Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thời kỳ mở cửa – Thực trạng và Giải pháp chuyển dịch cơ cấu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (113.83 KB, 12 trang )

Đề tài: Cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam thời kỳ mở cửa – Thực trạng và
giải pháp chuyển dịch cơ cấu.
PHẦN I: THỰC TRẠNG CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU THỊ
TRƯỜNG VIỆT NAM THỜI KỲ MỞ CỬA
Trước năm 1986, thị trường xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập
trung tại các nước khối xã hội chủ nghĩa thuộc Đông Ân và Liên Xô (cũ) với
tổng thị phần chiếm tới 80%. Mặt hàng xuất khẩu nghèo nàn chủ yếu là các
sản phẩm giày dép, dệt may gia công và hàng nông sản, công nghiệp được
xuất dưới dạng thô. Sự thay đổi của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sự sụp
đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu đã tác động trực tiếp đến hoạt động
xuất khẩu của Việt Nam đồng thời tạo điều kiện cho nền kinh tế Việt Nam
nói chung, các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam nói riêng bước sang giai
đoạn phát triển mới thay đổi cả về chất và lượng. Kinh tế Việt Nam giai
đoạn từ khi đổi mới đến nay đã có nhiều bước phát triển vượt bậc, đặc biệt
các mặt hàng và thị trường xuất khẩu ngày càng rộng hơn, đa dạng hơn, góp
phần nâng cao tỷ lệ đóng góp vào ngân sách nhà nước.
Trong quá trình đổi mới với nhận thức sâu sắc về sự phát triển của nền
kinh tế còn nhiều khó khăn, Việt Nam đã từng bước tham gia vào quá trình
quốc tế hóa thông qua việc gia nhập các tổ chức lớn của khu vực và thế giới.
Đặc biệt, việc trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO
góp phần thúc đẩy kinh tế Việt Nam bước sang một giai đoạn mới, tránh
nguy cơ tụt hậu, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam cơ hội cạnh tranh lành
mạnh trên thị trường quốc tế. Điều đó góp phần thay đổi cơ cấu hàng xuất
khẩu Việt Nam. Tận dụng thế mạnh của mình, tập trung vào thị trường xuất
1
khẩu mà Việt Nam có nhiều ưu thế là thị trường ASEAN thay thế thị trường
châu Âu trước đây. Có thể thấy rõ lợi ích của Việt Nam khi tham gia hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN sau hơn 12 năm. Thời gian chưa
nhiều, nhưng ASEAN với diện tích 4,5 triệu km2, khoảng 550 triệu dân,
GDP đạt 700 tỉ USD, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt xấp xỉ 550 tỉ USD
(chiếm 78,5% GDP, bình quân đầu người đạt xấp xỉ 1.000 USD), đã trở


thành đối tác lớn về đầu tư, thương mại của Việt Nam. Kể từ khi Việt Nam
thực hiện AFTA (năm 1996), kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang
ASEAN có xu hướng tăng liên tục (riêng năm 2001 và 2002 giảm nhẹ). Từ
năm 2002 - 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các nước
ASEAN đã tăng 2,6 lần, tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 21,1%/năm. Cụ
thể: Campuchia: 39,8%/năm; Inđônêxia: 36,1%/năm; Lào: 9,5%/năm;
Malaixia: 30,8%/năm; Mianma: 28,8%/năm; Phiippin: 20,7%/năm;
Xingapo: 9,6%/năm; Thái lan: 28,9%/năm. Về cơ cấu xuất khẩu của Việt
Nam sang ASEAN, có hai mặt hàng xuất khẩu có kim ngạch và tỷ trọng lớn
nhất là dầu thô (thường chiếm tỷ trọng xung quanh mức 40% năm 2005 lên
trên 46,6%), sau đó là gạo (chiếm tỷ trọng trên 10%). Các nước nhập khẩu
gạo lớn trong ASEAN như Inđônêxia, Philipin, Malaixia đều coi gạo là mặt
hàng đặc biệt quan trọng và thực hiện nhiều biện pháp phi thuế quan để quản
lý mặt hàng này. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam sang
ASEAN đạt trên 1 tỷ USD và dự kiến năm 2008 sẽ vẫn duy trì mức này. Do
lợi thế về vận tải và nhu cầu gạo phẩm cấp thấp phù hợp với sản xuất của
Việt Nam nên thị trường ASEAN vẫn là thị trường quan trọng trong xuất
khẩu gạo Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số nước ASEAN đã và đang có nhu cầu tương đối lớn
các loại rau quả, đặc biệt là các rau quả tươi. Tuy nhiên, kim ngạch xuất
2
khẩu rau quả của Việt Nam sang các nước ASEAN còn khá khiêm tốn với
25 triệu USD trong năm 2007. Dự kiến, năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của
mặt hàng này sang ASEAN sẽ đạt 32 triệu USD, tăng 30% so với năm 2007.
Đối với mặt hàng cà phê, kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN năm 2007
đạt 145 triệu USD. Dự kiến, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này năm 2008
đạt 155 triệu USD, tăng 7% so với năm 2007.
Đối với mặt hàng thủy sản, năm 2007, kim ngạch xuất khẩu thủy sản
của Việt Nam sang ASEAN đạt 168 triệu USD. Dự kiến năm 2008, kim
ngạch xuất khẩu mặt hàng này đạt 200 triệu USD, tăng 20% so với năm

2007.
Đối với hàng dệt may và giầy dép, do có sự trùng hợp về cơ cấu sản
xuất nên những mặt hàng này của Việt Nam khó có khả năng thâm nhập
mạnh vào ASEAN. Tuy nhiên, năm 2007, Việt Nam đã xuất khẩu nhóm
hàng này trị giá khoảng 175 triệu USD vào khu vực này. Năm 2008 và các
năm tiếp theo, tận dụng những ưu đãi thuế để tăng cường xuất khẩu các sản
phẩm dệt may, giầy dép sang các nước ASEAN. Dự báo năm 2008, kim
ngạch xuất khẩu nhóm hàng này đạt khoảng 202 triệu USD, tăng 15% so với
năm 2007. Còn mặt hàng điện tử và linh kiện điện tử hiện nay chủ yếu do
các công ty liên doanh tại Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN. Năm 2008,
kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này dự tính đạt 950 triệu USD, tăng 40% so
với năm 2007. Những năm gần đây, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu được một
số mặt hàng chế tạo mới sang ASEAN như: dây điện và dây cáp điện, đồ
chơi trẻ em, xe đạp và phụ tùng xe đạp. Tuy vậy, các mặt hàng xuất khẩu
của Việt Nam hiện đang trong tình trạng có trên 60% giá trị kim ngạch là
mặt hàng xuất khẩu ở dạng thô, giá trị gia tăng thấp. Hàng công nghiệp thì tỷ
lệ gia công cao, nhất là may mặc và giày dép
3
Tổng kết từ khi mở cửa đến nay, khu vực thị trường xuất khẩu hàng
Việt Nam được phân bổ lại như sau (số liệu thống kê năm 2007):
- Về mặt hàng xuất khẩu, các mặt hàng xuất khẩu chủ lực có kim
ngạch trên 1 tỷ USD (11 mặt hàng và nhóm hàng ) vẫn duy trì được tốc độ
tăng trưởng khá (trừ dầu thô) là thủy sản, gạo, cà phê, cao su, than đá, dệt
may, giầy dép, điện tử và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ và nhóm sản
phẩm cơ khí; trong đó có 4 mặt hàng là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ
sản kim ngạch đạt trên 3 tỷ USD, 2 mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ đạt trên
2 tỷ USD. Một số nhóm hàng mới mặc dù có kim ngạch chưa cao nhưng tốc
độ tăng trưởng tương đối nhanh như dây điện và cáp điện tăng 25,6%; túi
xách, vali, mũ, ô dù tăng 26,2%; sản phẩm nhựa tăng 52,0%; hàng thủ công
mỹ nghệ tăng 18,9% . Kim ngạch xuất khẩu tuy tăng khá 21,5%, trong đó có

yếu tố giá xuất khẩu tăng cao, những vẫn chưa đạt yêu cầu và còn thấp hơn
mức tăng của một số năm trước. Như vậy, so với năm 2006, qui mô và tốc
độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục được duy trì ở mức cao, các chỉ
tiêu về tăng trưởng đều thực hiện đạt và vượt kế hoạch. Kim ngạch xuất
khẩu của khu vực các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục chiếm
tỷ trọng lớn và có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng xuất khẩu của cả
nước.
- Về khu vực thị trường: Các thị trường truyền thống về xuất khẩu
vẫn được duy trì, tuy có những biến động nhất định, cụ thể :
+ Thị trường Châu Á vẫn chiếm tỷ trọng lớn (43,8%,) với kim ngạch
khoảng 21,0 tỷ USD và tăng 22,8% so với năm 2006 nhưng lại có xu hướng
giữ nguyên hoặc giảm dần, trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản, ASEAN.
Nhóm hàng hoá xuất khẩu tăng chủ yếu là hàng nông sản và mặt hàng dây
4
điện và cáp điện. Nhập siêu từ khu vực này có chiều hướng giảm do xuất
khẩu tăng nhanh hơn nhập khẩu.
+ Thị trường Châu Âu chiếm 19,8% với kim ngạch đạt 9,6 tỷ USD,
tăng 19,0% so với năm 2006, chủ yếu do tăng trưởng các mặt hàng dệt may,
thủy sản, cao su tự nhiên, đồ gỗ, cà phê, sản phẩm nhựa, thủ công mỹ nghệ.
Riêng mặt hàng xe đạp và giầy mũ da tiếp tục gặp khó khăn do EU áp thuế
chống bán phá giá.
+Thị trường Châu Mỹ, chiếm 24,3%, với kim ngạch đạt 11,6 tỷ USD,
tăng 28,0% so với năm 2006, trong đó chủ yếu là thị trường Hoa Kỳ với kim
ngạch khoảng 10,2 tỷ USD, chiếm 21,3% tổng xuất khẩu cả nước.
+ Thị trường Châu Phi, Tây Nam Á hiện chiếm tỷ trọng nhỏ
(3,8%)với kim ngạch đạt đạt 1,8 tỷ USD, tăng 23,0% so với năm 2006.
Ngoại trừ các thị trường Cô-oét, Irắc và Pakistan tình hình chính trị còn
nhiều bất ổn nên khả năng xuất khẩu còn hạn chế, các thị trường khác có
mức tăng trưởng khá, trong đó có Các Tiểu vương quốc Ả rập thống nhất,
Thổ Nhĩ Kỳ và Israel.

Việc gia nhập WTO giúp Việt Nam có thể tận dụng được nguồn
nguyên liệu đầu vào chất lượng cao và giá rẻ (do cắt giảm thuế quan nhập
khẩu chẳng hạn như sợi 5%, vải 12%, mức cắt giảm chung từ mức bình quân
17,4% xuống 13,4%) để sản xuất hàng xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh
của hàng Việt Nam với hàng hóa của các nước ASEAN khác. Nhóm mặt
hàng tận dụng công nghệ, đầu tư của các nước phát triển và có thể cạnh
tranh và xuất khẩu sang các nước ASEAN như điện tử và linh kiện điện tử,
máy vi tính và linh kiện, điện và dây cáp điện, dệt may, hải sản chế biến
Cùng với việc cắt giảm thuế quan theo cam kết trong WTO, các ngành chịu
5
ảnh hưởng nhiều từ cạnh tranh của hàng nhập khẩu gồm các sản phẩm gỗ, ô
tô, sản phẩm chế tạo khác, đồ nhựa, hàng dệt may, máy móc thiết bị các loại.
Việc mở cửa thị trường tuy tạo thêm sức ép, song điều đó cũng thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước vươn lên, người tiêu dùng, thực chất là toàn xã hội,
có điều kiện tiếp cận hàng hóa, dịch vụ rẻ hơn, tốt hơn, tiện ích hơn. Trong
những năm qua, không ít hàng hóa của Việt Nam đã thắng không chỉ trên
sân nhà mà cả trên sân người (trong đó có cả khu vực ASEAN), thậm chí
một số nước vốn mạnh hơn Việt Nam về mặt hàng này hay mặt hàng khác
đã tỏ ra lo ngại về sức cạnh tranh của Việt Nam. Do vậy các ngành này nếu
vươn lên cạnh tranh được với hàng ngoại nhập thì cũng có nghĩa là xuất
khẩu sang ASEAN ngày càng có triển vọng.
Như vậy có thể thấy rằng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN chủ
yếu là nông sản, hải sản và khoáng sản thô, sơ chế có giá trị thấp, hàm lượng
giá trị gia tăng không cao. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được hưởng
thuế NK ưu đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá
cả phụ thuộc vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn
định. Trừ linh kiện điện tử và vi tính, hàng công nghiệp tiêu dùng có hàm
lượng chế biến và giá trị gia tăng như may mặc, giày dép… chỉ chiếm tỷ
trọng tương đối nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN. Khi Việt
Nam mới gia nhập WTO, thì xuất khẩu sang ASEAN nhìn chung không tăng

đột biến mà tăng trưởng ổn định và về dài hạn thì tỉ trọng hàng công nghiệp,
hàng có hàm lượng công nghệ cao sẽ tăng mạnh khi Việt Nam tận dụng
được hết những cơ hội do việc gia nhập WTO mang lại. Điều đáng chú ý là
các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN gồm: nông sản, hải sản
và khoáng sản thô, sơ chế có giá trị thấp, hàm lượng giá trị gia tăng không
cao. Những mặt hàng này tuy hầu hết đều được hưởng thuế nhập khẩu ưu
6
đãi CEPT tại các nước nhập khẩu nhưng do có giá trị thấp, giá cả phụ thuộc
vào biến động trên thế giới, nên kim ngạch xuất khẩu không ổn định. Trừ
mặt hàng linh kiện điện tử và vi tính, hàng công nghiệp tiêu dùng có hàm
lượng chế biến và giá trị gia tăng như may mặc, giày dép chỉ chiếm tỷ
trọng tương đối nhỏ trong tổng kim ngạch xuất khẩu sang ASEAN.
Bên cạnh việc xuất khẩu hàng sang các nước ASEAN, Việt Nam cũng
chịu tác động trực tiếp của các các nước ASEAN khác như Thái lan,
Philíppin có cơ cấu hàng xuất khẩu tương đồng với cơ cấu hàng xuất khẩu
của Việt Nam với cùng thế mạnh là hàng nông sản do vậy không chỉ ảnh
hưởng đến tỷ trọng xuất khẩu vào các nước châu Á mà còn ảnh hưởng đến
thị trường thế giới, đặc biệt là khu vực châu Âu, châu Mỹ. Thực tế trên thị
trường quốc tế, hàng nông sản Việt Nam thường bị ép giá trị thấp hơn so với
hàng nông sản của các nước ASEAN khác. Do đặc điểm tương đồng về cơ
cấu hàng xuất khẩu giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực nên xu
hướng của hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ là giảm thị phần khu vực châu Á,
tiến tới mở rộng, tăng thị phần các khu vực khác. So sánh mức tăng trưởng
xuất khẩu của Việt Nam với Thái Lan cao hơn nhiều, có thời gian tăng 35%.
Tốc độ tăng xuất khẩu của Thái Lan rất không ổn định, bình quân thấp hơn
Việt Nam. Nhưng mặt hàng xuất khẩu của Thái Lan và một số nước ASEAN
như: Sinapore,Malaysia, Philippines,Indonesia, Brunei chủ yếu là các mặt
hàng có giá trị kinh tế cao. Trong 20 mặt hàng có tỷ trọng xuất khẩu cao
nhất của các nước này, mặt hàng linh kiện điện tử bán dẫn chiếm đến 17,9%
trong tổng kim ngạch xuất khẩu, chiếm khoảng gần 5 tỷ USD; Mặt hàng

máy xử lý dữ liệu tự động đạt 39 tỷ, chiếm 7,5% kim ngạch xuất khẩu. Các
chi tiết cho máy văn phòng đạt 28 tỷ USD, chiếm 5,4%. Trong khi đó, năm
2007, mặt hàng linh kiện điện, điện tử của Việt Nam chỉ đạt 2,1 tỷ USD. Do
7
đó, kim ngạch xuất khẩu của các nước ASEAN này lớn hơn rất nhiều so với
Việt Nam.
Thời kỳ mở cửa đã xuất hiện nhiều mặt hàng xuất khẩu mới góp phần
thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam theo hướng đa dạng hơn. Chất
lượng sản phẩm cũng được cải thiện đáng kể với xu hướng chuyển dịch tích
cực theo hướng tăng dần tỷ trọng nhóm hàng chế biến, chế tạo, nhóm hàng có
hàm lượng công nghệ và chất xám cao như: thuỷ sản, dệt may, giầy dép, hàng
điện tử và linh kiện điện tử, sản phẩm gỗ ,giảm dần xuất khẩu hàng thô (mặc
dù xét về kim ngạch thì nhóm hàng nhiên liệu khoáng sản vẫn tăng cao do
được giá).
Tuy nhiên, qui mô xuất khẩu vẫn còn nhỏ bé, tốc độ tăng trưởng
nhanh nhưng chưa vững chắc và rất dễ bị tổn thương bởi các biến động bên
ngoài như giá cả,các rào cản thương mại mới của nước ngoài bởi sự phu
thuộc vào nguyên vật liệu nhập khẩu còn lớn. Sức cạnh tranh của hàng hoá
chưa được cải thiện rõ rệt, cơ cấu mặt hàng còn chưa hợp lý thể hiện ở chỗ
chủng loại đơn điệu, chậm xuất hiện những mặt hàng xuất khẩu mới có kim
ngạch đáng kể; giá trị gia tăng thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa nắm bắt được
những cơ hội để thâm nhập và khai thác các thị trường xuất khẩu; chưa tận
dụng triệt để lợi ích từ việc gia nhập WTO, các hiệp định thương mại song
phương và khu vực đã ký kết giữa Việt Nam và các đối tác nhất là việc cắt
giảm thuế quan để khai thác hết tiềm năng của các thị trường lớn như Hoa
Kỳ, EU, Trung Quốc…Thị trường xuất khẩu tăng không đều, trong khi thị
trường ASEAN, EU, Mỹ tăng khá cao thì một số thị trường quan trọng khác
chưa được khai thác triệt để.
8
PHẦN II: GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU

Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với
nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Với cùng nguồn lực, nếu chúng ta xác định
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng hợp lý không chỉ góp phần
thay đổi cán cân thương mại mà còn thúc đẩy các ngành phát triển theo
hướng tích cực, chủ động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực hiện có và
ngược lại. Trong giai đoạn 2006-2010, cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ
có những điểm thay đổi tập trung ở 3 xu hướng chuyển dịch và tăng trưởng
của các nhóm hàng xuất khẩu.
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên
liệu sẽ giảm dần do tác động của sự sụt giảm khối lượng xuất khẩu dầu thô
và than đá kéo theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tiếp theo, đặc
biệt là kể từ năm 2009, khi Nhà máy lọc dầu số 1 dự kiến bắt đầu đi vào hoạt
động và sẽ tăng sử dụng nguồn nguyên liệu dầu thô trong nước.
Thứ hai, tốc độ tăng trưởng của nhóm hàng nông, lâm, thủy sản dự
báo sẽ tăng dần nhưng với biên độ thấp do gặp phải nhiều hạn chế về khả
năng mở rộng quy mô nuôi, trồng và chủ yếu phải dựa vào việc gia tăng hàm
lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.
Thứ ba, xuất khẩu của nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ
sẽ có khả năng tăng mạnh do có điều kiện mở rộng quy mô sản xuất. Đặc
biệt, xu hướng này càng mang tính khả thi có nhiều dự án đầu tư trực tiếp
nước ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này.
9
Muốn đạt được các mục tiêu trên, bắt đầu từ năm 2007, cần tập trung
đầu tư vào các nhóm hàng công nghiệp để mở rộng sản xuất, khai thác thêm
những mặt hàng mới, thị trường mới và đổi mới công nghệ chế biến, nâng
cao giá trị gia tăng của nhóm hàng nông sản. Nhóm hàng xuất khẩu mới
cũng cần được chú trọng, bao gồm các sản phẩm công nghiệp đóng tàu, thép
và các sản phẩm từ gang thép, máy biến thế và động cơ điện, giấy bìa và các
sản phẩm từ giấy bìa, túi xách,ô dù, hóa chất, hóa mỹ phẩm …được đánh
giá là rất có tiềm năng phát triển trong tương lai. Chuyển đổi cơ cấu sản

phẩm xuất khẩu, theo hướng phát triển các mặt hàng có kim ngạch tuy chưa
lớn nhưng đang có tốc độ tăng trưởng cao, không bị hạn chế hoặc chưa bị
hạn chế về thị trường, hạn ngạch và không thuộc diện bị áp thuế để hình
thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới như các sản phẩm thủ công mỹ
nghệ, đồ gỗ, túi xách, va li, sản phẩm cao su, hàng thực phẩm chế biến, hoá
mỹ phẩm, sản phẩm cơ khí, dịch vụ phần mềm…
Do đặc điểm hàng hoá của Việt Nam chưa có thương hiệu trên thị
trường thế giới, tính cạnh tranh thấp vì chất lượng và mẫu mã, giá đầu vào
cao. Chi phí cho xuất khẩu lớn, nhất là thu gom hàng hoá, vận tải, tiêu cực
phí ở khâu vận tải và thủ tục hải quan. Trong giai đoạn kinh tế hiện nay, các
chính sách hỗ trợ đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu là một trong những
nhóm chính sách góp phần giảm lạm phát, bảo đảm tăng trưởng kinh tế hợp
lý. Thêm nữa, trên 60% giá trị kim ngạch là mặt hàng xuất khẩu ở dạng thô,
giá trị gia tăng thấp. Hàng công nghiệp thì tỷ lệ gia công cao, nhất là may
mặc và giày dép. Muốn chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu hiệu quả, về tầm vĩ
mô cần xây dựng cơ chế chính sách đồng bộ phù hợp, hỗ trợ công tác xúc
tiến thương mại và tỷ giá hợp lý đối với các doanh nghiệp xuất khẩu đảm
bảo không vi phạm cam kết với WTO và luật pháp quốc tế. Sử dụng chính
10
sách hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam hiện nay là thay đổi cơ cấu trong xuất
khẩu theo hướng chuyển dần sang xuất khẩu các nhóm hàng chế tạo có giá
trị gia tăng cao và tăng hiệu quả kinh tế, chất lượng của xuất khẩu. Xây dựng
thương hiệu quốc gia, hỗ trợ trong công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm
bạn hàng, cung cấp thông tin kịp thời, tư vấn pháp luật quốc tế …mang tính
thường xuyên kịp thời từ các tổ chức hiệp hội ngành nghề sẽ là những hỗ trợ
tốt nhất cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Tiếp tục tạo điều kiện về mặt thủ tục hành chính cho tất cả mọi thành
phần kinh tế đều được tham gia xuất khẩu. Cải cách thủ tục hành chính trong
xuất khẩu hàng hoá, đặc biệt là các thủ tục về thuế và hải quan nhằm giảm
chi phí giao dịch xuất khẩu

Có chiến lược để phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Đây là việc đã
nói từ lâu rồi, nhưng hầu như chưa có chuyển biến gì. Chúng ta phải rà soát
lại tất cả các ngành công nghiệp phụ trợ để xem ngành nào có khả năng cạnh
tranh cao nhất thì tập trung vào để đầu tư.
Cần lựa chọn những mặt hàng có kim ngạch tương đối lớn, tốc độ
tăng trưởng cao trong nhiều năm gần đây để tập trung các biện pháp mở
rộng sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu.
Con đường ngắn hơn cả là phát triển công nghiệp sáng tạo. Ngành
công nghiệp này tích hợp nhiều ngành bao gồm truyền thông, tạo mốt,
thương mại, quảng cáo…Trên thế giới, hiện nay ngành công nghiệp này có
tổng giá trị giao dịch khoảng 3.000 tỷ USD. Các tố chất của người Việt Nam
rất phù hợp với ngành công nghiệp này. Hiện nay công nghiệp thời trang của
Việt Nam phát triển rất nhanh. Đầu tư vào lĩnh vực này không quá lớn, chủ
yếu là tiềm năng con người. Thay vì làm gia công trước đây, các doanh
11
nghiệp dệt may, da giầy cần chú trọng đầu tư vào khâu thiết kế nhằm đưa ra
những sản phẩm phù hợp với xu hướng….
Bên cạnh các giải pháp trên, các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu
phải từng bước phát huy thế mạnh, tích cực chủ động trong công tác nghiên
cứu thay đổi mẫu mã chất lượng, cung cấp sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu
cầu thị trường quốc tế.
12

×