Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường trung học cơ sở ở huyện tam dương tỉnh vĩnh phúc trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (502.62 KB, 100 trang )

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CHỮ VIẾT TẮT CỤM TỪ VIẾT TẮT
BCH Ban chấp hành
BGH Ban giám hiệu
CBQL Cán bộ quản lý
CMHS Cha mẹ học sinh
CSVC Cơ sở vật chất
ĐVTN Đoàn viên thanh niên
GD&ĐT Giáo dục và Đào tạo
GTS Giá trị sống
GV Giáo viên
GVCN Giáo viên chủ nhiệm
HĐNGLL Hoạt động ngoài giờ lên lớp
HS Học sinh
KNS Kỹ năng sống
LHQ Liên hiệp quốc
NXB Nhà xuất bản
PGS.TS Phó Giáo sư, Tiến sỹ
THCS Trung học cơ sở
XHCN Xã hội chủ nghĩa
i
MỤC LỤC
Lời cảm ơn i
Danh mục các ký hiệu viết tắt trong luận văn ii
Mục lục iii
Danh mục bảng, biểu đồ, hình vii
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Xuất phát từ vai trò của kỹ năng sống, tầm quan trọng của việc giáo
dục kỹ năng sống trong hoàn cảnh xã hội hiện nay
Đất nước ta đang thực sự chuyển mình hòa cùng với thế giới về phát


triển và hội nhập, cả nước đang tiếp tục công cuộc đổi mới sâu sắc và toàn
diện, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết TW2
khóa VIII khẳng định: “Muốn tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa thắng
lợi phải phát triển mạnh giáo dục và đào tạo, phát huy nguồn lực con người,
yếu tố cơ bản của sự phát triển nhanh và bền vững, để thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Phát triển nguồn lực
con người là phát triển đức và tài” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Có tài
mà không có đức là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”. Sự nghiệp giáo dục đang được coi trọng là “quốc sách hàng đầu”
(Nghị quyết Đại hội Đảng khóa VIII). Bên cạnh việc truyền thụ tri thức khoa
học thì công tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức và hình thành cho học
sinh những giá trị sống, kỹ năng sống và làm việc để có thể vững tin bước vào
cuộc sống cần được chú trọng, cải tiến và đẩy mạnh hơn bao giờ hết trong giai
đoạn hiện nay, góp phần tích cực vào sự nghiệp giáo dục toàn diện, hài hòa
đáp ứng yêu cầu mới của xã hội.
Hơn nữa trong lịch sử của nhân loại, của dân tộc chưa bao giờ con
người phải sống trong hoàn cảnh tự nhiên có nhiều sự biến đổi như bây giờ.
ii
Con người đã tác động vào thiên nhiên, phá vỡ cân bằng của thiên nhiên,
làm “thiên nhiên nổi giận” buộc phải trang bị cho con người kỹ năng đối
phó với sự biến đổi của thiên nhiên, tham gia giữ gìn bảo vệ môi trường tự
nhiên, con người cũng chưa bao giờ phải sống trong hoàn cảnh xã hội và
quan hệ xã hội phức tạp, giao thoa những cái tốt, xấu, giữa tiêu cực và tích
cực, giữa thiện và ác, giữa vật chất và tinh thần, giữa truyền thống và hiện
đại như bây giờ, buộc con người phải lựa chọn khó khăn, phức tạp như
hiện nay. Nếu không được trang bị sự nhận thức, hiểu biết về giá trị sống,
có kỹ năng lựa chọn, ứng phó với những tình huống phức tạp đang diễn ra
hàng ngày thì rất khó thích ứng để phát triển, nhất là đối với học sinh
THCS nói riêng, thế hệ trẻ nói chung vì các em còn thiếu rất nhiều vốn
sống, thiếu kinh nghiệm sống, kỹ năng sống.

Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trung học một cách chu đáo là trang
bị hành trang cho các em sống chủ động, thích ứng, sáng tạo, khẳng định được
vai trò chủ thể trong mọi tình huống của cuộc sống và hoạt động xã hội.
1.2. Thực trạng hiện nay, một bộ phận không nhỏ học sinh chưa xác định
chuẩn xác những giá trị sống chủ yếu cốt lõi, vì vậy họ có những biểu hiện
thái độ, hành vi lệch chuẩn so với yêu cầu của xã hội
Học sinh THCS đang ở tuổi dậy thì, tuổi nổi loạn: bồng bột, hiếu kỳ,
thích bắt chước, thích làm người lớn, muốn bạn bè cùng trang lứa thán phục
nên muốn chơi chội Những đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi học sinh
THCS hành động chưa có suy nghĩ thận trọng, chín chắn, chưa có kinh
nghiệm sống vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho các em là rất quan trọng.
Thực tế một bộ phận không nhỏ thanh niên học sinh hiện nay có thói
ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ việc chăm lo từ người khác mà không thấy được
vai trò, trách nhiệm, nghĩa vụ phải thương yêu, kính trọng giúp đỡ gia đình,
ông bà, cha mẹ.
Trong nhà trường phổ thông nói chung và trong các trường THCS ở
iii
huyện Tam Dương nói riêng, nhiều học sinh chưa biết quan tâm giúp đỡ đến
những người thân yêu của mình, thờ ơ trong việc xây dựng tập thể. Đặc biệt
có những học sinh sống buông thả, có những biểu hiện hành vi đạo đức xa rời
lối sống, thuần phong mỹ tục đẹp của dân tộc, không chịu học tập, rèn luyện,
không có lý tưởng, hoài bão, ước mơ để rồi không tìm được cho mình một
hướng đi đúng đắn.
1.3. Xuất phát từ thực trạng việc giáo dục kỹ năng sống ở học sinh Trung
học cơ sở hiện nay chưa hiệu quả
Có thể nói việc giáo dục giá trị sống thông qua tích hợp giáo dục
kỹ năng ở một số môn học theo yêu cầu của Bộ GD – ĐT nhưng hiệu quả
rất thấp vì:
- Thầy chưa có hiểu biết, chưa có phương pháp dạy học giáo dục tích
hợp kỹ năng sống vào các môn học, chưa nhận thức thật đầy đủ việc giáo dục

kỹ năng sống.
- Học sinh cũng chưa nhận thức được đầy đủ việc rèn luyện kỹ năng sống.
- Nội dung, chương trình, phương pháp, điều kiện giáo dục kỹ năng
sống còn khô cứng. Hệ thống kỹ năng chưa xác định được những kỹ năng chủ
yếu và điển hình.
Thực trạng quản lý giáo dục kỹ năng sống và thực trạng phối hợp các lực
lượng trong và ngoài nhà trường chưa được chú trọng và thực hiện có hiệu quả.
1.4. Xuất phát từ xu thế phát triển giáo dục
Thế giới bước sang thiên niên kỷ mới với nhiều thành tựu phát triển của
nền kinh tế tri thức, của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ tin học
với xu thế hòa bình và hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó loài người đang phải đối
mặt với nhiều thách thức đó là xung đột sắc tộc, tôn giáo và khủng bố quốc tế;
sự gia tăng của khoảng cách giàu nghèo; hạn hán lụt lội thiên tai biến đổi khí
hậu những thách thức ấy đòi hỏi chúng ta phải có thái độ ứng xử tích cực,
đòi hỏi một xu thế phát triển giáo dục, lấy tâm lực làm chủ đạo.
Phát triển tâm lực là phát triển các phẩm chất đạo đức, tư tưởng chính
iv
trị lối sống phát triển các tố chất tâm lý là phát triển tâm hồn hướng tới cuộc
sống tinh thần lạc quan, yêu đời, vui vẻ, sống hòa nhập với cộng đồng và gần
gũi với thiên nhiên, tự điều chỉnh cuộc sống cá nhân hướng tới cuộc sống có
văn hóa và hạnh phúc. Khai thác phát triển tâm lực là tạo ra nội lực của sự
phát triển nhân cách bền vững.
Có thể nói những quy luật của sự phát triển giáo dục giúp chúng ta
có phương pháp luận giải quyết các vấn đề của thực tiễn một cách khoa học
và hợp lý.
1.5. Xuất phát từ mục tiêu giáo dục Việt Nam
Đứng trước những yêu cầu của thời đại việc xác định những giá trị
sống như một đòi hỏi tất yếu. Chính vì vậy Đảng ta đã xác định xây dựng một
nền giáo dục Việt Nam tiên tiến mang đậm đà bản sắc dân tộc trong điều kiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Đảng đã khẳng định: Yếu

tố con người vừa là mục tiêu vừa là động lực cho sự phát triển. Nghị quyết
TW II Khóa VIII đã chỉ rõ: “ Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh
phải có con người phát triển toàn diện, có đạo đức tri thức, sức khỏe thẩm mỹ
và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
hình thành và bồi dưỡng nhân cách phẩm chất và năng lực của công dân đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Hiện nay chúng ta đang đẩy mạnh phong trào “ Xây dựng trường học
thân thiện học sinh tích cực”. Trong đó quan tâm đến giáo dục rèn kỹ năng
sống cho học sinh nhưng chúng ta chưa quan tâm đúng mức đến giáo dục giá
trị sống cho học sinh. Vì vậy, chưa giáo dục đầy đủ phẩm chất nhân cách, mới
chỉ chú ý giáo dục kỹ năng sống, tức là giáo dục hành vi, rèn luyện bên ngoài.
Chính vì vậy học sinh chưa hiểu bản chất của các kỹ năng sống cần thực hiện.
Ví dụ nếu học sinh hiểu giá trị con người phải có lòng nhân ái thì sẽ không có
hiện tượng bạo lực trong học đường; học sinh hiểu được ý nghĩa của trung
thực thì sẽ không có hiện tượng quay cóp.
Xuất phát từ những lý do trên chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Quản
lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh trường Trung học cơ sở ở
v
huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn hiện nay”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Trên cơ sở lí luận và thực tiễn quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trường trung học cơ sở ở huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh
phúc, đề xuất một số biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh các trường THCS huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Xác định cơ sở lý luận về GD kỹ năng sống và quản lý hoạt động giáo
dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh THCS;
3.2. Khảo sát, đánh giá thực trạng hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học
sinh các trường THCS huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
3.3. Đề xuất một số biện pháp quản lý để nâng cao chất lượng giáo dục kỹ

năng sống cho học sinh các trường THCS huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh
Phúc hiện nay.
4. Khách thể nghiên cứu và đối tượng khảo sát
4.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh ở trường Trung học cơ sở.
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Trung học cơ
sở ở huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc.
5. Giả thuyết khoa học của đề tài
Thực tế hiện nay học sinh Trung học cơ sở có những biểu hiện hành vi
không phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội có lẽ vì chúng ta chưa quan tâm
đúng mức trong việc trang bị cho học sinh những giá trị sống, kỹ năng sống
cơ bản và chưa có một cách thức quản lý phù hợp. Nếu tiến hành đầy đủ và
đồng bộ các biện pháp phối hợp giáo dục giữa nhà trường gia đình và xã hội
thì sẽ nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục kỹ năng sống trong bối
cảnh hiện nay.
6. Phạm vi, thời gian thực hiện đề tài
Không gian: Ở Tam Dương có 14 trường THCS nhưng đề tài chỉ khảo
sát ở 3 trường làm đại diện.
vi
Thời gian nghiên cứu: thời gian hồi cứu tư liệu thực trạng từ năm 2010
đến nay.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu tài liệu về những lý luận cơ bản của quá trình giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh.
- Nghiên cứu văn kiện,sách báo,tạp chí nhằm hệ thống hóa những vấn
đề lý luận liên quan đến đề tài.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Điều tra bằng phiếu hỏi

- Quan sát thực tế.
- Tổ chức tọa đàm, hội thảo theo chuyên đề
- Xin ý kiến chuyên gia
7.3. Phương pháp xử lý dữ liệu nghiên cứu
- Sử dụng phương pháp toán thống kê
- Sử dụng phần mềm tin học
- Sơ đồ hóa
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
8.1. Ý nghĩa lý luận
- Tổng quan cơ sở lí luận và phát hiện được thực trạng các biện pháp
quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống của các trường THCS.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đề xuất được một số biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng
quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho các trường THCS huyện Tam
Dương, tỉnh Vĩnh Phúc.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, các phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận của việc quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh của các trường Trung học cơ sở.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng
vii
sống cho học sinh trường Trung học cơ sở ở huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh
Phúc trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh trường Trung học cơ sở ở huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc trong
giai đoạn hiện nay.
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH CỦA

CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ
1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu về hoạt động quản lý giáo
dục kỹ năng sống
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Người có tài mà không có
đức là người vô dụng; Người có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng
khó”. Đối với lứa tuổi học sinh trong giai đoạn hiện nay thì “tài” – tri thức,
kiến thức, kỹ năng học tập, kỹ năng làm việc và “đức” – đạo đức, nhân cách
làm người luôn là hai yếu tố song hành, gắn chặt với nhau tạo nên con người
hoàn thiện. Một nền giáo dục thành công cần chăm lo phát triển cả hai mặt tài
– đức cho học sinh.
Xã hội hiện đại có những thay đổi toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội
và lối sống với tốc độ nhanh đã làm nảy sinh những vấn đề mà trước đây con
người chưa gặp, chưa trải nghiệm, chưa phải ứng phó, đương đầu hoặc có
những vấn đề đã xuất hiện trước đây nhưng nó chưa phức tạp, khó khăn và
đầy thách thức như trong xã hội hiện đại nên con người dễ hành động theo
cảm tính và không tránh khỏi rủi ro. Nói cách khác, để đến bến bờ thành công
và hạnh phúc trong cuộc đời, con người sống trong xã hội trước đây ít gặp
những rủi ro và thách thức như con người sống trong xã hội hiện đại. Chính vì
vậy, con người trong xã hội hiện đại cần phải có kỹ năng sống để đáp ứng
những thách thức và thời cơ trong quá trình toàn cầu hóa mà mục đích chính
viii
là nâng cao chất lượng cuộc sống con người.
Người ta đã dùng hình ảnh cây cầu và dòng sông để diễn tả sự cần thiết
của kỹ năng sống đối với mỗi người. Con người sống trong xã hội hiện đại
muốn sang được bến bờ của thành công và hạnh phúc thì phải vượt qua con
sông chứa đầy những rủi ro, nguy cơ, thách thức như AIDS, mang thai ngoài
ý muốn, nghiện rượu, ma túy, bệnh lây nhiễm qua đường tình dục Khi đó
những kỹ năng sống như những nhịp cầu tạo thành cây cầu giúp cho con
người chuyển tải những điều đã biết, làm thay đổi được hành vi, nhờ đó mà
sang bờ bên kia của lối sống lành mạnh.

Tiến hành giáo dục kỹ năng sống là tiếp cận giáo dục quốc tế, đó là
giáo dục con người về môi sinh, giáo dục con người vì hòa bình nhân loại,
giáo dục con người vì cuộc sống chung, vì ngôi nhà chung là thế giới.
Chương trình giáo dục các giá trị sống được triển khai từ một dự án
quốc tế bắt đầu từ năm 1995 do trường Đại học Brahmakumarit thực hiện để
kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Liên hợp quốc(LHQ), nhằm kêu gọi sự chia
sẻ cho một thế giới tốt đẹp hơn, dự án này tập trung vào 12 giá trị sống mang
tính phổ quát, chủ đề được lấy trong lời mở đầu của hiến chương LHQ, khẳng
định lòng tin vào quyền cơ bản của con người, về phẩm chất, nhân cách giá trị
của mỗi người: sáng kiến giáo dục (LVEP: LivingValues-Edducation
Program) ra đời và được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới.
Vào những năm đầu của thế kỷ XXI, với sự hợp tác của các nhà giáo
dục trên thế giới, với sự hỗ trợ của UNESCO và tài trợ của Uỷ ban quốc tế và
UNICEF, Tây Ban Nha đã cho ra đời cuốn sách “Những giá trị sống: Một
chương trình giáo dục”. Chương trình này đưa ra những hoạt động giá trị khác
nhau dựa trên kinh nghiệm và những phương pháp thực hành đối với các giáo
viên và các huấn luyện viên, đối với những trẻ em và những thanh niên muốn
tìm hiểu và phát triển 12 giá trị xã hội và cá nhân cơ bản, đó là: Hợp tác, tự
do, hạnh phúc, trung thực, khiêm tốn, tình yêu, hoà bình, tôn trọng, trách
nhiệm, giản dị, khoan dung và đoàn kết.
ix
Bước vào thế kỷ XXI, khủng hoảng về giá trị đã diễn ra trên toàn cầu
và tại mỗi quốc gia. Tổ chức UNESCO đã có khuyến cáo về vấn đề này và
các quốc gia đều đã có những quan tâm nhất định. UNESCO đã nêu: “Đánh
giá chất lượng giáo dục phải bao hàm đánh giá mức độ đạt được các kỹ năng
sống và tác động của kỹ năng sống đối với xã hội và cá nhân”.
Trên thế giới nhiều ngành khoa học trong đó có Tâm lý học, Giáo dục
học đã chú ý nghiên cứu việc giáo dục giá trị sống cho thế hệ trẻ. Thực tiễn
giáo dục cuối thế kỷ XX – đầu thế kỷ XXI cho thấy chỉ thông qua con đường
giáo dục, giá trị mới có thể tạo nên cơ sở bền vững cho việc giải quyết khủng

hoảng trong phát triển nhân cách của học sinh.
Tại Diễn đàn Giáo dục Thế giới Dakar, tháng 5/2000 trường học thân
thiện với người học được phản ánh trong quan điểm toàn diện về chất lượng
được nêu trong Khuôn khổ Hành động Dakar. UNESCO và UNICEF đã nhận
thấy mô hình “trường học thân thiện” với các yếu tố của nó là một giải pháp
nâng cao chất lượng và đảm bảo công bằng giáo dục. Vì vậy mô hình này đã
được phổ biến, áp dụng ở 40 quốc gia trên thế giới. Trong mô hình trường học
thân thiện, tiêu chí giáo dục kỹ năng sống (KNS) vừa như là một biểu hiện
của chất lượng giáo dục, vừa để giúp HS sống an toàn. Kế hoạch hành động
Dakar về giáo dục cho mọi người mỗi quốc gia cũng nhấn mạnh; cần đảm bảo
cho người học được tiếp cận chương trình giáo dục KNS phù hợp và kỹ năng
sống của người học là một tiêu chí của chất lượng giáo dục. Cho nên, trong
mục tiêu 6 của chương trình đã coi kỹ năng sống là một khía cạnh của chất
lượng giáo dục. Đánh giá chất lượng giáo dục cần tính đến những tiêu chí
đánh giá kỹ năng sống của người học. Như vậy tiến hành giáo dục KNS để
nâng cao chất lượng giáo dục.
Ở Việt Nam Vấn đề giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho thế hệ trẻ
đã thu hút nhiều ngành khoa học quan tâm nghiên cứu, trong đó Khoa học
giáo dục có vai trò, trọng trách lớn cả về nghiên cứu lý luận lẫn triển khai
thực tiễn giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh, sinh viên phù hợp
x
với thực tiễn giáo dục nước nhà.
Theo bài “Kỹ năng sống” ngày 25/11/2009 báo Giáo dục và thời đại có
ghi: theo kết quả một cuộc điều tra đối tượng học sinh THCS: có trên 95%
các em chưa nhận thức đúng về kỹ năng sống, 77,7% chưa bao giờ được đào
tạo, tập huấn về kỹ năng sống, 76,4% cho biết rất cần tập huấn kiến thức kỹ
năng sống và hầu hết các em lúng túng khi trả lời hoặc chưa biết cách xử lý
các tình huống thường gặp trong đời sống.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề giáo dục đạo đức cho các em học sinh
đang thể hiện nhiều vấn đề gây nhức nhối trong dư luận xã hội. Sự thiếu hụt

trong nhận thức đạo đức của học sinh vừa là hậu quả, vừa thể hiện vấn đề lớn:
“Học sinh hiện nay không được trang bị đầy đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết
để ứng phó thích đáng với các biến cố đến từ các yếu tố ngoại cảnh cũng như
các biến động xuất phát từ chính tâm sinh lý của các em”. Tức là các em thiếu
kỹ năng sống.
Trong khoảng mười năm trở lại đây, các đề tài nghiên cứu, hội thảo,
báo chí lại dấy lên “phong trào” nghiên cứu giá trị sống. Khi đề cập giá trị
sống là muốn nói đến những giá trị thiết thực cho cuộc sống của từng cá nhân
con người đang sống, hoạt động, gắn liền với kỹ năng sống, giúp người ta
sống và làm việc hiệu quả hơn cho cá nhân và xã hội.
Với nhiều năm nghiên cứu, nhóm tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc, Đinh
Thị Kim Thoa, Trần Văn Tính, Vũ Phương Liên đã cho ra đời cuốn sách “
giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông”.
Cuốn sách được viết lồng ghép giữa giáo dục giá trị sống (GTS) và KNS,
trong đó giáo dục GTS luôn là nền tảng, KNS là công cụ và phương tiện để
tiếp nhận và thể hiện giá trị sống. Đây là những tiền đề đưa công tác giáo dục
giá trị sống, kỹ năng sống cho học sinh trung học phổ thông vào các nhà
trường mạnh mẽ, mang lại hiệu quả tích cực, góp phần nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
xi
hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Một trong những người có những nghiên cứu mang tính hệ thống về kỹ
năng sống và giáo dục KNS ở Việt Nam là tác giả Nguyễn Thanh Bình. Tác
giả và cộng sự đã triển khai nghiên cứu tổng quan về quá trình nhận thức về
kỹ năng sống và đề xuất yêu cầu tiếp cận kỹ năng sống trong giáo dục và giáo
dục KNS ở nhà trường phổ thông, đồng thời tìm hiểu thực trạng giáo dục
KNS cho người học từ trẻ mầm non đến người lớn thông qua giáo dục chính
quy và giáo dục thường xuyên ở Việt Nam. Trên cơ sở đó xác định thách thức
và định hướng trong tương lai để đẩy mạnh giáo dục KNS trên cơ sở thực tiễn

ở Việt Nam và đối chiếu với mục tiêu 3 và mục tiêu 6 của Chương trình hành
động Dakar (Trong khuôn khổ hợp tác giữa Viện chiến lược và chương trình
giáo dục với UNESCO tại Hà Nội).
Với nhiều năm nghiên cứu và bằng tâm huyết của người làm công tác
giáo dục, tác giả, PGS.TS Hà Nhật Thăng đã cho xuất bản cuốn sách: “Giáo
dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn” năm 1997 và đã tái bản nhiều lần.
Trong đó, trang bị cho học sinh, sinh viên nắm vững hệ thống giá trị cốt lõi,
đó là cơ sở cơ bản của nhân cách, rèn luyện để thế hệ trẻ có những hành vi
tương ứng với hệ thống giá trị đạo đức nhân văn cốt lõi, phù hợp với yêu cầu
của xã hội, của thời đại. Những kết quả nghiên cứu trên đã được ứng dụng
vào việc xây dựng chương trình và thể hiện trong sách giáo khoa ở tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông của môn Giáo dục công dân, triển khai
từ năm 2000 trên phạm vi cả nước.
Gần đây, Hội khoa học tâm lý giáo dục Hà Nội đã tổ chức Hội thảo
khoa học “Nghiên cứu giáo dục giá trị sống cho học sinh tiểu học Hà Nội
trong giai đoạn hiện nay”, chương trình mang mã số 01X – 12/03-2011-2, với
sự tham gia của nhiều nhà khoa học như: GS.VS Phạm Minh Hạc, PGS.TS
Đặng Quốc Bảo, PGS.TS Mạc Văn Trang, PGS.TS Hà Nhật Thăng Đây là
những tiền đề mang lại hiệu quả tích cực cho học sinh các trường trong việc
học tập, tìm hiểu giá trị sống, kỹ năng sống.
xii
Hiện nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu trong nước nghiên cứu đề tài
giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống, nhưng chủ yếu các đề tài phân tích làm
rõ thực trạng trước tính cấp bách của vấn đề giáo dục giá trị sống, hoặc kỹ
năng sống, chưa giải quyết nhiệm vụ nghiên cứu lý luận một cách hệ thống về
biện pháp quản lý, nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp giáo dục giá trị
sống, kỹ năng sống cho học sinh nói chung và học sinh ở trường trung học cơ
sở (THCS) cụ thể nói riêng. Một số đề tài đã nghiên cứu tương đối đầy đủ các
nhiệm vụ nghiên cứu lý luận, đánh giá thực trạng, và đề xuất giải pháp quản
lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống nhưng ít có đề tài nghiên cứu quản lý

hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong một nhà trường THCS cụ thể.
Chính vì vậy tác giả chọn đề tài: “Quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng
sống cho học sinh trường Trung học cơ sở ở huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh
Phúc trong giai đoạn hiện nay” với mong muốn đây là sự kế thừa cần thiết
các nghiên cứu đi trước, cùng góp phần thêm công sức và sự vận dụng hệ
thống lý luận quản lý giáo dục nhằm góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho học sinh cấp THCS trong trường THCS Vân Hội cũng như các
trường THCS khác trên địa bàn huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc hiện nay.
1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Quản lý và Quản lý giáo dục
1.2.1.1. Quản lý
Khái niệm “quản lý” được hình thành từ rất lâu và cùng với sự phát
triển của tri thức nhân loại cũng như nhu cầu của thực tiễn, nó được xây dựng
và phát triển ngày càng hoàn thiện hơn. Quản lý được hiểu bằng nhiều cách
khác nhau và được định nghĩa ở nhiều khía cạnh khác nhau trên cơ sở những
quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau:
- Cách tiếp cận theo thực tiễn: Trên cơ sở phân tích sự quản lý bằng
cách nghiên cứu kinh nghiệm thông thường qua các trường hợp cụ thể. Từ
việc nghiên cứu những trường hợp thành công hoặc thất bại, sai lầm ở các
trường hợp cá biệt của những người quản lý cũng như những dự định của họ
xiii
để giải quyết những vấn đề đặc trưng, để từ đó giúp họ hiểu được phải làm
như thế nào để quản lý có hiệu quả trong những hoàn cảnh tương tự.
- Cách tiếp cận theo lý thuyết hệ thống: Cách tiếp cận này cho phép xem
xét các hoạt động quản lý như một hệ thống hoàn chỉnh bao gồm những yếu tố
và mối liên hệ tương tác giữa các nhân tố để đạt được mục tiêu đã xác định.
- Cách tiếp cận theo thuyết hành vi: Dựa trên những ý tưởng cho rằng
quản lý là làm cho công việc hoàn thành thông qua con người. Do vậy việc
nghiên cứu nên tập trung vào mối quan hệ giữa người với người. Đây là
trường hợp phải tập trung vào khía cạnh con người trong quản lý, vào niềm

tin khi con người làm việc cùng nhau để hoàn thành các mục tiêu thì “con
người nên hiểu con người”. Với học thuyết này giúp con người quản lý ứng
xử một cách có hiệu quả hơn với những người dưới quyền.
Hiện nay có nhiều cách định nghĩa khác nhau về quản lý.
Tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc cho rằng:
Định nghĩa quản lý một cách kinh điển nhất là: tác động có định hướng,
có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người
bị quản lý) trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được
mục đích của tổ chức [11; 9].
Từ sự phân tích cách tiếp cận và quan niệm của các học giả đã nêu ta
có thể hiểu: Quản lý là tác động có định hướng có chủ định của chủ thể quản
lý đến khách thể quản lý nhằm đưa hệ thống đạt đến mục tiêu đã định và làm
cho nó vận hành tiến lên một trạng thái mới về chất. [11; 9]
Mỗi hệ quản lý bao gồm hai bộ phận gắn bó khăng khít với nhau:
Bộ phận quản lý (giữ vai trò chủ thể quản lý) có chức năng điều khiển
hệ quản lý, làm cho nó vận hành với mục tiêu đã đặt ra.
Bộ phận bị quản lý (đối tượng quản lý - giữ vai trò khách thể quản lý)
gồm những người thừa hành trực tiếp sản xuất và bản thân quá trình sản xuất.
Trong quản lý chủ thể quản lý và đối tượng quản lý lại có mối quan hệ
hữu cơ, tác động qua lại với nhau nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Khi
xiv
mục tiêu của tổ chức thay đổi sẽ tác động đến đối tượng quản lý thông qua
chủ thể quản lý.
Quản lý có 4 chức năng cơ bản:
- Chức năng lập kế hoạch hóa: Soạn thảo thông qua những quy định về
chủ trương quản lí quan trọng trên cơ sở những yêu cầu cơ bản kết hợp với
thực tiễn để đưa ra những phương hướng, kế hoạch cho phù hợp và có tính
khả thi cao.
- Chức năng tổ chức: Thực hiện các quyết định, chủ trương, bằng cách
xây dựng cấu trúc tổ chức của đối tượng quản lí, tạo dựng mạng lưới tổ chức,

tuyển chọn, sắp xếp, bồi dưỡng cán bộ làm cho mục tiêu trở nên có ý nghĩa,
tăng tính hiệu quả về mặt tổ chức.
- Chức năng chỉ đạo: Chỉ dẫn, vận động, điều chỉnh và phối hợp với các
lực lượng tích cực, chủ động theo sự phân công như kế hoạch đã định.
- Chức năng kiểm tra, đánh giá: Chức năng liên quan đến mọi cấp quản
lý để đánh giá kết quả hoạt động của hệ thống. Nó thực hiện việc xem xét tình
hình thực hiện công việc đối chiếu với yêu cầu để có đánh giá đúng đắn.
Các chức năng quản lý tạo thành một hệ thống thống nhất với một trình
tự nhất định, trong đó từng chức năng vừa có tính độc lập tương đối, vừa có
mối quan hệ phụ thuộc với chức năng khác. Quá trình ra quyết định quản lý là
quá trình thực hiện các chức năng quản lý theo một trình tự nhất định. Việc bỏ
qua hoặc coi nhẹ bất cứ một chức năng nào đều có tác động xấu đến quá trình
và hiệu quả của quản lý.
1.2.1.2. Quản lý giáo dục
Quản lý giáo dục là hoạt động có ý thức của con người nhằm theo đuổi
những mục đích của mình. Giống như khái niệm “quản lý” đã trình bày ở
trên, khái niệm “quản lý giáo dục ” cũng có nhiều quan niệm khác nhau.
Quản lí giáo dục theo nghĩa tổng quát là hoạt động điều hành, phối hợp
các lực lượng xã hội nhằm đào tạo thế hệ trẻ theo yêu cầu phát triển xã hội.
Ngày nay, với sứ mệnh phát triển giáo dục thường xuyên, công tác giáo dục
xv
không giới hạn ở thế hệ trẻ mà còn cho mọi người; tuy nhiên, trọng tâm vẫn là
giáo dục thế hệ trẻ, cho nên quản lý giáo dục được hiểu là sự điều hành hệ
thống giáo dục quốc dân, các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân.
Quản lí giáo dục cũng được hiểu là tác động có hệ thống, có kế hoạch,
có ý thức và hướng đích của chủ thể quản lý ở các cấp khác nhau nhằm mục
đích đảm bảo sự hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ trên cơ sở nhận thức và
vận dụng những quy luật chung của xã hội cũng như các quy luật của quản lý
giáo dục, sự phát triển tâm lý, thể lực của trẻ em.
Tác giả Nguyễn Ngọc Quang thì cho rằng: “quản lý giáo dục thực chất là

tác động đến nhà trường làm cho tổ chức tối ưu được quá trình dạy học, giáo
dục thể chất theo đường lối, nguyên lý giáo dục của Đảng, quán triệt được
những tính chất trường trung học phổ thông xã hội chủ nghĩa Việt nam, bằng
cách đó tiến tới mục tiêu dự kiến, tiến lên trạng thái chất lượng mới ” [26]
Như vậy, quản lý giáo dục có thể tổng hợp các biện pháp tổ chức, kế
hoạch hóa nhằm đảm bảo sự vận hành bình thường các cơ quan trong hệ
thống giáo dục. Hệ thống giáo dục là một hệ thống xã hội, quản lý giáo dục
cũng chịu sự chi phối của quy luật xã hội và tác động của quản lý xã hội.
Trong quản lý giáo dục các hoạt động quản lý hành chính nhà nước, quản lý
sự nghiệp, chuyên môn đan xen vào nhau, thâm nhập lẫn nhau không tách
biệt, tạo thành hoạt động quản lý thống nhất.
Tóm lại, quản lý giáo dục là quá trình vận dụng nguyên lý, khái niệm,
phương pháp chung nhất của khoa học quản lý vào lĩnh vực giáo dục. Quản lý
giáo dục là sự tác động có chủ đích của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý
trong lĩnh vực giáo dục nhằm đạt mục tiêu xác định.
1.2.2. Quản lý nhà trường.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Quản lý nhà trường là thực hiện đường
lối của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận
hành theo nguyên lý giáo dục để tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo
đối với ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và từng học sinh” [18]
xvi
Quản lý nhà trường khác hẳn với các quản lý xã hội khác. Quá trình
quản lý được quy định với bản chất lao động sư phạm của người giáo viên,
bản chất quá trình dạy học và giáo dục trong đó mọi thành viên trong nhà
trường vừa là chủ thể sáng tạo vừa là đối tượng quản lý. Và sản phẩm được
tạo ra của quá trình này là nhân cách học sinh (HS).
Có nhiều cấp quản lý trường học: cấp cao nhất là Bộ GD - ĐT, nơi
quản lý nhà trường bằng các biện pháp vĩ mô. Có hai cấp trung gian quản lý
trường học là Sở GD - ĐT ở tỉnh, thành phố và các Phòng Giáo dục ở các
quận, huyện. Cấp quản lý quan trọng trực tiếp của hoạt động giáo dục là cơ

quan quản lý trong các nhà trường.
Mục tiêu quản lý của nhà trường được cụ thể hóa trong nhiệm vụ
năm học, tập trung vào việc phát triển toàn diện nhân cách của HS. Để
thực hiện được mục tiêu này thì người hiệu trưởng phải tiến hành các hoạt
động quản lý.
Công tác quản lý trong nhà trường bao gồm quản lý các hoạt động
diễn ra trong nhà trường và sự tác động qua lại giữa nhà trường với các
hoạt động ngoài xã hội. Quản lý nhà trường như là quản lý một hệ thống
bao gồm các thành tố:
Thành tố tinh thần; mục đích giáo dục, nội dung giao dục, các kế
hoạch, biện pháp giáo dục.
Thành tố con người; cán bộ giáo viên, nhân viên và học sinh
Thành tố vật chất; Cơ sở vật chất, tài chính, các trang thiết bị, phương
tiện phục vụ giảng dạy và học tập.
Trọng tâm quản lý nhà trường phổ thông là quản lý các hoạt động giáo
dục diễn ra trong nhà trường và các quan hệ giữa nhà trường với xã hội trên
những nội dung sau đây;
- Quản lý hoạt động dạy học.
- Quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
- Quản lý hoạt động lao động và hướng nghiệp
xvii
- Quản lý hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
- Quản lý hoạt động học tập ngoài giờ lên lớp
- Quản lý hoạt động xã hội của nhà trường, hoạt động của đoàn thể
- Quản lý tài chính và quản lý sử dụng cơ sở vật chất.
Tóm lại, quản lý nhà trường là việc người hiệu trưởng xây dựng mục
tiêu, kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo thực hiện kiểm tra đánh giá các kết quả đạt
được so với yêu cầu chuẩn mực đề ra trong chương trình giáo dục và nhiệm
vụ năm học về chất lượng phát triển toàn diện nhân cách HS.
1.2.3. Giá trị sống, kỹ năng sống, giáo dục kỹ năng sống

1.2.3.1. Giá trị sống (hay giá trị cuộc sống)
Giá trị sống là những điều chúng ta cho là quý giá, là quan trọng, là có
ý nghĩa đối với cuộc sống của mỗi người. Giá trị sống trở thành động lực để
người ta nỗ lực phấn đấu để có được nó. GTS mang tính cá nhân, không phải
GTS của mọi người đều giống nhau. Có người cho rằng “ Tiền bạc là trên
hết”, có người cho rằng tình yêu thương mới là quý giá nhất trên đời. Có
người coi trọng lòng trung thực, lòng tự trọng hay sự bình yên…
Giá trị sống chủ yếu hướng vào những giá trị tinh thần không đề cập đến
giá trị tiền bạc, giàu sang, sức khoẻ ) và chủ yếu hướng vào các bình diện:
- Những giá trị phẩm chất nhân cách, đạo đức bản thân (khoan dung,
khiêm tốn, giản dị, trung thực, yêu thương, hạnh phúc)
- Những giá trị quan hệ liên nhân cách, quan hệ với nhóm, với cộng
đồng (tôn trọng, hợp tác, đoàn kết, trách nhiệm)
- Đồng thời cũng quan tâm đến một số giá trị chung (hoà bình, tự do )
Có thể hình dung các giá trị sống được cấu trúc thành ba vòng tròn: bên
trong cùng (vòng 1) là những giá trị phát triển phẩm chất cá nhân; vòng tròn
thứ hai là những giá trị phát triển quan hệ liên nhân cách; vòng tròn ngoài
cùng là những giá trị nhân loại rộng lớn. Tất nhiên hiểu một cách tương đối vì
tất cả các giá trị sống đều hoà trộn vào nhau, tương tác lẫn nhau, giao thoa,
chế ước lẫn nhau, tồn tại trong từng con người cụ thể với tư cách là chủ thể
xviii
biểu hiện các giá trị sống. Giá trị sống là “linh hồn” bên trong, kỹ năng sống
là biểu hiện giá trị sống ra hành vi bên ngoài. Cho nên giáo dục giá trị sống và
kỹ năng sống không thể tách rời nhau.[28]
Hình 1.1. Mô tả cấu trúc giá trị sống
Như vậy, có thể hiểu giá trị sống là một hình thái ý thức xã hội, là hệ
thống các quan niệm về cái thiện, cái ác trong mối quan hệ của con người với
con người. Giá trị sống về bản chất là những quy tắc, những chuẩn mực trong
quan hệ xã hội, được hình thành và phát triển trong cuộc sống, được cả xã hội
thừa nhận. Giá trị sống là quy tắc sống, nó có vị trí to lớn trong đời sống, và

định hướng cho cuộc sống của mỗi cá nhân, điều chỉnh hành vi cho phù hợp
với chuẩn mực của xã hội [25].
Giá trị sống có ý nghĩa và vai trò quan trọng tạo ra động lực thúc đẩy
con người phát triển: tạo ra động cơ cho hành động, hành vi; thúc đẩy ham
muốn hướng đến chân, thiện, mỹ; giải quyết tốt những mâu thuẫn của cá nhân
với cộng đồng, với tự nhiên
1.2.3.2. Kỹ năng sống
“Kỹ năng” là khả năng thao tác, thực hiện một hoạt động nào đó.
Kỹ năng sống (life skills) là cụm từ được sử dụng rộng rãi nhằm vào
mọi lứa tuổi trong mọi lĩnh vực hoạt động.
Kỹ năng sống là những kỹ năng cần có cho hành vi lành mạnh, tích cực
cho phép mỗi cá nhân đối mặt với những thức thách của cuộc sống hàng ngày.
Hiện nay có khá nhiều khái niệm về kỹ năng sống (KNS), tuỳ từng góc
nhìn khác nhau người ta có những khái niệm về KNS khác nhau, chẳng hạn:
xix
- Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO): KNS là những kỹ năng thiết
thực mà con người cần để có cuộc sống an toàn, khoẻ mạnh. Đó là những
kỹ năng mang tính tâm lí xã hội và kỹ năng giao tiếp được vận dụng trong
những tình huống hàng ngày để tương tác một cách có hiệu quả với người
khác và giải quyết có hiệu quả những vấn đề, những tình huống của cuộc
sống hàng ngày.
- Theo PGS. TS Nguyễn Thanh Bình – Viện NCSP – Trường ĐHSP Hà
Nội: kỹ năng sống là năng lực, khả năng tâm lý - xã hội của con người có thể
ứng phó với những thách thức trong cuộc sống, giải quyết các tình huống một
cách tích cực và giao tiếp có hiệu quả.
- Theo UNICEF, giáo dục dựa trên kỹ năng sống cơ bản là sự thay đổi
trong hành vi hay một sự phát triển hành vi nhằm tạo sự cân bằng giữa kiến
thức, thái độ, hành vi. Ngắn gọn nhất đó là khả năng chuyển đổi kiến thức
(phải làm gì) và thái độ (ta đang nghĩ gì, cảm xúc như thế nào, hay tin tưởng
vào giá trị nào) thành hành động (làm gì, và làm như thế nào).

- Theo Tổ chức Văn hoá, khoa học và giáo dục của Liên hiệp quốc
(UNESCO): KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và
tham gia vào cuộc sống hàng ngày – đó là những kỹ năng cơ bản như kỹ năng
đọc, viết, làm tính, giao tiếp ứng xử, giới thiệu bản thân, thuyết trình trước
đám đông, làm việc nhóm, khám phá những thay đổi của bản thân, tư duy
hiệu quả… Kỹ năng sống gắn với trụ cột của giáo dục đó l :à
* Học để biết(learn to know) gồm các kỹ năng tư duy như: Tư duy
phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định giải quyết vấn đề, nhận thức
được hậu quả…
* Học để làm(learn to do) gồm các kỹ năng thực hiện công việc và làm
nhiệm vụ như: Kỹ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm….
* Học để cùng chung sống(learn to live together) gồm các kỹ năng xã
hội như giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm,
thể hiện sự cảm thông.
xx
* Học làm người(learn to be) gồm các kỹ năng cá nhân như ứng phó
với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin….
Như vậy KNS chính là kỹ năng tự quản lý bản thân và kỹ năng xã hội
cần thiết để cá nhân tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói
một cách khác, KNS là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng
ứng xử phù hợp với những người khác, với xã hội, khả năng ứng phó tích cực
trước các tình huống của cuộc sống [25].
1.2.3.3. Giáo dục kỹ năng sống
Giáo dục kỹ năng sống là trang bị cho học sinh những KNS cơ bản,
giúp các em vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng được những cơ hội quý
giá trong cuộc sống, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống giúp học sinh có hiểu biết sâu sắc hơn về động
cơ và trách nhiệm có liên quan tới những sự lựa chọn của cá nhân và xã hội
một cách tích cực, trở nên mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn.
Học sinh biết kiềm chế, giải quyết vấn đề theo hướng tích cực, không

bị lôi kéo, vững vàng trước những áp lực tiêu cực của cuộc sống đương đại
Thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống, học sinh được rèn luyện
năng lực tư duy, chất lượng các môn học cũng như chất lượng giáo dục toàn
diện của nhà trường được nâng lên.
KNS không phải là năng lực cá nhân bất biến trong mọi thời đại, mà là
những năng lực thích nghi cho mỗi thời đại mà cá nhân đó sống. Bởi vậy,
KNS vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính dân tộc – quốc gia, vừa mang
tính xã hội – toàn cầu. Từ những khái niệm trên, KNS trong phạm vi lứa tuổi
học sinh THCS thường gắn liền với phạm trù kiến thức, kỹ năng và thái độ
mà học sinh được rèn luyện trong quá trình giáo dục. Tổng hợp kết quả giáo
dục từ bài học trên lớp và từ những hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
(NGLL), học sinh hình thành được một số kỹ năng sống phù hợp như: Kỹ
năng tự nhận thức, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ năng ra
quyết định, kỹ năng kiên định, kỹ năng đặt mục tiêu,… Những kỹ năng này
xxi
bao giờ cũng gắn với một nội dung giáo dục nhất định như: giáo dục bảo vệ
môi trường, giáo dục lòng nhân ái, giáo dục truyền thống tôn sư trọng đạo,
uống nước nhớ nguồn, giáo dục sống an toàn, khoẻ mạnh…
Có hai cách tiếp cận trong giáo dục kỹ năng sống:
- Các hoạt động tập trung vào kỹ năng cốt lõi như kỹ năng tự nhận
thức, kỹ năng giao tiếp ứng xử Theo cách này, bằng hoạt động với chủ đề
kỹ năng cụ thể, người học sẽ hiểu về kỹ năng sống đó và vận dụng để giải
quyết các tình huống
- Mỗi kỹ năng gắn với một vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và cần vận
dụng những kỹ năng khác nhau để giải quyết.
1.3. Hoạt động giáo dục kỹ năng sống trong giáo dục học sinh Trung
học cơ sở
1.3.1. Vai trò của giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh Trung học cơ sở
Chúng ta đều biết: cuộc sống luôn tạo ra những khó khăn để thử thách
con người vượt qua, những mất mát để con người biết yêu quý những gì đang

có. Vì vậy, mỗi con người cần có những kỹ năng nhất định để tồn tại và phát
triển. Là những nhà giáo dục, những người luôn đồng hành với quá trình phát
triển của HS, chúng ta càng thấy rõ sự cần thiết giáo dục KNS cho HS, đặc
biệt là học sinh THCS. Học sinh THCS đang ở tuổi dậy thì, tuổi nổi loạn:
bồng bột, hiếu kỳ, thích bắt chước, thích làm người lớn Những đặc điểm tâm
sinh lý của lứa tuổi học sinh THCS hành động chưa có suy nghĩ thận trọng,
chín chắn, chưa có kinh nghiệm sống vì vậy giáo dục kỹ năng sống cho các
em là rất quan trọng và vô cùng cần thiết.
Các kỹ năng sống trọng yếu là các kỹ năng cá nhân hay xã hội giúp học
sinh truyền đạt những điều họ biết (kiến thức), những gì họ suy nghĩ hay cảm
nhận (thái độ) và những gì họ tin (giá trị) trở thành khả năng thực tiễn về
những gì cần làm và làm như thế nào.
Học sinh phải đối mặt với rất nhiều thử thách. Bằng việc nâng cao nhận
thức và đưa các thành tố trọng yếu của KNS vào cuộc sống của các em, sẽ
xxii
giúp các em nâng cao năng lực để có được sự lựa chọn lành mạnh hơn, có
được sự kháng cự tốt hơn với những áp lực tiêu cực và kích thích những thay
đổi tích cực trong cuộc sống của các em. Chính vì vậy trước khi hình thành
KNS nào đó, các em cần cảm nhận rõ ràng về các giá trị sống KNS và sự lựa
chọn của mình đối với các giá trị, kỹ năng đó.
Có thể hiểu kỹ năng sống là biểu hiện những giá trị sống trong hoạt
động và giao tiếp hàng ngày và ngược lại với kỹ năng thể hiện giá trị bằng
hành động sẽ cho kết quả tích cực và nó lại củng cố các giá trị.
Kỹ năng sống giúp các em học tập, làm việc hiệu quả hơn; giao tiếp,
ứng xử với mọi người thân thiện, vui vẻ, hợp tác thành công hơn, biết tự điều
chỉnh bản thân làm việc tốt, tránh việc xấu, sống vị tha, nhân ái
Giá trị sống là cái định hướng, thúc đẩy cá nhân hành động, kỹ năng
sống giúp cá nhân hành động hiệu quả, tránh những sai lầm “kỹ thuật”, tạo ra
sự thống nhất, nhất quán giữa nhận thức và hành động, giữa động cơ và hành
vi, giữa nội dung và hình thức.

Giáo dục kỹ năng sống là trang bị cho học sinh những KNS cơ bản,
giúp các em vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng được những cơ hội quý
giá trong cuộc sống, sống có trách nhiệm với bản thân, gia đình, xã hội.
Giáo dục kỹ năng sống giúp học sinh có hiểu biết sâu sắc hơn về động
cơ và trách nhiệm có liên quan tới những sự lựa chọn của cá nhân và xã hội
một cách tích cực, trở nên mạnh dạn, cởi mở và tự tin hơn.
Học sinh biết kiềm chế, giải quyết vấn đề theo hướng tích cực, không
bị lôi kéo, vững vàng trước những áp lực tiêu cực của cuộc sống đương đại.
Thông qua hoạt động giáo dục kỹ năng sống, học sinh được rèn luyện
năng lực tư duy, chất lượng các môn học cũng như chất lượng giáo dục toàn
diện của nhà trường được nâng lên.
1.3.2. Ý nghĩa của giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh Trung học cơ sở
hiện nay
Giáo dục KNS là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây
xxiii
dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực
trên cơ sở giúp HS có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá trị cá nhân thích hợp
với thực tế xã hội.
Giáo dục KNS còn mang ý nghĩa tạo nền tảng tinh thần để học sinh đối
mặt với các vấn đề từ hoàn cảnh, môi trường sống cũng như phương pháp
hiệu quả để giải quyết các vấn đề đó. Bởi giáo dục KNS chính là định hướng
cho các em những con đường sống tích cực trong xã hội hiện đại trong ba mối
quan hệ cơ bản: con người với chính mình; con người với tự nhiên; con người
với các mối quan hệ xã hội. Nắm được KNS, các em sẽ biết chuyển dịch kiến
thức – “cái mình biết” và thái độ, giá trị - “cái mình nghĩ, cảm thấy, tin
tưởng”… thành những hành động cụ thể trong thực tế - “làm gì và làm cách
nào” là tích cực và mang tính chất xây dựng. Tất cả đều nhằm giúp các em
thích ứng được với sự phát triển nhanh như vũ bão của khoa học công nghệ
và vững vàng, tự tin bước tới tương lai. Cụ thể là:
- Trong quan hệ với chính mình: Giáo dục KNS giúp HS biết gieo

những kiến thức vào thực tế để gặt hái những hành động cụ thể và biến
hành động thành thói quen, rồi lại gieo những thói quen tích cực để tạo ra
số phận cho mình.
- Trong quan hệ với gia đình: Giáo dục KNS giúp HS biết kính trọng
ông bà, hiếu thảo với cha mẹ, quan tâm chăm sóc người thân khi ốm đau,
động viên, an ủi nhau khi gia quyến có chuyện chẳng lành…
- Trong quan hệ với xã hội: Giáo dục KNS giúp HS biết cách ứng xử
thân thiện với môi trường tự nhiên, với cộng đồng như: có ý thức giữ gìn
trật tự an toàn giao thông; giữ vệ sinh đường làng, ngõ phố; bảo vệ môi
trường thiên nhiên… Từ đó, góp phần làm cho môi trường sống trong
sạch, lành mạnh, bớt đi những tệ nạn xã hội, những bệnh tật do sự thiếu
hiểu biết của chính con người gây nên; góp phần thúc đẩy những hành vi
mang tính xã hội tích cực để hài hoà mối quan hệ giữa nhu cầu – quyền lợi
– nghĩa vụ trong cộng đồng.
xxiv
Do những ý nghĩa đặc biệt nêu trên, việc giáo dục hình thành nhân cách
cho HS nói chung và đối với giáo dục KNS nói riêng ngày càng trở nên quan
trọng và cấp thiết hơn.
1.3.3. Mục tiêu, nội dung của quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống
trong giáo dục học sinh THCS
1.3.3.1. Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho học sinh THCS
Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THCS là
quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường kể cả hoạt động dạy học
nhằm thay đổi nhận thức và hành vi của học sinh từ thói quen thụ động,
có thể gây rủi ro, mang lại hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang
tính xây dựng, tích cực, có hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục và
chất lượng cuộc sống.
Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THCS là hướng
tới quản lý các hoạt động dạy học và hoạt động giáo dục giúp học sinh hình
thành các khả năng tâm lý xã hội, để học sinh nâng cao hiểu biết về các giá trị

truyền thống của dân tộc, biết tiếp thu những giá trị tinh hoa văn hóa của nhân
loại, củng cố mở rộng kiến thức đã học với đời sống thực tiễn, củng cố các kỹ
năng, hình thành và phát triển các năng lực chủ yếu. (Năng lực tự hoàn thiện,
năng lực thích ứng, năng lực giao tiếp ứng xử, năng lực tổ chức, quản lý, hợp
tác và cạnh tranh, năng lực hoạt động chính trị xã hội ), giải quyết tốt các vấn
đề của cuộc sống, biết chịu trách nhiệm về hành vi của bản thân. Nói cách
khác: Mục tiêu cơ bản của giáo dục KNS là làm thay đổi hành vi của HS,
chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả tiêu cực thành
những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất
lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững.
1.3.3.2. Nội dung quản lý hoạt động giáo dục KNS trong trường THCS
Hoạt động giáo dục KNS cho học sinh THCS là một công việc quan
trọng và rất khó khăn. Để quản lý tốt hoạt động giáo dục KNS trong nhà
trường cần chú ý những nội dung sau:
xxv

×