Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Tự do hóa tài chính và lợi nhuận của ngân hàng phân tích dữ liệu bảng đối với ngân hàng việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (919.7 KB, 47 trang )

1













Mã số: …………….

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ LỢI NHUẬN
NGÂN HÀNG: PHÂN TÍCH DỮ LIỆU BẢNG
ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG VIỆT NAM
2

Tóm tắt
Bài nghiên cứu tập trung xem xét mối tương quan giữa sự tự do hóa tài chính đến
lợi nhuận ngân hàng ở Việt Nam. Đối với trường hợp Việt Nam, biến chỉ số tự do hóa tài
chính là biến giả được xác định thông qua các sự kiện, cải cách về hội nhập và dỡ bỏ dần
kiểm soát đối với hệ thống ngân hàng trong giai đoạn từ 2006 đến 2012. Bằng cách thu
thập dữ liệu bảng từ báo cáo tài chính của 25 ngân hàng ở Việt Nam, tiến hành ước lượng
mô hình hồi quy tuyến tính pooled, mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên (REM) và mô
hình hồi quy tác động cố định (FEM); sau đó tiến hành kiểm định Hausman để chọn mô
hình phù hợp. Kết quả kiểm định cho thấy mô hình REM phù hợp để ước lượng tác động
của tự do hóa tài chính lên lợi nhuận ngân hàng Việt Nam. Bài nghiên cứu đã cho thấy tự


do hóa tài chính làm giảm lợi nhuận ngân hàng. Đồng thời nghiên cứu tác động của tự do
hóa tài chính đến các nhóm ngân hàng có thị phần lớn và nhỏ khác nhau như thế nào. Kết
quả hồi quy cho thấy nhóm ngân hàng có thị phần lớn chịu tác động của tự do hóa tài
chính mạnh hơn nhóm ngân hàng có thị phần nhỏ. Ngoài ra, bài nghiên cứu còn cho thấy
mối tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa rủi ro và lợi nhuận ngân hàng, mối
tương quan dương và có ý nghĩa thống kê giữa tốc độ tăng trưởng GDP/người và lợi
nhuận ngân hàng, cuối cùng là tương quan âm và có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ lạm phát
và lợi nhuận ngân hàng.
Qua đó giúp chúng ta có cái nhìn rõ ràng hơn về tác động của tự do hóa tài chính
đến hoạt động ngân hàng, giúp cho các nhà hoạch định chính sách và các nhà quản trị
ngân hàng có thể đưa ra các chính sách điều hành và quản lý thích hợp để cải thiện hoạt
động ngân hàng, thích nghi trong môi trường cạnh tranh gay gắt do tự do hóa tài chính.
Bài nghiên cứu vẫn còn gặp phải một số khó khăn và thiếu sót việc tìm kiếm số liệu phù
hợp ở Việt Nam, với số lượng mẫu không quá lớn và còn hạn chế trong phạm vi nghiên
cứu nên bài nghiên cứu mới chỉ đưa ra nhận định về tác động của tự do hóa tài chính lên
lợi nhuận ngân hàng. Hướng phát triển của đề tài này đó là tiếp tục mở rộng hướng
nghiên cứu ra các khía cạnh khác của hoạt động ngân hàng chịu tác động bởi tự do hóa
tài chính như thế nào, từ đó tiến đến việc xây dựng quy trình tự do hóa tài chính bền vững
đối với nền kinh tế nói chung và lĩnh vực ngân hàng nói riêng.
3

MỤC LỤC
1. Giới thiệu 5
1.1. Lý do chọn đề tài 5
1.2. Mục tiêu nghiên cứu 5
1.3. Kết cấu 6
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây 7
2.1. Sơ lược về tự do hóa tài chính 7
2.2. Tác động của tự do hóa tài chính 7
2.2.1. Tác động tích cực của tự do hóa tài chính 7

2.2.2. Tác động tiêu cực của tự do hóa tài chính 8
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm 14
2.3.1. Trường phái áp chế tài chính 16
2.3.2. Trường phái thuyết cấu trúc 17
2.4. Tự do hóa tài chính và Lợi nhuận ngân hàng 17
2.4.1. Khung lý thuyết 18
2.4.2. Nghiên cứu thực nghiệm trước đây 19
2.5. Thực trạng quá trình tự do hóa tài chính và ảnh hưởng của nó đến lợi nhuận của các ngân
hàng ở Việt Nam 20
2.5.1. Thực trạng quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam 20
2.5.2. Lợi nhuận và tình hình phát triển của các ngân hàng Việt Nam 22
3. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu 30
3.1. Phương pháp nghiên cứu 30
3.1.1. Tác động của Tự do hóa tài chính đến lợi nhuận ngân hàng 30
4. Kết quả thực nghiệm 36
4.1. Kết quả ước lượng và các kiểm định 36
4.2. Phân tích kết quả 38
4.3. Tự do hóa tài chính tác động đến lợi nhuân ngân hàng có thị phần khác nhau 40
4

5. Kết luận 42
Phụ lục 43
Tài liệu Tham khảo 46
5

TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH VÀ LỢI NHUẬN NGÂN HÀNG:
PHÂN TÍCH DỮ LIỆU BẢNG ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG VIỆT NAM
1. Giới thiệu
1.1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa tài chính là xu

thế tất yếu và được coi là đã mang lại nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia, nhất là các nước
đang phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực thì tự do hóa tài chính cũng
tồn tại những tác động tiêu cực, gây ra những hậu quả lớn đến nền kinh tế của các quốc
gia. Chúng ta có thể thấy tự do hóa tài chính liên quan đến rất nhiều lĩnh vực hoạt động
trong nền kinh tế như đầu tư, kĩ thuật công nghệ, bất động sản, ngân hàng, sản xuất kinh
doanh, xuất nhập khẩu,… Tuy nhiên với phạm vi khá rộng như vậy và tầm hiểu biết
nghiên cứu hạn hẹp, chúng tôi muốn tập trung với một mảng khá quan trọng chịu ảnh
hưởng của tự do hóa tài chính - đó là lĩnh vực ngân hàng. Hệ thống ngân hàng là một
phần rất quan trọng của nền kinh tế, chịu tác động trực tiếp của tự do hóa tài chính;
những biến động trong hoạt động ngân hàng cũng cho thấy sức khỏe nền kinh tế đang
trong tình trạng như thế nào. Vậy khi Việt Nam đang trong quá trình hội nhập tài chính
quốc tế, thì tự do hóa tài chính sẽ tác động đến hoạt động ngân hàng tốt hơn hay xấu hơn;
trong tình huống đó thì Việt Nam nên có biện pháp gì để thích nghi với xu thế hội nhập.
Vì lí do đó, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu “Tự do hóa tài chính và lợi nhuận
ngân hàng – Phân tích dữ liệu bảng đối với ngân hàng Việt Nam”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
Dựa trên hệ thống lý thuyết về tự do hóa tài chính, đặc biệt là lý thuyết của trường
phái tân cổ điển và những nghiên cứu thực tế về tác động của tự do hóa tài chính đối với
lợi nhuận ngân hàng; bài nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu bản chất và vai trò của tự do
hóa tài chính để thấy được tác động của tự do hóa tài chính đến lợi nhuận ngân hàng Việt
Nam, đồng thời đánh giá thực trạng đổi mới và nêu lên một số nhận xét gợi mở cho các
ngân hàng Việt Nam. Bài nghiên cứu xoay quanh các mục tiêu nghiên cứu sau:
6

 Tự do hóa tài chính có tác động đến lợi nhuận ngân hàng hay không? Nếu có thì
làm tăng hay giảm lợi nhuận ngân hàng?
 Đối với hai nhóm ngân hàng có thị phần lớn và thị phần nhỏ thì tự do hóa tài chính
tác động đến nhóm nào mạnh hơn?
1.3. Kết cấu
Nội dung bài nghiên cứu của nhóm bao gồm 5 phần sau:

Phần 1: Giới thiệu. Trong phần này nhóm sẽ trình bày một cách tổng quan về bài
nghiên cứu thông qua các mục: lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu và kết cấu bài
nghiên cứu.
Phần 2: Tổng quan nghiên cứu. Trong phần này, nhóm tập trung trình bày cơ sở lý
thuyết cũng như thực nghiệm về tự do hóa tài chính, tác động của tự do hóa tài chính lên
lợi nhuận ngân hàng. Ngoài ra, nhóm cũng trình bày về quan điểm, kết quả nghiên cứu
của các tác giả trong trường phái áp chế tài chính và trường phái thuyết cấu trúc. Từ đó,
đưa ra bằng chứng về tác động có tính tương quan âm của tự do hóa tài chính lên lợi
nhuận ngân hàng Việt Nam.
Phần 3: Phương pháp nghiên cứu. Dựa theo phương pháp luận từ bài nghiên cứu của
tác giả Hakimi Abdelaziz- Djelassi Mouldi- Hamdi Helmi (2011) về tác động của tự do
hóa tài chính đến lợi nhuận của ngân hàng ở Tunisia. Chúng tôi lấy mẫu số liệu từ báo
cáo tài chính của 25 ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2012 thông qua phương
pháp phân tích dữ liệu bảng bằng cách ước lượng mô hình Pooled, sử dụng mô hình hồi
quy tuyến tính tác động ngẫu nhiên (Random effects model) và mô hình hồi quy tuyến
tính tác động cố định (Fixed effects model) để đo lường tác động của tự do hóa tài chính
đến lợi nhuận ngân hàng Việt Nam. Sau đó, chúng tôi sử dụng kiểm định Hausman để
đưa ra mô hình dự báo phù hợp.
Phần 4: Kết quả nghiên cứu. Trong phần này nhóm sẽ trình bày kết quả phân tích mô
hình dữ liệu bảng đối với ngân hàng ở Việt Nam và cho thấy rằng tác động của tự do hóa
tài chính lên ngân hàng Việt Nam có mối tương quan âm và các ngân hàng có thị phần
lớn sẽ bị giảm lợi nhuận nhiều hơn các ngân hàng có thị phần nhỏ trong điều kiện có tự
do hóa tài chính.
7

Phần 5: Kết luận. Phần này sẽ tổng kết lại vấn đề được đưa ra và trình bày tóm lược
kết quả đạt được.
2. Tổng quan các nghiên cứu trước đây
2.1. Sơ lược về tự do hóa tài chính
Theo IMF tự do hóa tài chính là quá trình giảm thiểu và cuối cùng là hủy bỏ sự

kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động của hệ thống tài chính quốc gia, làm cho hệ
thống này hoạt động tự do hơn và hiệu quả hơn theo quy luật thị trường.
Nội dung của tự do hóa tài chính bao gồm: tự do hóa lãi suất, tự do hóa tỷ giá, tự
do hóa giao dịch vốn, tự do hóa hoạt động của tổ chức tín dụng và các định chế tài chính
khác trên thị trường tài chính.
2.2. Tác động của tự do hóa tài chính
Phần lớn các nghiên cứu lý thuyết về chủ đề tự do hóa tài chính công bố những tác
động tiêu cực của hiện tượng này nhiều hơn các tác động tích cực. Nhưng chúng ta không
nên đơn giản chỉ nghiên cứu những tác động của tự do hóa tài chính, mà tốt hơn nên
nghiên cứu đến những sắc thái của chúng. Có thể nói tự do hóa tài chính là "thủ phạm"
trên một số lĩnh vực nhưng cũng không nên bỏ quên những lợi ích của nó trên các mặt
khác, như đối với tiết kiệm và đầu tư.
2.2.1. Tác động tích cực của tự do hóa tài chính
Theo Venet (1994), tự do hóa tài chính có lợi đối với tiết kiệm và đầu tư. Với tự
do hóa lãi suất, dẫn đến sự gia tăng tiết kiệm tài chính, để mong đợi một lợi tức lớn từ
tiền gửi. Sự gia tăng này là động lực để kích thích đầu tư.
 Ảnh hưởng đến tiết kiệm và đầu tư
Theo Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973), tự do hóa tài chính đảm bảo tốt hơn cho
việc huy động vốn. Đặc biệt, giúp cho hoạt động tiết kiệm và đầu tư tương xứng hơn, và
thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế. Trong một nghiên cứu liên quan đến bảy nước
châu Á, Fry (1978) đã dẫn ra rằng lãi suất tín dụng thực ảnh hưởng tích cực đến tiết kiệm
quốc gia. Diery và Yasim (1993) kết luận rằng lãi suất tín dụng thực hoạt động tích cực
trong thực thi tiết kiệm ở chín quốc gia châu Phi. Cũng như thế, Bandiera và Alii (2000),
8

phân tích tác động tự do hóa tài chính về việc huy động tiết kiệm, họ thấy rằng tự do hóa
tài chính có tác động tích cực một cách trực tiếp và có ý nghĩa đối với tiết kiệm. Khi tự
do hóa lãi suất tín dụng và tin tưởng vào khoản lợi tức lớn, người gửi tiền sẽ sử dụng để
tiết kiệm vốn. Kết quả là một sự tích lũy vốn làm cho ngân hàng có thể giữ được một
cường độ tài chính vững mạnh.

Một khi tiết kiệm được ưa chuộng (tiết kiệm tài chính), các ngân hàng có thể đáp
ứng tất cả các nhu cầu cho các khách hàng trong giới hạn tài chính. Đầu tư cũng sẽ được
ưa chuộng như vậy, và mỗi nhà đầu tư tìm thấy tài chính tối ưu của dự án của mình. Nếu
tiết kiệm và đầu tư là những mặt có lợi của tự do hóa tài chính, thì theo Mc Kinnon
(1973) và Shaw (1973) nó kiềm hãm điều gì đối với sự tăng trưởng kinh tế? Theo hai tác
giả này, các chính sách tự do hóa tài chính là những việc liên quan đến sự gia tăng tiết
kiệm, kích thích đầu tư và dẫn đến tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế. Mặt khác, trong thời
kì khác, bởi tính phù hợp và thận trọng, các ngân hàng liệu sẽ tài trợ cho các khoản đầu
tư của các công ty hay không? Và ngoài ra, làm thế nào công ty phản ứng với các tín
dụng ban đầu nhận được? Và làm thế nào nó duy trì các yếu tố quyết định của một mối
quan hệ ngân hàng tương lai tốt đẹp? Mối quan hệ tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh
tế là một mối quan hệ trong dài hạn. Một khi một trong những thành phần đó không được
chú trọng, mối quan hệ này sẽ không bao giờ được kiểm soát.
2.2.2. Tác động tiêu cực của tự do hóa tài chính
 Nổi lên những hành vi ngân hàng mới
Những thay đổi của môi trường ngân hàng bởi chính sách tự do hóa tài chính là nguồn
gốc của sự ra đời của hành vi ngân hàng mới. Cụ thể là chấp nhận rủi ro và các hành vi
đầu cơ.
9

 Chấp nhận rủi ro quá mức
Một số nghiên cứu gần đây đã tìm cách nghiên cứu tại sao một số ngân hàng vẫn
tiếp tục thất bại trong khi những ngân hàng khác chứng minh được sự vững mạnh sau quá
trình tự do hóa tài chính. Kết quả của những phân tích đã dẫn đến cùng một kết luận để
các ngân hàng đang thất bại chịu nhiều rủi ro biện minh cho mức lợi nhuận cao hơn được
ghi nhận trước những thất bại khủng hoảng ngân hàng (Miotti và Plihon, 2001).
Bây giờ chúng ta hãy cố gắng làm rõ các khái niệm về chấp nhận rủi ro cũng như
những yếu tố giải thích. Việc chấp nhận rủi ro phù hợp với hướng lựa chọn và tài trợ của
các dự án rủi ro mà đòi hỏi năng suất cao. Giải trình của chấp nhận rủi ro là như sau, bởi
sự tự do hóa trong hoạt động của ngân hàng làm tăng cơ hội của chấp nhận rủi ro. Lo

ngại xem lợi nhuận của họ có bị giảm thấp và hỗ trợ thiệt hại có thể, sau sự gia tăng cạnh
tranh, các ngân hàng khuyến khích tài trợ cho khách hàng xấu. Hành vi này sẽ được hỗ
trợ bởi cơ chế công khai bảo vệ (PDR). Chấp nhận rủi ro vượt mức, có thể liên quan đến
một sự dễ sụp đổ ngân hàng, thường theo sau là khủng hoảng ngân hàng.
Ngoài ra, chấp nhận rủi ro chịu tác động bổ trợ bởi tự do hóa tài chính và có khả
năng liên quan đến các cuộc khủng hoảng ngân hàng, các ngân hàng phát triển hành vi
đầu cơ.
 Các hành vi đầu cơ
Các khái niệm đầu cơ được hiểu là dự trữ một lượng hàng hóa (mua hoặc bán) với
ý định bán lại vào một ngày sau đó chứ không có ý định sử dụng. Ở cấp độ này, các ngân
hàng chịu sự cạnh tranh tài chính trực tiếp. Sự tiếp cận của khách hàng vay để tài trợ trực
tiếp làm giảm lợi nhuận của các hoạt động ngân hàng truyền thống. Phải đối mặt với việc
giảm khả năng hoạt động và thu nhập, các ngân hàng được khuyến khích phản ứng bằng
cách nâng cao mức độ trung bình của nguy cơ hoạt động của họ bằng cách phát triển các
hoạt động có tính chất đầu cơ.
Sự xuất hiện của hành vi ngân hàng mới, cụ thể là chấp nhận rủi ro và các hành vi
đầu cơ tăng lên cùng với vấn đề rủi ro đạo đức gây ra bởi các chính sách tự do hóa tài
chính.
10

 Rủi ro ngân hàng và rủi ro tài chính
Chương trình tự do hóa tài chính rộng lớn được thực hiện trong khuôn khổ của các
nước mới phát triển; theo sau là tiến trình của những rủi ro ngân hàng và rủi ro tài chính.
Trong phần này, chúng tôi sẽ đưa ra các kênh truyền dẫn giữa tự do hóa tài chính và các
ngân hàng chính yếu và rủi ro tài chính với những hiểu biết về rủi ro tín dụng, rủi ro
thanh khoản, tỷ giá và rủi ro lãi suất.
Việc nới lỏng hoạt động ngân hàng thông qua việc dỡ bỏ khung tín dụng đã đưa ra
một hành động tuyệt vời như liên quan đến ấn định lãi suất và phân phối tín dụng. Thật
vậy, các ngân hàng đã tìm cách có lợi hơn - những gì làm dư thừa phân phối tín dụng mặc
dù chất lượng của những tín dụng đó "tốt hay xấu". Tín dụng "xấu" được phân phối mà

thực tế khách hàng vay không đủ năng lực thực hiện đúng cam kết sẽ dẫn đến rủi ro tín
dụng.
Về vấn đề rủi ro thanh khoản, cải cách tự do hóa lãi suất tiền gửi được thực hiện,
một mặt liên quan đến sự gia tăng thanh khoản ngân hàng mà vẫn còn ít hơn đáng kể số
lượng tín dụng phân phối; và mặt khác, phụ thuộc vào quyết định của người gửi tiền mà
có thể rút vốn của họ một cách bất ngờ và ồ ạt.
Theo sau chính sách tự do hóa tài chính, kết quả là sự gia tăng rủi ro lãi suất. Các
giải thích như sau: việc nới lỏng những hạn chế liên quan đến sự chu chuyển vốn trong
khuôn khổ của chương trình tự do hóa tài chính, đã làm các định chế tài và phi tài chính
nhạy cảm hơn với rủi ro lãi suất. Thật vậy, một người cho vay với tỷ lệ biến đổi, chịu rủi
ro để xem thu nhập có giảm nếu tỉ suất giảm xuống. Ngoài ra, nếu lãi suất được cố định,
trong trường hợp gia tăng của tỷ suất, người cho vay này phải chịu một chi phí cơ hội để
xem thu nhập của mình giảm. Ngược lại, một người đi vay với các tỷ suất thay đổi chấp
nhận rủi ro cho thấy chi phí tài chính tăng nếu lãi suất tăng. Nếu tỷ lệ này là cố định,
người đi vay này chịu rủi ro nếu tỷ suất giảm. Ở cấp độ này, việc định nghĩa điểm lãi suất
là cần thiết. Điểm lãi suất đo lường xu hướng của công ty về rủi ro lãi suất, nó tập hợp tất
cả các cam kết và các tài sản của công ty, hiện tại, tương lai hay có điều kiện, với tỷ suất
cố định và biến động.
11

Liên kết với các ảnh hưởng trực tiếp của tự do hóa tài chính lên rủi ro tỷ giá,
Kaminsky và Reinhart (1999), thấy rằng 56% các cuộc khủng hoảng ngân hàng - thì
chính sách tự do hóa tài chính là nguyên nhân trung tâm, được theo sau bởi các cuộc
khủng hoảng ngoại tệ. Các rủi ro tỷ giá trong khuôn khổ của chính sách tự do hóa tài
chính có thể được tóm tắt chỉ đơn giản như sau: Việc mở cửa tài chính dẫn đến sự xâm
nhập ồ ạt của các nguồn vốn cũng như như mức nợ rất cao đại diện cho các nước nghèo
nhất thành những nước giàu nhất. Rủi ro tỷ giá là kết quả khi đồng tiền nội tệ (nước vay)
sụt giá so với ngoại tệ (nước cho vay). Hoặc một sự nâng giá đồng ngoại tệ so với đồng
nội tệ. Xem xét sự phụ thuộc tài chính của các nước nghèo liên quan đến tính thanh
khoản đối với các nước với dư thừa thanh khoản (nợ lớn, vị trí từ nước ngoài), các nước

vay sẽ chịu sự khác biệt giữa hai tỷ giá hối đoái.
 Tính mỏng ngân hàng
Các chính sách tự do hóa tài chính đã được thông qua bởi một số quốc gia mới
phát triển để hiện đại hóa và thúc đẩy hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng
nói riêng. Theo mong đợi của các nước đang phát triển và phát triển, sự tự do hóa này sẽ
hỗ trợ tăng trưởng và phát triển kinh tế như các khuyến nghị của các tác giả của trường
phái áp chế tài chính.
Quan sát các sự kiện cho thấy rằng tự do hóa tài chính chỉ có lợi trên tiết kiệm và
đầu tư, sau khi tự do hóa lãi suất tín dụng và tự do hóa tài khoản vốn. Kết quả là có sự gia
tăng tính thanh khoản, điều mà sẽ kích thích đầu tư. Tác động tích cực này là chỉ một thời
gian ngắn và không chắc chắn, những lời giải thích như sau: một sự tác động tích cực
không chắc chắn do thực tế là các nhà đầu tư có thể liên tục và bất ngờ rút vốn bằng cách
tìm kiếm nơi trú ẩn khác tạo ra một sản lượng cao hơn. Tác động tích cực trong ngắn hạn
từ các ngân hàng ngày càng trở nên mang tính đầu cơ trong trường hợp không có kiểm
soát và đủ khả năng giám sát.
Các ngân hàng bắt đầu chấp nhận rủi ro vượt mức của các dự án tài trợ có chất
lượng kém nhưng lại yêu cầu năng suất cao. Điều này sẽ được phản ánh một cách tiêu
cực; một mặt đến chất lượng đầu tư của các công ty trên, và mặt khác đến khả năng thanh
toán của các ngân hàng cuối cùng. Từ đâu mà sự suy giảm của tình hình tài chính của các
12

tổ chức đó là trên mức này là điều mà một số tác giả tập trung trong nghiên cứu của họ.
Ví dụ như Demirguç Kunt và Detragiache (1998), Klaus và Chenard (1997), Hermosillo
và Pazarbasioglu (1997); các tác giả nhấn mạnh đến tác hại của tự do hóa tài chính trong
tính mỏng của ngân hàng.
 Khủng hoảng ngân hàng
Một số nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm cho thấy vai trò trung tâm của tự do
hóa tài chính trong sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Các tài liệu về các
cuộc khủng hoảng ngân hàng phát triển từ nửa sau những năm 1990, sau sự lan truyền
phá sản ngân hàng và khó khăn tài chính trên thế giới. Những thử nghiệm thành công của

tự do hóa tài chính là rất hiếm và trong trường hợp chung, tự do hoá ngân hàng gây ra
khủng hoảng tài chính và khủng hoảng ngân hàng đi kèm với sự tụt dốc dữ dội của sự
tăng trưởng và sự thu hẹp của GDP. Theo Sandretto (1994) “các cuộc khủng hoảng tài
chính không phải là một hiện tượng mới, vì trong hai mươi năm qua, 125 quốc gia đã
phải đối mặt với vấn đề này, mà có một nửa số cuộc khủng hoảng ảnh hưởng đến các
quốc gia trong quá trình phát triển.”
Theo hướng này, một số nước phát triển và đang phát triển chịu ảnh hưởng của
khủng hoảng ngân hàng sau khi tự do hóa hệ thống tài chính của họ. Các nước phía nam
là châu Á (Thái Lan và Hàn Quốc) và Châu Mỹ La Tinh (Chilie và Argentina) chịu mạnh
mẽ hơn cả. Hãy cùng lấy một ví dụ về các quốc gia châu Á và chính xác hơn là Thái Lan,
là nước đầu tiên chịu tác động mạnh bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng. Trên thực tế,
hậu quả của việc tự do hóa tài chính thông báo đến một bất cập giữa hệ thống ngân hàng
và các phương pháp mở cửa, do thực tế rằng điều này cuối cùng đã không được trang bị
tốt để thích ứng với những thay đổi sâu sắc và triệt để. Sự cạnh tranh giữa các định chế
tài chính dẫn đến việc bãi bỏ vị trí thống lĩnh của các ngân hàng.
Theo chính sách tự do hóa tài chính, các nhà điều hành kinh tế tìm thấy một
phương cách tuyệt vời, các ngân hàng có thể tự do phân bổ nguồn vốn. Các ngân hàng áp
dụng hành vi đầu cơ, cơ hội mới và chấp nhận rủi ro vượt mức do thực tế là các dự án rủi
ro đòi hỏi năng suất cao. Những sửa đổi căn bản là nguồn gốc của căng thẳng bất đối
xứng thông tin, điều mà làm khó vai trò của các giám sát viên. Sự không hoàn hảo của
13

thông tin này kết hợp với giám sát yếu kém sẽ góp phần thêm vào chấp nhận rủi ro vượt
mức.
Thật vậy, lời giải thích chung nhất của việc chấp nhận rủi ro vượt mức dựa vào
một phần lớn trách nhiệm của tự do hóa tài chính. Tất cả những thất bại và nguy cơ suy
yếu của ngân hàng kết hợp với một bối cảnh kinh tế vĩ mô không thuận lợi về thể chế là
nguồn gốc của một cuộc khủng hoảng ngân hàng trong 1983. Trong trường hợp của Hàn
Quốc, cuộc khủng hoảng tài chính đã thực sự bắt đầu khi vào năm 1997 chính phủ quyết
định không hỗ trợ Chaebol trong khó khăn về tài chính. Chaebol là một tập đoàn công

nghiệp phần lớn thuộc xuất khẩu. Để tài trợ cho các khoản đầu tư của họ, họ trông cậy
vào tài trợ bởi số nợ đối với các ngân hàng trong nước và hệ thống tài chính. Do đó, các
ngân hàng sẽ phụ thuộc vào sự vững mạnh của Chaebol vì một khoản tín dụng đáng kể
của họ tại Chaebol. Trong những năm đó trước cuộc khủng hoảng, Chaebol đã cố gắng để
tăng thị phần của mình, với ý định này, họ có khu nghỉ dưỡng mang khoản nợ từ các thị
trường quốc tế. Vì năng lực dư thừa của thặng dư sản xuất, Chaebol đã gặp khó khăn tài
chính, được đánh dấu bởi sự sụt giảm lợi nhuận của họ và mất cân bằng giữa các khoản
nợ và tài sản của họ mà không phải cùng kỳ hạn. Tình trạng này sẽ dẫn đến việc chủ nợ
nước ngoài giảm tiếp xúc với các rủi ro của Hàn Quốc và cắt giảm hạn mức tín dụng, từ
đó một cuôc khủng hoảng xảy ra trong năm 1997.
Đối với trường hợp của các nước Mỹ Latinh, và chính xác hơn Chilie, Diaz
Aljandro (1985) thấy rằng, hậu quả của tự do hóa tài chính Chile là thảm khốc. Như
tháng đầu tiên, sự phá sản ngân hàng có sự lặp lại. Sau những khó khăn nghiêm trọng
được biết đến với hầu hết các ngân hàng quan trọng của đất nước (Banco hoặc Sono)
trong năm 1997, chính phủ xem xét lại tờ khai của mình, và quyết định hỗ trợ điều này
trong sự lo ngại phá sản. Trong nghiên cứu của họ, Brukett và Dot (1991) cho thấy quá
trình tự do hóa tài chính thực hiện trong Chilie đã không cho phép phát triển, cũng như là
tăng trưởng kinh tế.
Như đối với việc tự do hóa thị trường vốn trong nước ra vốn nước ngoài, theo MC
Kinnon, nó dẫn đến sự đánh giá cao của tỷ giá hối đoái mà nói đến hủy bỏ vài tác dụng
có lợi hiếm hoi của chính sách tự do hóa tài chính. Trong trường hợp của Argentina,
Miotti và Plihon (2001), do đó liên tiếp với sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng ngân
14

hàng trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không thuận lợi của đất nước và các hành vi đầu cơ
của các ngân hàng sau khi tự do hóa tài chính.
Tình hình kinh tế vĩ mô dẫn đến sự kìm hãm nhanh chóng của lạm phát, rất nhanh
nối lại các khoản tín dụng và tăng trưởng kinh tế. Cũng như thế, tự do hóa tài chính liên
quan đến một sự gia tăng mạnh mẽ của vốn ngắn hạn mà sẽ được sử dụng trong hoạt
động đầu cơ. Môi trường kinh tế vĩ mô này đặc trưng bởi dự đoán tăng trưởng thuận lợi,

tăng tính thanh khoản và cạnh tranh ngân hàng mạnh mẽ là nguồn gốc của bong bóng đầu
cơ. Các cuộc tấn công đầu cơ và rút vốn ồ ạt sẽ nhanh chóng vào gây phá sản ngân hàng.
Số các định chế tài chính đóng cửa hoặc sáp nhập là 20 trong nửa đầu năm 1995, 28 trong
nửa cuối năm này và 8 trong nửa đầu năm 1996 cho đến khi đạt 86 vào năm 1999.
Ngoài bối cảnh kinh tế vĩ mô, nghiên cứu hành vi ngân hàng cũng vô cùng hữu
ích. Vào lúc bắt đầu của quá trình tự do hóa tài chính, kết quả của nó là tăng cạnh tranh
để tăng thị phần. Hệ thống ngân hàng Argentina là với một cuộc cạnh tranh mãnh liệt, lợi
nhuận cao và tính mỏng của các danh mục đầu tư. Điều này được giải thích bởi sự phát
triển của hoạt động đầu cơ.
2.3. Các nghiên cứu thực nghiệm
Nghiên cứu sự ảnh hưởng của tự do hóa tài chính lên lợi nhuận ngân hàng thường
liên quan đến mối quan hệ giữa tự do hóa tài chính và khủng hoảng ngân hàng. Mối quan
hệ này cũng đi kèm với tầm quan trọng của lợi nhuận ngân hàng thông qua chỉ số rủi ro.
Có một số bài nghiên cứu bàn riêng về mối tương quan này. Fisher và Chenard (1997)
chỉ ra rằng tự do hóa tài chính làm sụt giảm lợi nhuận ngân hàng. Theo hướng này, và bởi
sự tự do hóa lãi suất, dẫn đến kết quả là sự gia tăng chi phí tài chính ngân hàng (có lợi đối
với khách hàng). Tương tự, việc nâng khung tín dụng (tự do hóa lãi suất nợ, tự do hóa tín
dụng) khuyến khích các ngân hàng chấp nhận rủi ro để đạt được mục tiêu lợi nhuận. Việc
chấp nhận rủi ro này thường đi kèm theo rủi ro vỡ nợ.
Barajas, Steiner và Salazar (1999), trong bài nghiên cứu của họ liên quan tới
trường hợp ở Colombia cho thấy rằng tự do hóa tài chính tác động tới lợi nhuận biên các
ngân hàng trung gian. Nếu tỷ lệ này không được giảm bớt, thì sẽ làm sụt giảm chất lượng
15

tín dụng. Nói cách khác, lợi nhuận ngân hàng tăng là kết quả của tự do hóa lãi suất nợ.
Tuy nhiên, này sẽ chịu tác động tiêu cực bởi chất lượng tín dụng kém.
Choudhry Tanveer Shehzad and Jakob De Haan (2008) điều tra tác động của tự do
hóa tài chính lên khủng hoảng có hệ thống và phi hệ thống của ngân hàng và cho thấy
rằng tự do hóa tài chính làm giảm khả năng khủng hoảng có hệ thống của ngân hàng
trong các thử nghiệm độ nhạy khác nhau thì kết quả cho ra có ý nghĩa mạnh mẽ, tuy

nhiên có một số bằng chứng cho rằng khủng hoảng phi hệ thống của ngân hàng có khả
năng gia tăng sau tự do hóa tài chính.
Các tác giả khác thì tập trung vào những nghiên cứu định lượng mà có thể ảnh
hưởng đến lợi nhuận. Theo hướng đó, các biến kinh tế vĩ mô được đề cập trong mô hình
lợi nhuận ngân hàng. Trong những biến vĩ mô đó, chúng ta chú ý vào lãi suất, tỉ lệ lạm
phát, và tổng sản lượng quốc nội (GDP) (Okpara 2010). Về vấn đề các biến ngân hàng,
chúng ta có đáng kể nhất là tỉ số thanh khoản, quy mô ngân hàng, mức độ rủi ro, tính đầy
đủ trong nguồn vốn.
Afanasieff và cộng sự (2001), bằng cách sử dụng kĩ thuật dữ liệu bảng cho trường
hợp Brazil đã tổng kết rằng các biến kinh tế vĩ mô có tác dụng đáng kể đến lợi nhuận
ngân hàng. Guru và cộng sự (2002), dựa trên dữ liệu của 17 ngân hàng thương mại
Malaysia trong suốt thời gian 1986-1995, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tiền gửi ngân
hàng như là mức định lượng cho hiệu suất của các định chế này. Demirguç- Kunt. A và
Huizingha (2001), lấy dữ liệu từ ngân hàng 80 nước trong suốt thời 1988-1995, tính toán
cho lợi nhuận ngân hàng. Các biến được giới thiệu trong mô hình liên quan đến đặc tính
ngân hàng, các điều kiện kinh tế vĩ mô, và cấu trúc tài chính.
Các tác giả khác chỉ ra rằng tư do hóa tài chính có tác động tiêu cực đến cấu trúc
tài chính. Họ khẳng định rằng sự mở cửa tài chính tác động mạnh đến sự bất ổn tài chính,
nguy cơ sụp đổ của ngân hàng và sự phá sản cũng như sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế. Ở
mức độ này, Demirguç-Kunt và Detragiache (1998), Fisher and Chenard (1997), nhấn
mạnh sự tồn tại mối tương quan giữa tự do hóa tài chính và nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân
hàng.
16

2.3.1. Trường phái áp chế tài chính
Các tài liệu tự do hóa tài chính bắt nguồn từ những năm đầu thập niên 70, tại thời
điểm xây dựng trường phái áp chế tài chính bởi những người tiên phong Mc Kinnon
(1973) và Shaw (1973). Theo hai tác giả này, tự do hóa tài chính là phương tiện hiệu quả
duy nhất để phát triển các ngân hàng trung gian; bắt đầu tích lũy vốn; và thúc đẩy sự phát
triển tăng trưởng kinh tế của các nước. Nhiều tác giả đưa ra tác hại của việc ngăn chặn tài

chính và bảo vệ những mặt tích cực của tự do hóa tài chính.
Theo Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973) cũng như người ủng hộ khác đã cùng
chia sẻ quan điểm về tác dụng tích cực của tư do hóa tài chính. Trong đó, Kapur (1976) là
một trong những người đầu tiên bổ sung vào bài phân tích của hai tác giả đó bằng việc
hợp nhất nó trong một mô hình năng động. Điều này bộc lộ ra rằng việc gia tăng lãi suất
danh nghĩa có lợi cho việc kích thích tiền gửi hơn là cắt giảm tỉ lệ tăng cung tiền. Hơn
nữa, trình tự đầu tiên này giúp đạt được đồng thời hai mục tiêu: một mặt, cho phép giảm
tỉ lệ lạm phát nhờ giảm cầu tiền tệ; mặt khác, cũng là nguồn gốc của sự kích thích trực
tiếp của tiết kiệm.
Galbis (1977) là người được coi là một trong những người ủng hộ trường phái áp
chế tài chính, đã xây dựng mô hình với hai phần: phần nguyên bản- sản lượng vốn bất
biến và kém; và phần hiện đại – sản lượng vốn ổn định bất biến nhưng cao hơn. Phần đầu
tiên chứng minh khả năng bỏ vốn đầu tư một cách triệt để, trái lại phần thứ hai đảm bảo
việc bỏ vốn đầu tư bằng nguồn tiết kiệm và vay nợ ngân hàng. Hơn nữa, tự do hóa tài
chính thúc đẩy việc tăng lãi suất thực của tiền gửi dẫn đến sự gia tăng năng suất trung
bình của đầu tư, cũng như cho phép thay đổi tiết kiệm từ truyền thống đến hiện đại.
Cuối cùng, từ các mô hình gần đây làm phong phú thêm những đóng góp ban đầu
của Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973). Trong việc này, chủ yếu là công lao của Roubini
và Martin (1992). Mô hình của họ nhằm nghiên cứu hệ quả của tình trạng bất định ngoại
sinh của thị trường tài chính đối với sự tăng trưởng dài hạn. Cũng giống như ý kiến của
Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973), những tác giả khác chỉ trích nó bởi thừa nhận ảnh
hưởng trực tiếp của tự do hóa tài chính đến sự bất ổn tài chính, suy kiệt tình trạng tài
chính ngân hàng, nguy cơ sụp đổ, khủng hoảng và phá sản ngân hàng. Những nghiên cứu
mới gần đây xoay quanh các tác giả của trường phái thuyết cấu trúc.
17

2.3.2. Trường phái thuyết cấu trúc
Trường phái thuyết cấu trúc được xây dựng xung quanh các việc nói đến tranh
chấp phương pháp tiếp cận của Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973). Họ khẳng định rằng
tự do hóa tài chính làm nổi lên những bất ổn tài chính, nguy cơ sụp đổ ngân hàng và phá

sản cũng như sự suy giảm của tăng trưởng kinh tế. Ở cấp độ này, Demirguç-Kunt và
Detragiache (1998), Fisher và Chenard (1997) nhấn mạnh sự tồn tại của mối quan hệ giữa
tự do hóa tài chính và nguy cơ sụp đổ ngân hàng. Aljandro.C Diaz (1985) trong bài viết
nổi tiếng có tựa đề “Tạm biệt áp chế tài chính, xin chào khủng hoảng tài chính” đã cho
thấy việc quá độ từ trạng thái áp chế tài chính đến trạng thái tự do hóa tài chính làm nổi
lên những bất ổn tài chính và khủng hoảng.
Thật vậy, mặc dù cách tiếp cận của Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973) đã được
điều chỉnh và làm phong phú thêm bởi một số tác giả, nhưng không thể không thông báo
rằng nó có một số vấn đề nhất định cần lưu ý.
 Đầu tiên, các lý thuyết về tự do hóa tài chính giả định một mối quan hệ ngày càng
tăng giữa các lãi suất thực và tiết kiệm. Giả định này không tính đến tác động thay thế và
hiệu quả trở lại. Ngược lại, các lý thuyết của áp chế tài chính giả định một mối quan hệ
ngày càng giảm giữa tiết kiệm và lãi suất.
 Thứ hai, cách tiếp cận của Mc Kinnon (1973) và Shaw (1973) là thành lập trên giả
định ngầm rằng thị trường tài chính là hoàn hảo, trong khi Stieglitz và Weiss (1981) cho
thấy, thị trường tín dụng thì nguồn thông tin không hoàn hảo. Chính sự thông tin không
hoàn hảo này có thể dẫn đến quá trình chống chọn lọc.
 Cuối cùng, Mc Kinnon và Shaw giả định sự tồn tại của một mối quan hệ giữa lĩnh
vực tài chính không chính thức và áp chế tài chính. Ngược lại, Jensen (1989) nhấn mạnh
sự tồn tại của một thị trường tài chính không chính thức không bắt buộc các bằng chứng
cần thiết của áp chế tài chính mà hơn nữa thể hiện một tổ chức cụ thể của sản xuất và tiếp
thị.
2.4. Tự do hóa tài chính và Lợi nhuận ngân hàng
18

2.4.1. Khung lý thuyết
Trong ngắn hạn, theo sau các chương trình tự do hóa tài chính là một mức độ lợi
nhuận ngân hàng cao hơn. Giải thích như sau: sự mở cửa tài chính đã được theo sau bởi
sự tích lũy thanh khoản. Cường độ tài chính này đi lên với việc tự do hóa tài khoản vốn
và lãi suất tín dụng. Trong khi có thanh khoản mạnh, việc đầu tư sẽ được ưa chuộng, từ

nơi một trợ cấp tối ưu các nguồn tài nguyên.
Trong trường hợp không có kiểm soát và giám sát đầy đủ, các ngân hàng bắt đầu
tài trợ cho các dự án rủi ro mà yêu cầu năng suất cao. Lợi nhuận ngân hàng được xem
tăng lên. Sự tự do hóa hoạt động ngân hàng được thúc đẩy bởi tự do hóa tài chính đã làm
tăng cơ hội nhận rủi ro. Các ngân hàng tiếp tục được hướng tài trợ cho các hoạt động có
rủi ro cao. Khách hàng vay vẫn không thể đảm bảo cam kết của họ. Thật vậy, kết quả là
một sự suy giảm của tình hình tài chính của các ngân hàng dẫn đến một sự yếu kém và
thậm chí lợi nhuận ngân hàng âm. Lợi nhuận thấp này kết hợp với hành vi đầu cơ, sự bất
đối xứng thông tin và bất lợi về thể chế bối cảnh kinh tế vĩ mô, tạo nên nguy cơ sụp đổ
của ngân hàng; theo sau đó là phá sản và khủng hoảng ngân hàng.
Chúng ta hãy lấy trường hợp của Argentina, và theo nghiên cứu Miotti và Plihon
(2001), họ chứng minh rằng tự do hóa tài chính ảnh hưởng xấu đến lợi nhuận ngân hàng.
Theo các tác giả, trước khi rơi vào phá sản, các ngân hàng có được lợi nhuận cao hơn so
với thực lực ngân hàng. Sự chênh lệch lợi nhuận này đến từ những cách mà các ngân
hàng đã làm để phát triển hoạt động đầu cơ. Như chiến lược chấp nhận rủi ro tăng lên, lợi
nhuận ngân hàng được xem xấu đi và các ngân hàng trở nên mong manh hơn.
Nói tóm lại, tự do hóa tài chính ở các nước đang phát triển đi kèm với lợi nhuận
cao của các ngân hàng. Lợi nhuận này được giải thích bởi việc thiếu giám sát và kiểm
soát, dẫn đến cơ hội chấp nhận rủi ro. Chấp nhận rủi ro quá mức, một suy giảm chất
lượng đầu tư và tài trợ xấu là nguồn gốc của sự suy giảm của lợi nhuận ngân hàng, tạo
thành một trong những nguồn bất ổn ngân hàng.
19

2.4.2. Nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Theo Hakimi Abdelaziz, Djelassi Mouldi và Hamdi Helmi (2011), bài nghiên
cứu mối quan hệ giữa tự do hóa tài chính và lợi nhuận ngân hàng ở Tunisia dựa trên phân
tích dữ liệu bảng của các ngân hàng ở Tunisia, đã cho thấy rằng tự do hóa tài chính vào
lợi nhuận ngân hàng có mối tương quan đáng kể. Tự do hóa tài chính ở Tunisia là khác
với các nước khác trên một số chương trình kế hoạch. Việc tự do hóa có nhịp điệu dần
dần và không triệt để. Do đó nó khác biệt bởi không có sự xuất hiện của các cuộc khủng

hoảng và phá sản ngân hàng như các ví dụ của Đông Nam Á và châu Mỹ Latinh. Tuy
nhiên theo kết quả nghiên cứu của các tác giả, tác động của tự do hóa tài chính vào lợi
nhuận ngân hàng chứng minh là tương tự như kết quả thực hiện trên các quốc gia khác.
Tự do hóa tài chính làm giảm lợi nhuận của các ngân hàng Tunisia. Bởi tự do hóa lãi suất
nợ và việc dỡ bỏ khung tín dụng, lợi nhuận ngân hàng xấu đi. Sự tự do hóa này khuyến
khích các ngân hàng chấp nhận rủi ro hơn bằng cách yêu cầu nâng lãi suất với các dự án
rủi ro cao. Tuy nhiên, nguồn lợi nhuận mạnh mẽ này là ngẫu nhiên và với một xác suất
thành công nhỏ. Điều làm giảm lợi nhuận ngân hàng chính là việc dỡ bỏ khung của tín
dụng. Các khoản tín dụng phân phối cho khách hàng vay "xấu" làm cho các ngân hàng
tốn kém chi phí điều chỉnh, ảnh hưởng đến tiêu cực đến lợi nhuận ngân hàng.
Nihal Bayraktar and Yan Wang (2004) điều tra tác động của các ngân hàng nước
ngoài khi gia nhập vào thị trường ngân hàng trong nước và mối quan hệ này bị tác động
như thế nào bởi tự do hóa tài chính. Nghiên cứu này cho thấy sau khi kiểm soát các biến
kinh tế vĩ mô và nhóm các quốc gia lại với nhau theo trình tự tự do hóa tài chính, các
ngân hàng nước ngoài đã cải thiện đáng kể năng lực cạnh tranh trong các nước có tự do
hóa tài chính đầu tiên. Ở các nước tự do hóa tài chính, chỉ số lợi nhuận và chi phí có
tương quan âm đến giá cổ phiếu của các ngân hàng nước ngoài.
Arthur E. Wilmarth, Jr (2003) cho rằng tự do hóa tài chính có xu hướng tăng tính
dễ tổn thương lên hệ thống ngân hàng do sự sụp đổ đột ngột của giá trị tài sản trong thị
trường chứng khoán và thị trường bất động sản. Và theo Gil Mehrez(1999), xác suất
khủng hoảng ngân hàng sẽ cao hơn trong giai đoạn 5 năm sau tự do hóa tài chính, đặc
biệt với các quốc gia có tính minh bạch tài chính kém và thông tin kém hiệu quả.
20

Demerguç-Kunt và Huizingha (2001) đã nghiên cứu tác động của sự phát triển tài
chính lên lợi nhuận ngân hàng. Bằng cách sử dụng dữ liệu ngân hàng của các nước phát
triển và các nước khác trong tiến trình phát triển suốt giai đoạn 1990-1997, nó chỉ ra rằng
sự phát triển tài chính có tác động đáng kể đối với hiệu suất ngân hàng. Chúng cũng dẫn
đến rằng sự phát triển ngân hàng ở mức độ cao có tác động tiêu cực đến hiệu suất ngân
hàng. Kết quả này được giải thích bởi thực tế là sự phát triển này sẽ làm dấy lên sự cạnh

tranh giữa các ngân hàng, điều này sẽ làm giảm hiệu suất ngân hàng. Nhiều tác giả kết
luận rằng sự phát triển của thị trường tài chính và sự phát triển của cấu trúc hệ thống
ngân hàng là tỉ lệ thuận do đó chúng bổ sung lẫn nhau.
2.5. Thực trạng quá trình tự do hóa tài chính và ảnh hưởng của nó đến lợi nhuận
của các ngân hàng ở Việt Nam
2.5.1. Thực trạng quá trình tự do hóa tài chính ở Việt Nam
Quan hệ song phương và đa phương của Việt Nam ngày càng được phát triển
mạnh hơn khi hội nhập vào kinh tế thế giới và khu vực.
Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ với trên 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Các
Hiệp định quan trọng được ký kết là: Hiệp định thương mại Việt Nam - Trung Quốc (năm
1991), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (năm 2000), Hiệp định bảo hộ và thúc
đẩy đầu tư với Nhật Bản (năm 2003), hiệp định thương mại Việt Nam - Ấn Độ (2008),
hiệp định thương mai Việt Nam – Hàn Quốc (2011)… Quan hệ trên cấp độ đa phương,
khu vực và toàn cầu: từ những năm đầu của thập kỷ 1990, Việt Nam đã nhận thức và chủ
động tự đổi mới nền kinh tế và bắt đầu chuyển hướng hội nhập kinh tế khu vực và quốc
tế. Hành động đầu tiên là Việt Nam ký Hiệp định với Liên minh Châu Âu (EU) vào năm
1995. Điểm mốc hội nhập khu vực có ý nghĩa lớn là gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) năm 1995 và tham gia khu vực mậu dịch tự do AFTA (1996); tháng
3/1996 tham gia diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập,
nhằm thuận lợi hóa thương mại, đầu tư và hợp tác giữa các nhà doanh nghiệp Á - Âu.
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Khối hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) vào ngày 14/11/1998. Trong những năm gần đây, ASEAN trong đó có
Việt Nam đã tích cực thúc đẩy đàm phán ký kết các Hiệp định khung về hợp tác kinh tế
21

toàn diện với 6 đối tác lớn là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Úc và New
Zealand. Việt Nam cũng đã làm đơn xin gia nhập WTO từ năm 1995, và sau hơn 11 năm
đàm phán, đến ngày 11/01/2007, Việt Nam đã chính thức là thành viên thứ 150 của
WTO, đánh dấu sự hội nhập toàn diện vào kinh tế thế giới của Việt Nam.
Theo các cam kết thương mại song phương và đa phương, cho đến nay, hầu hết

các lĩnh vực (thương mại, đầu tư, sản xuất, phân phối, ngân hàng, bảo hiểm, chứng
khoán ) đã được mở cửa ở các mức độ khác nhau theo các lộ trình cam kết cụ thể. Khu
vực tài chính cũng được mở cửa ở mức độ nhất định với việc cho phép thành lập các
ngân hàng liên doanh, các ngân hàng 100% vốn nước ngoài; thị trường chứng khoán cho
phép các nhà đầu tư nước ngoài giao dịch; thị trường bảo hiểm cũng đã có những bước
mở cửa nhiều hơn. Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực, hội nhập kinh tế quốc tế
cùng với cải cách trong nước tạo ra những động lực lớn thúc đẩy phát triển kinh tế thể
hiện qua một số điểm như sau: (i) Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại cơ hội để mở rộng
thị trường và tăng cường xuất khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều cơ hội tiếp cận
với các nguồn tín dụng, công nghệ hiện đại, các loại hình dịch vụ đa dạng. Hoạt động
xuất khẩu đã tạo nên sự gia tăng mạnh mẽ nguồn thu xuất khẩu. (ii) Tăng cường thu hút
vốn đầu tư nước ngoài để bù đắp thâm hụt cán cân vãng lai, tăng cường dự trữ ngoại hối
quốc gia, cải thiện cán cân thanh toán; (iii) Thông qua môi trường cạnh tranh ngày càng
gay gắt giữa các công ty trong nước với nhau, giữa các công ty trong nước với các công
ty nước ngoài trên thị trường trong nước và quốc tế, tính hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế ngày càng được nâng cao; (iv) Hình thành tư duy quản lý và chuẩn mực kinh
doanh mới. Việc thực thi các cam kết mở cửa thị trường, áp dụng nguyên tắc không phân
biệt đối xử, xóa bỏ bao cấp, công khai minh bạch các cơ chế chính sách kinh tế, đã
thúc đẩy việc hình thành tư duy mới, các chuẩn mực mới trong quản lý nhà nước, đồng
thời, hướng các doanh nghiệp quan tâm đến việc xây dựng chiến lược kinh doanh, tiếp
cận thị trường, tạo dựng thương hiệu. Như vậy, Việt Nam đã ngày càng hội nhập sâu rộng
vào kinh tế khu vực và thế giới.
22

2.5.2. Lợi nhuận và tình hình phát triển của các ngân hàng Việt Nam
Hơn 6 năm tham gia vào sân chơi thế giới không chỉ tạo cơ hội cho các ngân hàng
thương mại (NHTM) trong nước tiếp cận vốn quốc tế dễ dàng hơn, đưa năng lực tài chính
của nhiều ngân hàng tăng lên, mà còn tạo cơ hội và thúc đẩy các NHTM nói riêng và các
doanh nghiệp (DN) trong nước nói chung tích cực cạnh tranh thị trường để tồn tại và phát
triển, không chỉ ở trong nước mà còn mở rộng hoạt động ra khu vực và thế giới.

Có thể thấy, cơ cấu và giá trị vốn điều lệ của hệ thống NHTM đã tăng lên đáng kể.
Hầu hết các ngân hàng đều đạt được mức vốn pháp định là 3.000 tỷ đồng theo quy định
của Ngân hàng Nhà nước (NHNN). Trong đó, một số ngân hàng còn có số vốn điều lệ
khá cao như: Vietinbank, Agribank, Vietcombank, BIDV, Techcombank.
Giá trị tổng tài sản của các NHTM cũng tăng mạnh, trong giai đoạn từ năm 2007-
2010, quy mô tài sản của các NHTM đã tăng gấp đôi, từ 1.069 nghìn tỷ đồng lên 2.690
nghìn tỷ đồng và đạt khoảng 3.600 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2012.
Việc áp dụng các mô thức quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế; triển
khai hệ thống kiểm tra, kiểm soát và kiểm toán nội bộ; sắp xếp lại mô hình theo khối,
tách bạch khối quản lý rủi ro theo ba vòng kiểm soát, coi trọng đầy đủ các loại rủi ro
trong ngân hàng, cấu trúc lại các công ty con, cùng với việc đưa ra một số tiêu chí bước
đầu phục vụ cảnh báo sớm rủi ro kinh doanh ngân hàng là những kết quả đáng ghi nhận.
Nó không chỉ là sự đòi hỏi khách quan của mỗi NHTM hướng đến sự phát triển ổn
định, mà còn là đòi hỏi của nền kinh tế, của khách hàng. Để quản lý, giám sát hoạt động
của hệ thống ngân hàng Việt Nam thì các văn bản luật, cơ chế, chính sách của các
Bộ/Ngành trong thời gian qua hầu như đã phủ kín các hoạt động chính của ngân hàng, tạo
điều kiện cho các NHTM hoạt động.
Tuy nhiên với sự biến đổi phức tạp của kinh tế toàn cầu, cùng với những rủi ro
trong thị trường tại chính, lợi nhuận của các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng có
những biến động đáng kể qua các năm.
Năm 2007
23

Năm 2007 tổng huy động vốn của hệ thống tín dụng tăng đột biến, khoảng 50% so
với năm 2006. Riêng tại Tp.HCM, kỷ lục được xác lập ở mức tăng khoảng 55%; tại Hà
Nội là 36,1 %. Tổng dư nợ cho vay toàn hệ thống cũng đột biến kể từ năm 2004, dự tính
tăng tới 40%; riêng tại Tp.HCM lên tới 51%, tại Hà Nội là khoảng 38,5%. Những con số
trên cho thấy sự sôi động của dòng tiền ra – vào các ngân hàng. Riêng về tốc độ cho vay
lại dẫn đến những lo ngại về tăng trưởng nóng, chất lượng tín dụng và là một tác động
đẩy lạm phát tăng cao.

Năm 2007, khối ngân hàng cổ phần gặt hái thành công về lợi nhuận. Hầu hết các
thành viên đều vượt xa kế hoạch đặt ra đầu năm. Đây cũng là một cơ sở để cuộc chạy đua
lập ngân hàng mới càng gấp rút. Phía sau những con số lợi nhuận ấn tượng là sự dịch
chuyển thị phần đáng lo ngại đối với khối ngân hàng quốc doanh. Đáng chú ý là kết quả
này có từ một năm khó khăn từ ảnh hưởng của một số chính sách lớn (tăng dự trữ bắt
buộc, hạn chế cho vay đầu tư chứng khoán…). Ngoài ra, 2007 cũng là năm ấn tượng về
nỗ lực mở rộng mạng lưới, đa dạng sản phẩm – dịch vụ của khối này.
24

Năm 2008
Nửa đầu năm 2008 gồng mình với khó khăn thanh khoản, lợi nhuận của nhiều
ngân hàng bị ảnh hưởng nặng nề. Đây là năm đầu tiên trong khoảng 5 năm trở lại đây
nhiều thành viên buộc phải điều chỉnh lại mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận đặt ra từ đầu
năm; chiến lược tăng tốc nhanh được chuyển sang thận trọng, ổn định và yếu tố an toàn,
tăng cường quản trị được đặt lên hàng đầu.
Với lãi suất huy động cao trong phần lớn thời gian của năm, tốc độ tăng trưởng tín
dụng thấp, tín dụng bất động sản và tiêu dùng thu hẹp, đầu tư tài chính khó khăn…, dự
kiến lợi nhuận của nhiều ngân hàng thương mại năm 2008 sẽ không đạt mục tiêu đề ra,
kể cả mục tiêu đã được điều chỉnh.


Năm 2009
Từ cuối năm 2008, chính sách tiền tệ bắt đầu có sự chuyển hướng, từ thắt chặt
sang dần nới lỏng. Cùng với chủ trương kích cầu và ngăn chặn suy giảm kinh tế, sự
chuyển hướng trên là một yếu tố tạo điều kiện để tín dụng tăng trưởng mạnh trở lại trong
năm 2009.
Tuy nhiên, so với các mốc định hướng mà Ngân hàng Nhà nước dự kiến ở các thời
điểm trong năm, tăng trưởng tín dụng thực tế đã vượt xa. Cụ thể, đầu năm, tăng trưởng
25


tín dụng dự kiến từ 21% - 23%; giữa năm là định hướng không quá 30%; còn theo dự
tính cả năm con số này thực tế có thể lên tới trên 36%, tăng mạnh so với năm 2008 (21%)
và ở mức cao trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây.
Tăng trưởng tín dụng cao năm 2009 cũng là một cơ sở để Ngân hàng Nhà nước
xem xét bắt đầu có hướng thắt chặt dần chính sách tiền tệ, cụ thể ở tín hiệu nâng lãi suất
cơ bản, phòng ngừa lạm phát cao có thể trở lại trong năm 2010.
Năm 2008, ảnh hưởng của khủng hoảng, lạm phát và lãi suất tăng cao, nhiều ngân
hàng không đạt mục tiêu lợi nhuận đề ra từ đầu năm. Điều này khiến các thành viên thận
trọng hơn trong việc xác định mục tiêu lợi nhuận năm 2009, cũng như từ bối cảnh vẫn
còn nhiều khó khăn của nền kinh tế.
Đến tháng 11, nhiều thành viên thông báo đã hoàn thành và vượt mục tiêu lợi
nhuận cả năm, nhưng không đột biến. Nhìn chung, lợi nhuận các ngân hàng năm 2009 có
cải thiện và ổn định trở lại so với năm khá đặc biệt 2008. Có thể thấy tốc độ tăng trưởng
lợi nhuận ngân hàng năm 2009 chia thành hai nửa khá rõ rệt. 6 tháng đầu năm, lợi nhuận
các ngân hàng tăng mạnh, xuất phát từ tăng trưởng tín dụng cao, nhiều thành viên có
nguồn thu thuận lợi từ xuất khẩu vàng và đặc biệt là khoản hoàn nhập dự phòng trong đầu
tư tài chính theo đà phục hồi mạnh của thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, nửa cuối năm,
lợi nhuận nhiều thành viên bắt đầu giảm tốc do lãi suất huy động tăng cao, tỷ lệ lãi biên
bị thu hẹp, tăng trưởng tín dụng chậm lại, khó khăn thanh khoản và thị trường chứng
khoán sụt giảm mạnh trong quý 4…Trong cơ cấu lợi nhuận, điểm nổi bật là có sự chuyển
dịch rõ và rộng hơn của nguồn thu từ dịch vụ, thay vì lệ thuộc nguồn thu từ tín dụng. Tại
nhiều thành viên, đặc biệt là các ngân hàng lớn, tỷ trọng thu từ tín dụng đã giảm từ 80%
xuống còn khoảng 70%, 60% trong cơ cấu. Trong khi đó, các ngân hàng nhỏ cũng đã có
nhiều kế hoạch đầu tư mạnh cho phát triển công nghệ và dịch vụ trong năm 2009.
Năm 2010
Maritme Bank đặc biệt nổi trội trong năm 2009 và đầu năm 2010. Có thời điểm
ngân hàng này đưa ra một tỷ lệ ROE (tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu) lên tới
50% trong năm 2009, trong khi mức bình quân năm của ngành chỉ ở khoảng 20% - 22%.

×