vai trò quan
trọng tới hoạt động của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh
tranh và để có nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra
nhiều hình thức huy động vốn khác nhau như: tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kì
hạn, tiền gửi tiết kiệm
- Nguồn nhân lực của ngân hàng
Để vận hành một ngân hàng, ngoài những yếu tố thuộc về vật chất kĩ thuật còn
có một yếu tố không thể thiếu là con người. Con người ở đây được hiểu là những
người có kiến thức chuyên môn, có lòng nhiệt tình công việc, và có đạo đức nghề
nghiệp. Những ngân hàng có đội ngũ nhân viên tốt sẽ mang lại những lợi ích lớn
như hoạt động hiệu quả hơn, có môi trường làm việc chuyên nghiệp hơn. Một tập
thể tốt là một tập thể mà những thành viên là những con người hợp tác, hoà đồng và
có trách nhiệm. Ngày này muốn có được nguồn nhân lực có chất lượng cao, ngoài
việc thường xuyên mở các lớp học nâng cao nghiệp vụ các ngân hàng còn chú trọng
tới việc áp dụng những chính sách đãi ngộ tốt để giúp cán bộ nhân viên gắn bó lâu
dài với ngân hàng.
- Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng bao gồm các quy định và điều khoản cho vay áp dụng cho
từng đối tượng vay và điều kiện vay khác nhau. Bao gồm chính sách về vốn, điều
Chuyên đề thực tập
kiện cho vay, thời hạn cho vay, hạn mức tín dụng, lãi suất cho vay, mức lệ phí, cách
thức xử lý các khoản vay có vấn đề Chính sách này rất quan trọng, nó sẽ là những
quy định cho cả ngân hàng thực hiện, nếu chính sách là đổi mới và hợp lý, nó sẽ
khích thích được khả năng hoạt động của ngân hàng, còn không sẽ gây trở ngại cho
quá trình phát triển của ngân hàng. Đặc biệt trong cơ chế thị trường với sự cạnh

tranh ngày càng gay gắt thì một chính sách linh hoạt sẽ thu hút được nhiều khách
hàng đến với ngân hàng hơn.
- Quy trình cấp tín dụng
Bao gồm tập hợp các quy định, nguyên tắc , các bước làm việc chung đối với
các trường hợp cho vay tín dụng. Nó quy định các bước cụ thể cần thực hiện từ
khâu tiếp nhận cho vay đến khi giải ngân và chấm dứt quan hệ tín dụng. Với quy
trình cấp tín dụng rõ ràng, linh hoạt, hiệu quả sẽ tiết kiệm được thời gian cho cả
khách hàng lẫn người đến vay, tạo mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng về thủ tục
tín dụng nhanh gọn, thuận tiện. Bên cạnh đó, với quy trình cấp tín dụng hoàn thiện,
các ngân hàng sẽ giảm thiểu được rủi ro khi cho vay, ngăn ngừa được tình trạng vay
sai mục đích của khách hàng. Do đó việc xây dựng một quy trình cấp tín dụng
chuẩn là rất cần thiết cho mỗi một ngân hàng.
- Các nhân tố chủ quan khác như cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng, thị
trường hoạt động, cách thức tổ chức hoạt động của các ngân hàng cũng tạo nên
thế mạnh trong cạnh tranh trên thương trường. Các ngân hàng khác nhau có những
định hướng phát triển khác nhau, dựa trên sức mạnh tiềm năng của mỗi ngân hàng,
giúp ngân hàng sử dụng tốt nhất năng lực hiện có của mình.
1.3.2.2. Các nhân tố khách quan
- Môi trường kinh tế
Từ sau năm 1986, Việt Nam đã có nhiều thay đổi lớn trong tư duy kinh tế ,
chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
thực hiện mở cửa, hội nhập quốc tế. Con đường đổi mới đó đã giúp Việt Nam thay
đổi bộ mặt đất nước, làm gia tăng khả năng sản xuất quốc gia, mang lại tốc độ tăng
trưởng kinh tế cao và sự công bằng cho xã hội. Môi trường kinh tế được cải thiện,
Chuyên đề thực tập
mang lại sức sống mới cho sự phát triển của hệ thống ngân hàng trong nước. Bao
gồm những điều kiện phù hợp như: sự ổn định kinh tế, sự gia tăng GDP, thu nhập
bình quân đầu người nâng cao, trình độ phát triển kinh tế kĩ thuật được cải thiện,
các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế được chú trọng tới, tạo cơ sở thu hút đầu tư

nước ngoài, mang lại nhiều việc làm cho người dân, tăng khả năng tiêu dùng của
người dân, dẫn đến thúc đẩy sản xuất trong nước.
Môi trường kinh tế cải thiện, tạo ra nhiều cơ hội cho tất cả các ngành kinh tế
nói chung và ngành ngân hàng nói riêng phát triển. Ngân hàng phát triển sẽ lại thúc
đẩy trở lại các ngành khác phát triển, thoả mãn nhu cầu không chỉ cho các doanh
nghiệp mà còn đáp ứng nhu cầu vay vốn để tiêu dùng của nhân dân, một xã hội phát
triển là một xã hội tiêu dùng. Khi nền kinh tế suy thoái, sức mua giảm sút, nhu cầu
tiêu dùng hạn chế, nhu cầu vay vốn cũng giảm đi, điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt
động của ngân hàng.
Xu thế toàn cầu hoá đang là xu thế phổ biến hiện nay, các công ty xuyên quốc
gia, đa quốc gia xuất hiện hàng loạt, thâm nhập vào thị trường các nước, kèm theo
nó là các tập đoàn tài chính cũng xuất hiện, cạnh tranh với các công ty tài chính và
các ngân hàng trong nước, khiến các ngân hàng này bắt buộc phải đổi mới, để có
thể cạnh tranh với nước ngoài, điều này sẽ mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, còn
các ngân hàng sẽ có thêm nhiều hoạt động sôi động mới, thích ứng với môi trường
kinh tế mới đầy cạnh tranh và rộng lớn.
- Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống luật pháp đầy đủ và hoàn thiện, đồng
bộ, tạo nên sự công bằng và bình đẳng cho các loại doanh nghiệp cũng như các cá
nhân tham gia kinh doanh, huy động được tối đa các nguồn vốn trong xã hội, giải
phóng triệt để và phát triển mạnh mẽ các nguồn lực sản xuất. Xây dựng khung pháp
lý đảm bảo ổn định và rõ ràng về môi trường đầu tư và tính công khai, minh bạch về
chế độ, chính sách khuyến khích đầu tư. Một môi trường pháp lý lành mạnh sẽ tạo
điều kiện cho các ngân hàng phát triển, tránh sự rườm rà trong các thủ tục cho vay,
xin vay, tăng hiệu quả làm việc của ngân hàng.
- Môi trường văn hoá - xã hội
Chuyên đề thực tập
Ngoài những những yếu tố khách quan trên , môi trường văn hoá xã hội cũng
tác động đáng kể đến các ngân hàng thưong mại. Nếu như trước đây, khi mà ngân
hàng còn chủ yếu cho vay các doanh nghiệp nhà nước, việc cho vay khách hàng là

người dân còn rất nhỏ bé, thì nay các hoạt động cho vay lại diễn ra chủ yếu ở các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chính các yếu tố về môi trường văn hoá như trình
độ dân trí, lối sống , thói quen tiêu dùng, đã thay đổi khiến cho họ hiểu sự hữu ích
của các ngân hàng thương mại. Ngày nay, hầu như không ai là không có những hoạt
động liên quan đến ngân hàng, cho nên việc gây thiện cảm để thu hút khách hàng
đến với ngân hàng là yếu tố vô cùng quan trọng. Môi trường văn hoá có ảnh hưởng
rất lớn đến hành vi tiêu dùng của người dân một nước, tạo nên những hiệu quả tiêu
dùng nhất định tác động đến những chính sách của các ngân hàng nước đó trong
việc phát huy các loại dịch vụ cho vay hữu ích và được mong chờ.
- Môi trường khoa học công nghệ
Ngày nay các quốc gia trên thế giới đều tham gia quá trình toàn cầu hoá, giao
lưu công nghệ trong sản xuất và đời sống. Việc làm này mang lại hiệu quả khai thác
năng lực của từng quốc gia và đặc biệt trong ngành ngân hàng. Nhờ tiếp thu những
khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, mà đã làm gia tăng sức mạnh của các
ngân hàng, tạo sự thoải mái trong việc tiêu dùng các dịch vụ của ngân hàng cho
người dùng. Ví dụ: việc đưa vào hoạt động hệ thống rút tiền mặt bằng thẻ ATM
trong thành phố và liên quốc gia, hay như dịch vụ chuyển tiền trong cả nước
Không chỉ mang lại tiện ích cho khách hàng mà còn giảm thiểu những hoạt động
không cần thiết cho ngân hàng, tăng hiệu quả kiểm soát và điều hành của hệ thống
này. Như trong quá trình xem xét cho vay tín dụng, nhờ có công nghệ mới mà các
nhân viên tín dụng tiết kiệm được thời gian tìm kiếm thông tin khách hàng, có thể
lưu giữ tài liệu trong hệ thống thông tin ngân hàng, phục vụ việc ra quyết định cho
vay hay không, điều này tích kiệm thời gian và tiền bạc cho cả hai phía Mặt khác,
khoa học công nghệ tạo điều kiện cho các ngân hàng mở rộng thị trường hoạt động,
đưa dịch vụ đến tận tay người tiêu dùng, tăng thêm sức cạnh tranh với các đối thủ.
- Khách hàng đến vay vốn
Chuyên đề thực tập
Những khách hàng đến vay vốn cho tiêu dùng thường là những cá nhân có nhu
cầu dùng những sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Họ có thu nhập và mong muốn
được sử dụng 1 loại dịch vụ hàng hoá nào đó, nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của

mình, cho nên với đối tượng này ngân hàng cũng cần nắm vững những đặc điểm và
cần xem xét kĩ những yếu tố quan trọng như việc sử dụng đúng mục đích tiền vay
của khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, tình hình trả nợ của khách
hàng
Việc sử dụng đúng mục đích vay của khách hàng rất quan trọng,vì nó ảnh
hưởng đến rủi ro không trả được nợ của khách hàng. Đảm bảo là khách hàng sử
dụng tiền của ngân hàng đúng như những gì đã cam kết trong hợp đồng giúp các
nhân viên tín dụng theo dõi, giám sát được hiệu quả sử dụng vốn vay tốt nhất, tránh
gây nên những tổn thất không đáng có cho phía ngân hàng. Các khách hàng khi đến
ngân hàng, sẽ được đánh giá năng lực pháp lý để đảm bảo là có đủ tư cách chịu
trách nhiệm về món nợ vay và được tính điểm tín nhiệm nhằm xây dựng hồ sơ vay
vốn được hiệu quả. Hiệu quả cho vay được thể hiện là người đi vay sử dụng đúng
mục đích và có thiện chí trong việc trả nợ, tạo cho ngân hàng những khoản nợ lành
mạnh.
Khả năng tài chính của người vay cho biết khả năng hoàn trả nợ đủ và đúng
hạn. Đây là vấn đề mà các cán bộ tín dụng rất quan tâm xem xét. Vì đây là các
khoản cho vay tiêu dùng, nên phần lớn thu nhập thường xuyên của các cá nhân sẽ
được chú ý xem xét, nếu thu nhập thường xuyên mà cao, sẽ tạo điều kiên cho ngân
hàng thu hồi vốn sớm và việc phải trả nợ cho ngân hàng ít là gánh nặng cho bản
thân gia đình người vay.
Bên cạnh đó tình hình trả nợ của khách hàng cũng đáng lưu tâm. Chỉ cần một
lần chậm trễ trong thanh toán hàng kì, ngân hàng sẽ có nguy cơ thu hồi vốn chậm
nếu đó là dấu hiệu khó khăn trong trả nợ của người vay. Do đó, việc theo dõi quan
tâm đôn đốc khách hàng trả nợ đúng hạn cũng là một điều cần thiết.
Khách hàng là nơi tạo ra nguồn thu cho ngân hàng, vì thế mở rộng quan hệ với
khách hàng, thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ của ngân hàng cần được phát huy.
- Đối thủ cạnh tranh
Chuyên đề thực tập
Số lượng ngân hàng nhất là trong tình hình toàn cầu hoá, mở rộng buôn bán
với các nước, ngày càng tăng lên, tạo nên sức cạnh tranh lớn giữa các ngân hàng.

Do vậy bản thân các ngân hàng phải biết hoàn thiện những điểm yếu của mình để
tăng khả năng cạnh tranh hơn nữa. Những ngân hàng không có sự cải cách sẽ nhanh
chóng bị loại khỏi thị trường, có thể nói chính các đối thủ cạnh tranh là nhân tố kích
thích tính năng động sáng tạo của các ngân hàng hiện nay.
Chuyên đề thực tập
Chương 2
Thực trạng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP Quân đội
2.1. Khái quát chung về Ngân hàng TMCP Quân đội
2.1.1. Sự hình thành Ngân hàng TMCP Quân đội
Ngân hàng TMCP Quân đội ( Military Commercial Join Stock Bank) tên viết
tắt là MB được thành lập vào năm 1994, theo quyết định số 00374/GP-UB của uỷ
ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. Ngày 4/11/1994, Ngân hàng TMCP Quân đội
chính thức đi vào hoạt động theo Giấy phép số 0054/NH-GP của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam với số vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, thời gian hoạt động là 50 năm, tuy
nhiên có thể xin gia hạn khi hết hạn hoạt động.
Từ năm 1994-2004 Ngân hàng có trụ sở ở 28A Điện Biên Phủ, Quận Ba Đình
Hà Nội. Từ năm 2005 đến nay Ngân hàng chuyển Trụ sở chính tới Số 3 Liễu Giai,
Quận Ba Đình, Hà Nội. Đồng thời một Sở giao dịch mới được thành lập với cùng
địa điểm Trụ sở chính.
Đến nay hơn 10 năm hoạt động, MB đã liên tục kinh doanh có hiệu quả và
được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đánh giá là một trong những ngân hàng
TMCP hàng đầu Việt Nam.
Sự tăng trưởng về vốn và quy mô hoạt động của Ngân hàng Quân đội luôn ổn
định và liên tục trong suốt quá trình hoạt động. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng
Quân đội tăng liên tục từ 20 tỷ đồng năm 1994 lên đến hơn 1000 tỷ đồng vào cuối
năm 2006, và đến năm 2007 đã tăng vốn điều lệ lên 2000 tỷ đồng.Tổng tài sản tăng
trưởng tương ứng từ 32 tỷ đồng lên đến hơn 8000 tỷ đồng. Mức lợi nhuận của ngân
hàng tăng từ 0.23 tỷ trong năm tài chính 1994 lên 240 tỷ trong năm 2006. ROE của
Ngân hàng luôn được duy trì ở mức trên 20% trong những năm vừa qua. Tỉ lệ chia
cổ tức hàng năm luôn đạt trên 15%.

Để đáp ứng nhu cầu phát triển, Ngân hàng Quân đội liên tục mở rộng mạng
lưới hoạt động, từ 1 điểm giao dịch là trụ sở chính ban đầu, đến nay đã có 66 điểm

×