SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Nâng cao chất lượng bài soạn
PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Chăm lo sự nghiệp trồng người, nâng cao
dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài là trách nhiệm của toàn xã hội.
Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng khẳng định:
Giáo dục và đào tạo phải có sự đổi mới và nâng cao chất lượng toàn diện về nội
dung, phương pháp dạy học, hệ thống trường lớp và hệ thống về quản lý giáo dục.
Trong hệ thống giáo dục phổ thông, giáo dục tiểu học có vai trò vô cùng
quan trọng vì : “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở
ban đầu cho sự phát triên đúng đắn và lâu dài về đức, trí, thể, mỹ và các kỹ năng
cơ bản làm nền tảng của những bậc học sau này; nó là cơ sở vững chắc cho sự
phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nền móng vô cùng
quan trọng cho sự phát triển nhân cách toàn diện của trẻ” (Luật giáo dục năm
2005).
Chính vì vậy, việc nâng cao chất lượng dạy và học đúng thực chất là một
yêu cầu vô cùng cần thiết mà các nhà quản lý giáo dục cần có những biện pháp chỉ
đạo, quản lý tốt để đảm bảo chất lượng dạy và học.
Trong những năm qua, giáo dục tiểu học đã đạt được nhiều thành tựu to lớn,
rất đáng tự hào trong sự nghiệp phát triển giáo dục. Song bên cạnh đó chất lượng
đào tạo vẫn còn thấp, có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự mất cân đối vì: Đội ngũ
giáo viên chưa đều, vẫn còn một số tuổi đời cao cho nên sự nhiệt tình năng nỗ còn
hạn chế dẫn đến việc giảng dạy không theo kịp với phương pháp đổi mới làm hạn
chế sự phát triển tư duy của học sinh, các em tiếp thu chậm dẫn đến chất lượng
giảng dạy thấp. Đặc biệt vấn đề đáng quan tâm hiện nay mà các cấp, các ngành
đều bức xúc và trăn trở đó là chất lượng giáo dục đúng thực chất. Và để có chất
lượng giáo dục thì phải có những tiết học, bài học chất lượng, để đạt được điều
này càng không thể thiếu các kế hoạch bài học khoa học, hấp dẫn để giúp học sinh
tiếp thu bài một cách nhanh nhất, hiệu quả nhất.
Vì vậy muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh, muốn phát huy hết
tiềm năng tri thức của các em thì người giáo viên luôn phải biết trăn trở, tìm tòi,
khám phá, biết định hướng và biết vạch ra kế hoạch, phương án khi tổ chức các
hoạt động dạy học. Đối với người giáo viên, một giờ lên lớp bao gồm rất nhiều
1
hoạt động, thao tác đòi hỏi phải xây dựng một kế hoạch, phương án cụ thể tối ưu
nhằm giúp cho giờ giảng đạt chất lượng, đó chính là thiết kế bài soạn.
Trong giờ dạy, kể từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, người giáo viên cần
phải biết sắp xếp các hoạt động sao cho phù hợp với trình độ, khả năng của học
sinh giúp các em tự giác tích cực lĩnh hội các kiến thức. Việc thiết kế giáo án
chính là sự sắp xếp các hoạt động đó.
Thiết kế bài soạn có một vai trò đặc biệt quan trọng bởi nó giúp cho giáo
viên vạch ra rõ ràng phần trọng tâm mà học sinh bắt buộc phải biết, từ đó giáo
viên dễ dàng hơn trong việc điều chỉnh khung thời gian, tăng giảm nội dung giảng
dạy, đề phòng các trường hợp cháy giáo án, ướ giáo án tức thừa thời gian khi dạy.
Việc soạn giáo án trước khi lên lớp giúp giáo viên vững vàng tự tin hơn khi tổ
chức, hướng dẫn, hình thành khái niệm cho học sinh.
Trường tiểu học là một trường vùng xa của huyện, công tác dạy và
học chưa được quan tâm đúng mực nên hoạt động chuyên môn chưa thực sự
mạnh, đây là một trong những nguyên nhân chính của công tác soạn bài và hiệu
quả của các bài soạn - dụng cụ, phương tiện khi lên lớp của người giáo viên, điều
này là trăn trở lớn, nhất là đối với một người quản lý làm công tác chuyên môn
như tôi, do đó tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp về nâng cao chất lượng bài
soạn cho giáo viên trường tiểu học ”
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục tiêu: Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công tác soạn bài của đội
ngũ giáo viên ở trường tiểu học để đề ra được cách thức, biện pháp đổi
mới công tác soạn bài và ứng dụng phù hợp với thực tế đơn vị.
3.2. Nhiệm vụ: Nghiên cứu kĩ năng, kế hoạch bài soạn của đội ngũ giáo viên ở
trường tiểu học công tác trường tiểu học xã trong những
năm học vừa qua từ đó, đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng công
tác soạn bài của nhà trường.
3. Phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đội ngũ giáo viên trường tiểu học
- Nghiên cứu công tác soạn giáo án của trường Tiểu học từ năm học
2008 - 2009 đến học kì I năm học 2012 - 2013.
4.2. Địa bàn nghiên cứu: Trường tiểu học xã
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp quan sát:
2
- Phương pháp điều tra, kiểm tra
- Xem vở học, vở tập, bài kiểm tra của học sinh
- Kiểm tra hồ sơ, giáo án của giáo viên qua hình thức đột xuất, định kỳ.
- Phương pháp trò chuyện:
5. Bố cục đề tài:
I. Phần mở đầu:
II. Phần nội dung:
1. Cơ sở lý luận.
2. Thực trạng.
3. Phương hướng giải quyết.
III. Phần kết luận, kiến nghị:
1. Kết luận
2. Kiến nghị.
PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Như ta biết, giáo viên lên lớp phải có giáo án, cũng như người nông dân đi
cày thì phải có cái cày, một khi cái cày hỏng, lung lay thì không thể có một thửa
ruộng đã cày ải đẹp.
Soạn bài là một công việc hết sức quan trọng. Nhìn vào bài soạn ta có thể
biết được toàn bộ kế hoạch, các bước, các khâu của cả quá trình dạy học của thầy
và trò trong một tiết lên lớp nhằm đạt mục đích, yêu cầu của bài dạy.Soạn bài chu
đáo cẩn thận, có nhiều công sức đầu tư suy nghĩ thì càng giúp cho người thầy làm
chủ được tiết học, môn học. Trong bài soạn, mục đích, nội dung, phương pháp
phải được dự kiến sắp đặt và tuân thủ từng bước tiến hành. Người thầy phải đề
xuất được các tình huống, hoạt động nhằm phát huy tính tự giác tích cực hoạt động
của học sinh. Quá trình soạn bài thực sự là một quá trình lao động trí óc vất vả và
thể rõ ý thức, tinh thần trách nhiệm cũng như lương tâm nghề nghiệp của người
thầy đối với tương lai của thế hệ trẻ. Ở một bài soạn không chỉ nói lên sự đầu tư
công sức, nghiên cứu khoa học mà còn thể hiện những lao động sáng tạo của thầy,
những tâm đắc đối với bài dạy và nhiều kinh nghiệm quý báu đúc rút từ nhiều năm
trước.
Như vậy một bài soạn cần xác định rõ 3 yếu tố: Mục đích, nội dung,
phương pháp. Bài dạy lý thuyết khác với dạy bài tập. Dạy lý thuyết, nếu có thể đưa
ra những hoạt động cụ thể hướng dẫn học sinh tự tìm đến những kiến thức mới.
3
Hoạt động có thể là các câu hỏi dẫn dắt hoặc yêu cầu học sinh giải một bài toán cụ
thể có liên quan đến kiến thức mới. Giải xong bài toán cũng là lúc học sinh tìm ra
kiến thức và thầy giáo chỉ còn hợp thức hóa và chính xác hóa kiến thức mà học
sinh vừa tìm được. Giờ bài tập cần tạo điều kiện cho học sinh làm việc được càng
nhiều càng tốt. Tâm lý học sinh là rất thích tự mình tìm được lời giải; nó như là
một sự động viên về tinh thần cũng như một sự khẳng định năng lực của mình.
Thầy giáo cần tạo cho học sinh được hưởng niềm vui trong học tập ấy. Vì vậy cần
chú đến sự phân hóa trong các giờ dạy
Học sinh trường tham gia Hội thi “Học sinh viết chữ đẹp” cấp huyện năm học 2012 -
2013
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC SOẠN BÀI Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC LÝ TỰ
TRỌNG:
1. Đặc điểm tình hình chung:
- Giáo viên có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống tốt, yêu nghề, nhiệt tình
công tác.
4
- Cán bộ giáo viên đã ý thức tự tham gia đăng ký theo học các lớp nâng cao
trình độ chuyên môn nghiệp vụ như đại học cao đẳng tại chức góp phần tăng tỉ lệ
giáo viên đạt trình độ trên chuẩn tương đối cao 28 đ/c (trên 50%).
- Đội ngũ giáo viên loại hình nhiều nên hiệu quả giáo dục chưa cao. Tỉ lệ học
sinh yếu còn cao.
- Năng lực sư phạm của giáo viên qua đánh giá xếp loại cuối năm học chưa
thực sự tốt. Số giáo viên giỏi các cấp còn ít trong khi đó có một bộ phận giáo viên
không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, trong đó có một số giáo viên loại hình dạy chưa
tốt các môn học không đúng phân môn.
- Trường TH đóng trên địa bàn vùng xa của huyện, trường nhiều
phân hiệu (4 phân hiệu), phân hiệu xa bán kính gần 3 km nằm trên địa bàn dân cư
thưa, 99 % là đồng bào dân tộc thiểu số. Trình độ dân trí thấp, kinh tế còn nghèo
nàn, học sinh dân tộc thiểu số, dân tộc tại chỗ chiếm số lượng lớn 45 % số học
sinh toàn trường.
2. Thực trạng thiết kế kế hoạch bài học:
Trong học kì I năm học 2012 – 2013 qua kiểm tra kế hoạch bài học hàng
tuần và đột xuất và như tổng kiểm tra hồ sơ ba lần trong năm học, nhận thấy có sự
khác biệt ở các nhóm giáo viên khác nhau. Đối với giáo viên tuổi cao hoặc hoàn
cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn thì sự đầu tư cho soạn bài rất hạn chế. Việc lập
kế hoặch bài học chỉ như là chép lại sách giáo viên mà không có sự đầu tư nào
khác, không chú ý đến đối tượng học sinh cũng như cơ sở vật chất phục vụ cho bài
giảng. Đặc biệt có trường hợp mượn giáo án cũ rồi chép lại. Những điều đó làm
cho chất lượng giảng dạy kém hiệu quả. Đối với những giáo viên có trình độ
chuyên môn vững thì đã có sự đầu tư nhất định. Khi lập kế hoặch bài học họ đã có
sự lựa chọn phương pháp giảng dạy cũng như tính đến các yếu tố: Học sinh,
phương tiện, dạy học, mày mò các tư liệu tham khảo, chú trọng tới việ phát huy
tính chủ động, sáng tạo của học sinh. Tuy nhiên số giáo viên này chưa nhiều.
Phân tích tình hình soạn giáo án của giáo viên trong 5 năm liền kề, nhà
trường có kết quả khảo sát công tác soạn giáo án của giáo viên như sau:
NĂM HỌC TS BỘ GIÁO ÁN XẾP LOẠI
Tốt Khá Đạt C.đạt
2008 - 2009 26 5 7 8 6
2009 - 2010 27 8 11 5 3
2010 - 2011 34 15 15 4 0
2011 - 2012 38 17 19 2 0
5
2012 - 2013 40 21 18 1 0
Việc phân loại kế hoạch bài học mới chỉ dừng ở mức những tiêu chí sau:
- Loại tốt: Đủ bài soạn, không nhầm lẫn kiến thức, tích hợp kĩ năng sống, soạn
đúng chuẩn kiến thức kĩ năng, không cắt xén chương trình, đủ các bước lên lớp,
trình bày sạch sẽ, khoa học, có hệ thống câu hỏi gợi mở hướng dẫn học sinh.
- Loại khá: Như các tiêu chí của loại tốt nhưng còn một số bài soạn sơ lược.
- Loại đạt: Bài soạn sơ lược nhiều, trình bày chưa khoa học.
- Loại chưa đạt: Bài soạn sơ sài, thiếu căn bản, soạn chưa đúng chuẩn kiến thức
kĩ năng, thiếu khoa học.
* Một số tồn tại chủ yếu trong công tác soạn bài của giáo viên trường tiểu
hoc :
- Còn số ít sử dụng giáo án cũ chép lại không thực hiện theo chuẩn kiến thức kĩ
năng, không điều chỉnh đúng theo quy định của CV 896.
- Còn có hiện tượng down load giáo án trên mạng (giáo án vi tính).
- Một số giáo viên còn thiếu các bước (cấu trúc) cơ bản của một tiết dạy.
- Thiếu phần hỗ trợ cho học sinh khó khăn, học sinh yếu.
- Ngại soạn giáo án bổ sung
- Chép lại y nguyên sách giáo viên, sách thiết kế. Chưa tích hợp kĩ năng sống
hoặc có nhưng sơ sài.
* Nguyên nhân:
Việc đổi mới phương pháp soạn giáo án đã được quy định một cách chi tiết,
đầy đủ tại công văn 896 và công văn 138/SGD&ĐT Đăk Lăk, nhưng hiện nay
phần lớn giáo viên đang bị bó buộc bởi cách làm cũ: Soạn giáo án thay vì lập kế
hoạch bài học. Mặt khác, do sức ỳ tâm lý, thói quen làm việc nên giáo viên còn
phụ thuộc giáo án cũ, sách giáo viên và sách thiết kế trong soạn bài. Qua khảo sát
thực tế tình hình soạn bài của giáo viên cho thấy đa số giáo viên không lập kế
hoạch bài học mà chép lại bài soạn cũ hoặc chép bài soạn từ sách giáo viên, sách
thiết kế; một số khác chỉ thực sự quan tâm đến việc soạn bài khi mới ra trường
hoặc khi được bố trí giảng dạy lớp mới (trước đó chưa giảng dạy), còn sau đó chép
lại giáo án cũ. Chỉ có rất ít giáo viên nghiên cứu kỹ sách giáo khoa, sách giáo viên,
sách thiết kế và các tài liệu liên quan, đọc lại bài soạn (kế hoạch bài học) đã lập từ
năm trước, sau đó đối chiếu với tình hình học sinh lớp mình đang giảng dạy để lập
kế hoạch bài học hợp lý.
6
Từ những thực trạng trên cho thấy, mặc dù CV 896 và 138 đã ban hành
nhưng vẫn tồn tại những cách làm khác nhau từ phía người thực hiện.
Tóm lại thực trạng việc thiết kế, kế hoạch bài học của nhà trường là: Đủ bài,
đúng phân phối chương trình. Một bộ phận giáo viên nòng cốt có ý thức trách
nhiệm tốt đầu tư cho nhiều bài soạn. Song song với những thiết kế tốt vẫn còn
nhiều giáo án sơ lược, chưa chú ý đúng mức đến phương pháp dạy học đặc thù đối
với từng đối tượng học sinh, những giáo án này thể hiện trình độ chuyên môn hạn
chế của giáo viên, năng lực sư phạm yếu hoặc bị ảnh hưởng của lối làm việc được
chăng hay chớ, thiếu đầu tư suy nghĩ tìm tòi.
Hình ảnh “Hội thi giáo viên dạy giỏi” cấp trường năm học 2011 - 2012
II. MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BÀI SOẠN:
1. Công tác chỉ đạo công tác xây dựng kế hoặch giảng dạy hàng tuần:
Tổ, khối chuyên môn ở trường Tiểu học là đơn vị trực tiếp quản lý hoạt
động chuyên môn của mỗi thành viên trong khối. Để tiện cho việc chỉ đạo chuyên
môn của tổ trưởng nhà trường đã biên chế mỗi khối lớp một tổ chuyên môn. Việc
chỉ đạo công tác xây dựng kế hoặch giảng dạy được triển khai trực tiếp từ ban
giám hiệu tới tổ trưởng tổ chuyên môn. Trong quản lý chỉ đạo xây dựng kế hoạch
giảng dạy một mặt phải phát huy vai trò của toàn trường. Căn cứ để xây dựng kế
hoạch giảng dạy là phân phối chương trình và thời khóa biểu hàng ngày trong
tuần. Bên cạnh đó là các hoạt động ngoài giờ lên lớp của nhà trường hoặc các nội
dung khác do phòng Giáo dục chỉ đạo như kế hoặch bồi dưỡng thay sách, bồi
dưỡng sử dụng đồ dùng dạy học Từ đó các tổ chuyên môn sẽ bàn bạc và xây
dựng kế hoặch lên lớp hằng ngày sao cho đúng chương trình và thời khóa biểu,
7
đồng thời vạch kế hoặch sử dụng đồ dùng dạy học cho từng tiết học căn cứ vào
danh mục đồ dùng dạy học hàng tuần do cán bộ thiết bị trường lập. Những vấn đề
đó (sau khi lập xong kế họach) được Ban giám hiệu ký duyệt trước một tần và các
thành viên trong tổ thực hiện. Đó chính là cơ sở pháp lý để kểm tra đánh giá việc
thực hiện kế hoặch bài học một cách chính xác, đả bảo tính hệ thống kiến thức,
đảm bảo mục tiêu từng bài học, tìm ra những phương pháp giảng dạy thích hợp
cho từng nội dung bài học có tính định hướng trước cho học sinh chuẩn bị học tập.
2. Biện pháp chỉ đạo công tác soạn bài để nâng cao chất lượng giảng dạy:
2.1. Nghiên cứu và xác định mục tiêu bài giảng:
Tổ chuyên môn được giao nhiệm vụ nghiên cứu, vạch kế hoặch bàn bạc
thống nhất cáh xác định mục tiêu cho các môn học sao cho phù hợp với đối tượng
học sinh và đảm bảo sát với yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng chung do bộ
giáo dục ban hành. Trước hết các tổ chuyên môn sinh hoạt ít nhất tháng 3 lần, ở đó
tài liệu về yêu cầu cơ bản về kiến thức và kĩ năng của các môn học được triển khai
đến từng thành viên, các cuộc họp này bao giờ cũng có đại diện Ban giám hiệu dự
để có ý kiến chỉ đạo cụ thể và kịp thời. Từ đó giúp giáo viên chỉ lại mục tiêu trong
sách giáo viên để phù hợp với tình hình học sinh trong lớp mình và đảm bảo yêu
cầu cơ bản tối thiểu so với mặt bằng chung. Có thể lấy ví dụ như sau: Một số bài
chính tả so sánh phân biệt các phụ âm. Ví dụ: Ở địa phương học sinh thường
không mắc lỗi thì đồng thời chỉnh cả nội dung và mục tiêu để dạy cho học sinh
những cặp phụ âm hay mắc lỗi hơn như tr/ch/, s/x hay l/n
2.2.Thống nhất cách trình bày bài soạn:
Thống nhất về nội dung và hình thức thể hiện các loại bài soạn. Với những
giáo viên khá giỏi, dạy lâu năm thì uyeeu cầu bài soạn khác với những giáo viên
mới ra trường. Hình thức trình bày bài soạn phải phù hợp với nội dung bài dạy. Từ
đầu năm học nhà trường phân công một số giáo viên có kinh nghiệm như tổ trưởng
chuyên môn, giáo viên dạy giỏi tham gia vào việc xây dựng cấu trúc bài soạn cho
từng môn học. Sau đó đưa ra lấy ý kiến tham khảo rộng rãi và thống nhất chung, in
thành tài liệu cho từng giáo viên để thực hiện. Nhờ đó mọi bài soạn của giáo viên
trong trường đều theo một cấu trúc thống nhất, chất lượng bài soạn được nâng lên
một bước góp phần vào nâng cao chất lượng dạy học.
2.3. Kiểm tra việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên:
Kiểm tra việc thống nhất cách soạn của từng môn học ở từng khối lớp. Các
dạng bài soạn giờ ôn tập, kiểm tra,thực hành. Yêu cầu về giáo án của giáo viên
mới ra trường, của các giáo viên giỏi, của các giáo viên cần cố gắng. Chọn câu hỏi
8
phát vấn, xác định kiến thức trọng tâm của bài cần khắc sâu, rèn kĩ năng gì? và đồ
dùng dạy học phải chuẩn bị.
Để quản lý tốt việc soạn bài và chuẩn bị giờ lên lớp của giáo viên, Ban giám
đã chọn các hình thức kiểm tra:
- Kiểm tra đột xuất.
- Kiểm tra trước giờ lên lớp.
- Kiểm tra sau dự giờ.
- Kiểm tra định kỳ cùng khối trưởng chuyên môn.
- Kiểm tra chéo trong buổi sinh hoạt chuyên môn.
- Kiểm tra đồ dùng trực quan cho giờ dạy.
- Trang thiết bị cho giờ dạy.
- Giờ học ngoài trời (Địa điểm học, kế hoạch quản lý học sinh).
2.4.Kiểm tra hoạt động tổ chuyên môn:
Nội dung kiểm tra gồm:
* Kiểm tra tổ trưởng:
- Nhận thức về vai trò của tổ chuyên môn, của tổ trưởng chuyên môn.
- Nhận định của tổ trưởng về từng tổ vi
* Kiểm tra hồ sơ chuyên môn:
- Các kế hoạch năm học năm học của tổ nhóm cá nhân.
- Các loại sổ biên bản sinh hoạt.
- Các kết quả điều tra cơ bản về học sinh và giáo viên.
* Nề nếp sinh hoạt tổ:
- Thông qua bài, nộp bài soạn.
- Thông báo việc thực hiện chương trình.
- Khối lượng dự giờ, việc chữa bài cho học sinh.
* Bồi dưỡng nhiệm vụ:
- Thực hiện các chuyên đề của nhà trường.
- Chuyên đề rút kinh nghiệm cả tổ nhóm.
* Chỉ đạo phong trào học tập:
- Bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Phụ đạo học sinh kém.
- Theo dõi học sinh yếu kém.
* Chất lượng dạy học:
- Trình độ kiến thức nghiệp vụ của tổ viên.
- Chất lượng học tập của tổ viên
9
Ban giám hiệu thống nhất hình thức kiểm tra:
- Dự sinh hoạt tổ xem việc thống nhất nội dung sinh hoạt cử tổ chuyên môn.
- Trao đổi, phỏng vấn tổ trưởng, giáo viên.
- Xem xét hồ sơ thi đua, chú ý tính hệ thống và tính thống nhất của tài liệu.
- Xem giáo án sổ điểm lớp.
- Nghe báo cáo, dự các buổi rút kinh nghiệm dự giờ.
- So sánh các hồ sơ.
- Dự giờ, khảo sát chất lượng.
Thành phần kiểm tra tổ chuyên môn ngoài Ban giám hiệu còn thêm cán bộ
cốt cán như Chủ tịch Công Đoàn, tổ trưởng các tổ chuyên môn. Khi kiểm tra xong
có biên bản kiểm tra.
3. Các giải pháp cụ thể để bài soạn có chất lượng:
* Biện pháp kĩ năng soạn bài:
Bài soạn là kế hoạch của giáo viên để dạy học từng tiết, nó thể hiện một cách
sinh động mối liên hệ giữa mục tiêu, nội dung, phương pháp và điều kiện dạy học.
Vì vậy để nâng cao chất lượng dạy học cho học sinh cần phải hình thành kỹ năng
soạn bài cho giáo viên. Kỹ năng soạn bày gồm các kỹ năng sau:
- Kỹ năng xác định mục tiêu bài dạy.(lưu ý kĩ năng hỗ trợ)
- Kỹ năng xác định nội dung và cấu trúc bài dạy.
- Kỹ năng xác định các thông tin (tranh ảnh, tài liệu …) phục vụ cho hoạt động
dạy học.
- Kỹ năng xác định các hoạt động dạy học (hình thức tổ chức, phương pháp
dạy học)
* Biện pháp xác định mục tiêu:
Về mục tiêu bài học bao gồm: Kiến thức, kỹ năng và thái độ. cần căn cứ
mục tiêu môn học và mức độ cần đạt của bài học cụ thể của đối tượng học sinh để
điều chỉnh (thêm, bớt) ở từng mục cho phù hợp.
- Khi điều chỉnh ở mục tiêu, giáo viên cần thể hiện ở các hoạt động học, tránh
mâu thuẩn (mục tiêu điều chỉnh, nội dung chép lại SGV)
- Phần bổ sung hỗ trợ chỉ khi cần thiết, tránh lạm dụng làm ảnh hưởng đến nội
dung của bài học.
Vậy giáo viên cần lưu ý: khi soạn bài, xem nội dung bài học để diễn đạt lại
mục tiêu cắt ở phần nào? Nói lại ở phần nào ? VD Tập đọc: Sách giáo viên yêu
cầu đọc thuộc cả bài, giáo viên tùy theo đối tượng học sinh theo chuẩn mà sửa lại
mục tiêu).
10
- Mục tiêu của việc lập kế hoạch bài học là làm rõ việc dạy cái gì, dạy vào lúc
nào, dạy như thế nào và học sinh cần học ra sao ? VD: Bài: “Mẫu giấy vụn” môn
kể chuyện lớp 2, GV chỉ yêu cầu học sinh biết thể hiện lời kể tự nhiên, không yêu
cầu phải phối hợp lời kể với điệu bộ, nét mặt, việc thay đổi giọng kể theo từng vai.
VD: Tiếng “nghiêm” trong bài Chính tả: “Ngôi trường mới”, học sinh hay viết
“ng” đơn, giáo viên phải phân tích “ngh” kép… Nếu lớp viết yếu phải chấm bài
100% để sửa lỗi cho các em.
- Mục tiêu được xây dựng theo một trình tự hợp lý trong một tiết dạy, có nội
dung ứng phó kịp thời và đón đầu những tình huống có thể xảy ra khi tổ chức giờ
học với những đối tượng học sinh cụ thể.
- Mục tiêu dạy học phải do học sinh thực hiện.
- Xác định mục tiêu đúng, cụ thể thì mới có căn cứ để đánh giá chất lượng,
hiệu quả học tập của học sinh.
- Khi xác định mục tiêu cần phải tính đến việc đánh giá theo chuẩn.
- Mục tiêu dạy học phải cụ thể, có khả năng đo được, đánh giá được.
- Mục tiêu mỗi hoạt động học phải xác định được mức độ thành công của học
sinh sau mỗi bài học đó.
* Biện pháp xác định cấu trúc bài dạy:
Xác định cấu trúc của bài dạy cần phụ thuộc vào sách giáo khoa và đặc điểm
của học sinh, điều kiện giảng dạy của nhà trường. Ví dụ: giáo viên có sách giáo
khoa, các tài liệu tham khảo với mức độ khác nhau, khi đó giáo viên sẽ chọn nội
dung dạy học theo cấu trúc sau:
- Mục tiêu bài giảng và những kĩ năng mà học sinh phải có được sau buổi học.
- Tài liệu (sách giáo khoa, các tài liệu bổ sung và tham khảo khác)
- Phương pháp và kĩ năng giảng dạy.
- Các bước và các bài tập dành cho học sinh/ tiến trình dạy. VD: Hoạt động 1
sẽ tiến hành bài tập nào…HĐ2….
- Sắp xếp công việc, các hoạt động tương tác trong lớp học (làm theo cặp hay
theo nhóm, cá nhân, cả lớp…)
- Sắp xếp công việc, các hoạt động tương tác trong lớp học (làm theo cặp hay
theo nhóm, cá nhân, cả lớp…)
- Thời gian dành cho từng bài tập ở mỗi hoạt động. VD: Câu 1a thảo luận
nhóm trong thời gian ? phút
- Các vấn đề dễ nảy sinh. VD: Ở bài tập câu b, có 1 HS đã đưa ra nhiều cách
giải khác nhau nhưng rất hợp lý và gây hứng thú học tập ,và thời gian của hoạt
11
động này được tăng lên. Vậy người giáo viên phải biết điều chỉnh hoạt động kế
tiếp sau cho đúng thời gian quy định.
- Một số bài tập và hoạt động dự trữ nếu tiết học còn thừa nhiều thời gian.
- Bài tập về nhà.
Đi vào cụ thể và chi tiết, trong quá trình và sau khi soạn xong một giáo án,
giáo viên cần trả lời được những câu hỏi sau đây:
- Đi đến những đâu? (mục tiêu của bài học)
- Làm thế nào để đi đến đó? (phương pháp dạy, kĩ năng, sắp xếp công việc)
- Sử dụng những phương tiện gì ? (tài liệu, các phương tiện hỗ trợ giảng dạy,
nguồn tài liệu…)
- Hướng đi có đúng không? (thời gian giảng dạy, bài tập ứng dụng…)
- Tự đánh giá kết quả dạy và học sau khi áp dụng giáo án giảng dạy đó?
* Nhóm giải pháp xác định nội dung bài học:
Để xác định tốt nội dung bài học theo Công văn 896/GD&ĐT-GDTH ngày
13/02/2006 của Bộ Giáo dục & Đào tạo, giáo viên phải biết nghiên cứu nội dung
bài học trong sách giáo khoa và xác định được:
- Nội dung chính, phụ trong bài dạy.
- Những sách, tài liệu có liên quan đến nội dung bài dạy. Khi dạy các bài tập
nâng cao cho học sinh, giáo viên cần biết rõ bài tập đó ở cuốn sách nào, nhà xuất
bản năm nào, có phù hợp với chương trình phổ thông không ?
- Đồ dùng trực quan phục vụ cho bài dạy.VD: Đưa tranh để giải nghĩa từ hay
giới thiệu bài. . .trò chơi học tập…
- Các ví dụ cụ thể được sử dụng trong bài soạn. (VD: khi sửa lỗi cho học sinh,
giáo viên cần soạn các ví dụ cụ thể như: - Em, (cháu) cảm ơn…ạ! Dùng để đáp
lời người trên, - Tôi ( tớ) cảm ơn… nhé! Dùng để đáp lời người dưới.)
- Độ khó của nội dung trong bài soạn. VD: Bài “Tìm Ngọc” các cụm từ “Chó
tranh ngậm ngọc….Mèo nhảy tới ngoạm ngọc đội ngọc trên đầu Quạ đớp
ngọc…” đều chỉ một động tác dấu ngọc của các con vật thông minh, giáo viên cần
hướng dẫn cho học sinh các tiếng trên đều là động từ chỉ hoạt động của các con
vật… Hoặc câu: “Những cánh hoa lấp ló trong cây” khác “Những cánh hoa lấp
ló trên cây)
- Nội dung tích hợp kĩ năng sống trong các bài học cho HS. VD: Trong các tiết
chào cờ, tiết học ngoài trời, các tiết sinh hoạt tập thể, giáo dục các em lòng yêu
nước, yêu văn hóa dân tộc, lòng biết ơn. Hay khi kiểm tra bài cũ công việc thường
xuyên trước mỗi tiết dạy giáo viên cũng có thể giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
12
như chỉnh đốn tác phong áo quần cho gọn gàng, ngay ngắn, nhắc nhở các em
cách đưa vở cho thầy cô bằng hai tay…
Sau đây là một bài sọan ngắn gọn có tích hợp kĩ năng sống:
Bài: TIẾT KIỆM NƯỚC (KH lớp 4, tuần 15): Bài soạn tích hợp KNS
I Mục tiêu:
- Kiến thức: Học sinh hiểu vì sao phải tiết kiệm nước
- Kĩ năng : HS biết cách thực hành tiết kiệm nước ở gia đình và nơi công cộng.
+ KNS: Xác định giá trị bản thân trong việc tiết kiệm, tránh lãng phí nước.
+ KNS: Đảm nhận trách nhiệm trong việc tiết kiệm, tránh lãng phí nước.
+ KNS: Bình luận về việc sử dụng nước, về tiết kiệm nước.
- Thái độ : Học sinh luôn có ý thức tiết kiệm, bảo vệ nguồn nước.
II/ Đồ dùng dạy-học: - Giấy khổ to, bút màu cho các nhóm
III/ Các hoạt động dạy-học:
Thời
lượng
Hoạt động của giáo viên Hoạt động của học sinh
1’
3’
27’
8’
9’
1. Ổn định tổ chức
2.Kiểm tra bài cũ: Gọi hs lên bảng trả
lời
1.Chúng ta cần làm gì để BV nguồn
nước?
- Nhận xét, cho điểm
3.Bài mới: Giới thiệu bài
Hoạt động 1: Tìm hiểu những biện pháp
bảo vệ nguồn nước.
- Hãy quan sát các hình trong
SGK/60,61, thảo luận nhóm đôi.
- Gọi một số hs trình bày kết quả.
Kết luận: Phê phán những việc làm sai
để tránh gây lãng phí nước.
Hoạt động 2: Tại sao phải thực hiện tiết
kiệm nước
- Y/c hs quan sát hình 7,8 SGK/61 (thảo
luận nhóm)
- Em nhìn thấy những gì trong hình 7,8?
- Theo em, bạn nam ở hình 7a nên làm
gì?
Vì sao?
- Vì sao chúng ta cần phải tiết kiệm
-1 HS lên bảng trả lời
- Lớp theo dõi nhận xét
- HS chỉ ra những việc nên
làm (khóa vòi nước,bịt ống
thủng…), không nên làm (bẻ
vòi,đổ nuớc )
- HS kể được một số hành vi
sai…
- QS hình vẽ, thảo luận nhóm
đôi
- Đại diện nhóm trình bày
*Những việc không nên làm:
xả nước tắm lãng phí…
* Việc nên làm: xả nước tắm
vừa phải.
- Bạn nam nên vặn vòi nước
vừa phải để tiết kiệm
nước,phải mất nhiều tiền và
13
10’
4’
nước?
- Gọi HS nêu trách nhiệm của bản thân
khi Quan sát các hình 7,8
Kết luận: Nước trong thiên nhiên là có
hạn. Tiết kiệm nước là tiết kiệm tiền
cho bản thân, vừa góp phần bảo vệ
nguồn tài nguyên nước.
Hoạt động 3: Vẽ tranh cổ động tuyên
truyền tiết kiệm nước
- Thảo luận nhóm 6 xây dựng bản cam
kết tiết kiệm nước,
+ Tìm ý cho nội dung tranh tuyên truyền.
+ Từng thành viên vẽ, từng phần của
tranh.
- Trình bày sản phẩm, các nhóm khác
nhận xét, bổ sung.
4.Củng cố, dặn dò:
- Gọi HS đọc ghi nhớ
- Vận động mọi người cùng tiết kiệm
nước
Nhận xét tiết học
công sức của nhiều người mới
có.
- Tiết kiệm nước để góp phần
bảo vệ tài nguyên nước
- HS nêu: dặn mọi người
không được xả nước ở nơi
công cộng , phải biết nhường
chỗ cho người khác dùng…
- Học sinh lắng nghe.
- Thảo luận nhóm 6:
HS biết bình luận về việc sử
dụng nước ( hành động đúng,
chưa đúng về tiết kiệm nước).
- HS Trình bày sản phẩm
- 2-3 HS đọc ghi nhớ SGK
- HS liên hệ thực tế
* Lưu ý: Những dòng in nghiêng là nội dung tích hợp kĩ năng sống.
- Nội dung được bổ sung hoặc được điều chỉnh trong bài soạn bổ sung.
- Trình tự các hoạt động của giáo viên, của học sinh.
- Hình thức dạy học (cá nhân, hợp tác theo nhóm nhỏ, …)
*Thiết kế giáo án bổ sung:
Để đạt yêu cầu, đủ điều kiện được miễn soạn giáo án, được sử dụng giáo án
cũ soạn bổ sung giáo viên cần hiểu và trả lời được các câu hỏi sau:
1. Vì sao phải đổi mới cách soạn giáo án của giáo viên tiểu học bằng cách
điều chỉnh và bổ sung ?
2. Như thế nào là soạn giáo án có điều chỉnh, bổ sung ?
3. Việc soạn giáo bổ sung có tác dụng như thế nào ?
Theo công văn 896 đã chỉ đạo đổi mới cách soạn giáo án để giáo viên có
thời gian tập trung vào công tác giáo dục. Giáo án cần ngắn gọn nhưng có nhiều
thông tin (có thể chỉ khoảng một trang giấy A4) theo CV 138/SGD&ĐT/2007 vì
vậy giáo viên cần tập trung vào nghiên cứu và soạn ở các phần cơ bản sau:
14
- Nội dung cần đầy đủ thông tin, nêu rõ mục tiêu (nội dung hỗ trợ cho học sinh
cá biệt hay trẻ em có hoàn cảnh khó khăn : VD: Khi dạy phân môn tập đọc, lớp 2,
ở hoạt động luyện đọc cho học sinh đọc từ khó trước, đọc nối tiếp sau, hỗ trợ
phương ngữ, l/n cho học sinh miền Bắc dấu hỏi, dấu ngã cho học sinh miền
Trung, miền Nam hoặc em miền Bắc sửa cho em miền Nam
- Nêu rõ yêu cầu thiết bị đồ dùng dạy học (thiết bị, đồ dùng dạy học của thầy
và trò: VD; Đồ dùng của GV tranh ảnh…, bảng phụ…; học sinh phiếu cá nhân,
sách giáo khoa)
- Dự kiến hình thức tổ chức hoạt động học tập, xác định nội dung, phương
pháp giảng dạy.( Hoạt động nhóm hay phiếu, bảng con )
- Yêu cầu cần đạt đối với từng nhóm đối tượng học sinh (kể cả học sinh cá
biệt).
- Chi tiết từng nội dung ngắn gọn, từng lời nói súc tích , giới thiệu bài trực
tiếp hay gián tiếp, tiểu kết, chuyển ý sát nội dung.
- Nắm được khả năng học tập của từng học sinh để xác định nội dung cụ thể
của bài học.
- Dạy nội dung bài học mới dựa trên kiến thức, kĩ năng của học sinh đạt được
ở bài học trước và đảm bảo vừa đủ để tiếp thu bài học tiết sau.
Giáo án điện tử là giáo án có sự trợ giúp của các phương tiện dạy học hiện
đại, nội dung cần thể hiện được tính tích cực trong học tập của học sinh trong mỗi
hoạt động. Vậy để đáp ứng yêu cầu đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả
trong dạy học, giáo viên cần tiếp cận và soạn được giáo án điện tử.
Vậy muốn soạn được giáo án điện tử, giáo viên phải có kĩ năng chọn bài để
soạn giảng, vì không phải bài nào cũng soạn được giáo án điện tử.
- Phải đặt căn cứ vào mục tiêu của bài dạy để từ đó có hướng thiết kế bằng
giáo án điện tử hay giáo án truyền thống. (VD những bài học cần kĩ năng thực
hành như kĩ năng thực hiện phép tính, đặt tính, kĩ năng luyện viết … thì không nên
soạn giáo án điện tử).
- Nắm được bố cục bài soạn của một giáo án soạn điện tử. (Các slide, texbox,
giao diện, kết nối hình ảnh, âm thanh, video giữa các pause…)
- Nếu bài nào dạy bắt buộc phải dùng đến bảng nhiều thì không nên thiết kế
giáo án điện tử bởi như thế sẽ mất nhiều thời gian, tốn kém mà hiệu quả lại không
cao.
15
- Thit k phi m bo tớnh khoa hc, ni dung va ngn gn va d hiu,
(hỡnh nh gn gi, d nh, cỏc phiu bi tp, bng ph c thit k bi cỏc hiu
ng trc tip), lm gim thi gian trỡnh chiu, tng hiu qu hc tp cho hc sinh.
- Khi trỡnh chiu cng cn cú ngh thut, tựy ni dung m a ra trc hay sau
hoc cựng lỳc vi li núi ca giỏo viờn.
- Giỏo viờn cn thuc kch bn v vn cú th i li trong lp, khụng nht thit
phi ng cnh mỏy tớnh.
- Khi trỡnh chiu, giỏo viờn cng cn theo dừi lờn mn hỡnh, khụng nờn theo dừi
mỏy ch.
4. Đổi mới cách soạn bài:
4.1. So sánh hai cách soạn bài sau:
Soạn bài theo phơng pháp thụ động Soạn bài theo phơng pháp tích cực
+ Giáo viên dự kiến chủ yếu là những
hoạt động trên lớp của chính mình
(thuyết trình, giảng giải, viết bảng, vẽ sơ
đồ, biểu diễn phơng tiện trực quan),
có hình dung chút ít về những hành
động hởng ứng của học sinh (sẽ trả lời
câu hỏi nêu ra nh thế nào, có thể nêu ra
thắc mắc gì, sẽ nhận xét gì khi xem giáo
viên biểu diễn phơng tiện trực quan).
+ Giáo viên phải tính toán kĩ trình tự các
hoạt động trên lớp của chính mình sao
cho hợp lý, tiết kiệm thời gian để chủ
động hoàn thành tiết học đúng giờ.
+ Thông tin đi theo một chiều, chủ yếu
là từ thầy đến trò cho nên giáo viên có
thể hoàn toàn kiểm soát đợc tiến độ bài
học. GV vận dụng vốn hiểu biết và kinh
nghiệm của mình để cố làm cho học
sinh hiểu và nhớ nội dung quy đinh
trong SGK.
+ Những dự kiến của giáo viên phải tập
trung chủ yếu vào các hoạt động của
học sinh (quan sát vật mẫu, tiến hành thí
nghiệm, giải bài toán nhận thức), trên
cơ sở đó giáo viên hình dung sẽ phải tổ
chức các hoạt động của học sinh nh thế
nào (giao bài tập cho cá nhân hay theo
nhóm, biểu diễn thí nghiệm cho học
sinh quan sát rút ra nhận xét hay tổ chức
cho học sinh trực tiếp làm thí nghiệm để
tự rút ra kết luận).
+ Giáo viên phải suy nghĩ công phu về
những khả năng diễn biến các hoạt động
đề ra cho học sinh, dự kiến những giải
pháp điều chỉnh để không bị cháy giáo
án.
+ Bài học đợc xây dựng từ những đóng
góp của học sinh thông qua những hoạt
động do giáo viên tổ chức, khai thác vốn
hiểu biết và kinh nghiệm của từng học
sinh và tập thể lớp, tăng cờng mối liên
hệ ngợc từ trò đến thày và mối liên hệ
ngang giữa trò với trò. Trong trờng hợp
này GV phải có kinh nghiệm s phạm
mới làm chủ đợc tiết học.
16
4.2. Những yêu cầu cần đổi mới
4.2.1. Về mặt phơng pháp:
Cần vận dụng các phơng pháp tích cực phù hợp với:
- Nội dung bài học
- Trình độ học sinh
- Phơng tiện, thiết bị dạy học
4.2.2. Về mặt kĩ thuật
Tập trung vào việc sử dụng câu hỏi và sử dụng các phiếu học tập.
a) Về sử dụng câu hỏi
Để phát triển các phơng pháp tích cực, trong khâu soạn bài cần coi trọng
chuẩn bị các câu hỏi.
- Tránh đặt câu hỏi ở chỗ dễ hỏi mà phải đặt câu hỏi ở chỗ cần hỏi, câu hỏi có
yêu cầu cao về nhận thức.
- Tránh tuỳ tiện đặt câu hỏi tức thì tại lớp mà cần phải chuẩn bị trớc câu hỏi đặc
biệt câu hỏi có yêu cầu cao về nhận thức.
- Cần có một số câu hỏi then chốt nhằm vào những mục đích nhận thức xác
định, đặc biệt ở các phần trọng tâm, trên cơ sở đó khi lên lớp sẽ phát triển thêm
những câu hỏi phụ tuỳ thuộc vào diễn biến của tiết học.
b) Về sử dụng phiếu học tập
Để tổ chức các hoạt động học tập của học sinh, giỏo viờn cần sử dụng các
phiếu học tập.
- Mỗi phiếu hoc tập giao cho học sinh một vài nhiệm vụ nhận thức cụ thể nhằm
dẫn dắt tới một kiến thức, tập dợt một kĩ năng, rèn luyện một thao tác t duy hoặc
thăm dò thái độ của học sinh trớc một vấn đề.
- Qua công tác làm việc độc lập với các phiếu học tập học sinh đợc phát triển
các kĩ năng t duy (quan sát, so sánh, phân tích, quy nạp, khái quát hoá, suy luận, đề
xuất giả thuyết).
Túm li: Cốt lõi của giáo án đổi mới là phần thiết kế các hoạt động giúp hc
sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung bài học. Hình thức trình bày giáo án (mấy cột, mấy
bớc) có thể thay đổi tuỳ theo trình độ, kinh nghiệm, thói quen của giỏo viờn, tuỳ
theo sự chỉ đạo thống nhất của chuyên môn từng nhà trờng.
V sau õy l mt gi dy c thit k theo nh hng i mi
phng phỏp dy hc:
i mi chng trỡnh giỏo dc v cựng vi nú l i mi phng phỏp dy
hc v i mi ỏnh giỏ l nhng phng din th hin s quyt tõm cỏch tõn,
em li nhng thay i v cht lng v hiu qu giỏo dc. V khớa cnh hot
ng, tt c nhng i mi ny u c biu hin sinh ng trong mi gi hc
qua hot ng ca ngi dy v ngi hc. Chớnh vỡ th nhng cõu hi nh: Lm
th no cú mt gi hc tt ? ỏnh giỏ mt gi hc tt nh th no cho chớnh
17
xác, khách quan, công bằng luôn có tính chất thời sự và thu hút sự quan tâm của
tất cả các giáo viên và cán bộ quản lí giáo dục.
Một giờ học tốt là một giờ học phát huy được tính tích cực, tự giác, chủ
động, sáng tạo của cả người dạy và người học nhằm nâng cao tri thức, bồi dưỡng
năng lực hợp tác, năng lực vận dụng tri thức vào thực tiễn, bồi dưỡng phương
pháp tự học, tác động tích cực đến tư tưởng, tình cảm, đem lại hứng thú học tập
cho người học. Ngoài những yêu cầu có tính chất truyền thống như: bám sát mục
tiêu giáo dục, nội dung dạy học, đặc trưng môn học; phù hợp với đặc điểm tâm
sinh lí lứa tuổi học sinh; giờ học đổi mới phương pháp dạy học còn có những yêu
cầu mới như: được thực hiện thông qua việc giáo viên tổ chức các hoạt động học
tập cho học sinh theo hướng chú ý đến việc rèn luyện phương pháp tư duy, khả
năng tự học, nhu cầu hành động và thái độ tự tin; được thực hiện theo nguyên tắc
tương tác nhiều chiều: giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với nhau (chú
trọng cả hoạt động dạy của người dạy và hoạt động học của người học).
Về bản chất, đó là giờ học có sự kết hợp giữa học tập cá thể (hình thức học
cá nhân) với học tập hợp tác (hình thức học theo nhóm, theo lớp); chú trọng kết
hợp học với hành, nâng cao tri thức với rèn luyện các kỹ năng, gắn với thực tiễn
cuộc sống; phát huy thế mạnh của các đổi mới phương pháp dạy học tiên tiến, hiện
đại; các phương tiện, thiết bị dạy học và những ứng dụng của công nghệ thông
tin…; chú trọng cả hoạt động đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh.
Ngoài việc nắm vững những định hướng đổi mới đổi mới phương pháp dạy
học như trên, để có được những giờ dạy học tốt, người giáo viên cần phải nắm
vững các kĩ thuật dạy học. Chuẩn bị và thiết kế một giờ học cũng là một hoạt động
cần có những kĩ thuật riêng.
1. Quy trình chuẩn bị một giờ học:
Hoạt động chuẩn bị cho một giờ dạy học đối với giáo viên thường được thể
hiện qua việc chuẩn bị giáo án. Đây là hoạt động xây dựng kế hoạch dạy học cho
một bài học cụ thể, thể hiện mối quan hệ tương tác giữa giáo viên với học, giữa
học sinh với học sinh nhằm đạt được những mục tiêu của bài học. Căn cứ trên giáo
án, có thể vừa đánh giá được trình độ chuyên môn và tay nghề sư phạm của giáo
viên vừa thấy rõ quan niệm, nhận thức của họ về các vấn đề giáo dục như: mục
tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, cách sử dụng đổi mới phương pháp dạy học, thiết
bị dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách đánh giá kết quả học tập của học
sinh trong mối quan hệ với các yếu tố có tính chất tương đối ổn định như: kế
hoạch, thời gian, cơ sở vật chất và đối tượng học sinh. Chính vì thế, hoạt động
18
chuẩn bị cho một giờ học có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng, quyết định nhiều tới
chất lượng và hiệu quả giờ dạy học.
Từ thực tế dạy học, có thể tổng kết thành quy trình chuẩn bị một giờ học với
các bước thiết kế một giáo án và khung cấu trúc của một giáo án cụ thể như sau:
a. Các bước thiết kế một giáo án:
Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học: Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng
và yêu cầu về thái độ trong chương trình. Bước này được đặt ra bởi việc xác định
mục tiêu của bài học là một khâu rất quan trọng, đóng vai trò thứ nhất, không thể
thiếu của mỗi giáo án. Mục tiêu (yêu cầu) vừa là cái đích hướng tới, vừa là yêu cầu
cần đạt của giờ học; hay nói khác đi đó là thước đo kết quả quá trình dạy học. Nó
giúp giáo viên xác định rõ các nhiệm vụ sẽ phải làm (dẫn dắt học sinh tìm hiểu,
vận dụng những kiến thức kĩ năng nào ?; Phạm vi, mức độ đến đâu; qua đó giáo
dục cho học sinh những bài học gì).
Bước 2: Nghiên cứu sách giáo khoa và các tài liệu liên quan: Để hiểu chính
xác, đầy đủ những nội dung của bài học; xác định những kiến thức, kĩ năng thái độ
cơ bản cần hình thành và phát triển ở học sinh; xác định trình tự logic của bài học.
Bước này được đặt ra bởi nội dung bài học ngoài phần được trình bày trong
sách giáo khoa còn có thể đã được trình bày trong các tài liệu khác. Kinh nghiệm
của các giáo viên lâu năm cho thấy: trước hết nên đọc kĩ nội dung bài học và
hướng dẫn tìm hiểu bài trong sách giáo khoa để hiểu, đánh giá đúng nội dung bài
học rồi mới chọn đọc thêm tư liệu để hiểu sâu, hiểu rộng nội dung bài học. Mỗi
giáo viên không chỉ có kĩ năng tìm đúng, tìm trúng tư liệu cần đọc mà cần có kĩ
năng định hướng cách chọn, đọc tư liệu cho học sinh, giáo viên nên chọn những tư
liệu đã qua thẩm định, được đông đảo các nhà chuyên môn và giáo viên tin cậy.
Việc đọc sách giáo khoa, tài liệu phục vụ cho việc soạn giáo án có thể chia thành 3
cấp độ sau: Đọc lướt để tìm nội dung chính xác định những kiến thức, kĩ năng cơ
bản, trọng tâm mức độ yêu cầu và phạm vi cần đạt; đọc để tìm những thông tin
quan tâm: các mạch, sự bố cục, trình bày các mạch kiến thức, kĩ năng và dụng ý
của tác giả; đọc để phát hiện và phân tích, đánh giá các chi tiết trong từng mạch
kiến thức, kĩ năng.
Thực ra khâu khó nhất trong đọc sách giáo khoa và các tư liệu là đúc kết
được phạm vi, mức độ kiến thức, kĩ năng của từng bài học sao cho phù hợp với
năng lực của học sinh và điều kiện dạy học. Trong thực tế dạy học, nhiều khi
chúng ta thường đi chưa tới hoặc đi quá những yêu cầu cần đạt về kiến thức, kĩ
năng. Nếu nắm vững nội dung bài học, giáo viên sẽ phác họa những nội dung và
19
trình tự nội dung của bài giảng phù hợp, thậm chí có thể cải tiến cách trình bày các
mạch kiến thức, kĩ năng của sách giáo khoa, xây dựng một hệ thống câu hỏi, bài
tập giúp học sinh nhận thức, khám phá, vận dụng các kiến thức, kĩ năng trong bài
một cách thích hợp.
Bước 3: Xác định khả năng đáp ứng các nhiệm vụ nhận thức của học sinh:
gồm: xác định những kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã có và cần có; dự kiến
những khó khăn, những tình huống có thể nảy sinh và các phương án giải quyết.
Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định hướng đổi mới đổi mới phương
pháp dạy học, giáo viên không những phải nắm vững nội dung bài học mà còn
phải hiểu học sinh để lựa chọn đổi mới phương pháp dạy học, phương tiện dạy
học, các hình thức tổ chức dạy học và đánh giá cho phù hợp.
Như vậy, trước khi soạn giáo án cho giờ học mới, giáo viên phải lường trước
các tình huống, các cách giải quyết nhiệm vụ học tập của học sinh. Nói cách khác,
tính khả thi của giáo án phụ thuộc vào trình độ, năng lực học tập của học sinh,
được xuất phát từ: những kiến thức, kĩ năng mà học sinh đã có một cách chắc
chắn, vững bền; những kiến thức, kĩ năng mà học sinh chưa có hoặc có thể quên;
những khó khăn có thể nảy sinh trong quá trình học tập của học sinh. Bước này chỉ
là sự dự kiến; nhưng trong thực tiễn, có nhiều giờ học do không dự kiến trước,
giáo viên đã lúng túng trước những ý kiến không đồng nhất của học sinh với
những biểu hiện rất đa dạng. Do vậy, dù mất công nhưng mỗi giáo viên nên dành
thời gian để xem qua bài soạn của học sinh trước giờ học kết hợp với kiểm tra
đánh giá thường xuyên để có thể dự kiến trước khả năng đáp ứng các nhiệm vụ
nhận thức cũng như phát huy tích cực vốn kiến thức, kĩ năng đã có của học sinh.
Bước 4: Lựa chọn đổi mới phương pháp dạy học: Phương tiện dạy học, hình
thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích hợp nhằm giúp học sinh học tập
tích cực, chủ động, sáng tạo. Bước này được đặt ra bởi trong giờ học theo định
hướng đổi mới đổi mới phương pháp dạy học, giáo viên phải quan tâm tới việc
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả
năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những tình huống
khác nhau trong học tập và trong thực tiễn; tác động đến tư tưởng và tình cảm để
đem lại niềm vui, hứng thú trong học tập cho học sinh. Trong thực tiễn dạy học
hiện nay, các giáo viên vẫn quen với lối dạy học đồng loạt với những nhiệm vụ
học tập không có tính phân hoá, ít chú ý tới năng lực học tập của từng đối tượng
học sinh. Đổi mới đổi mới phương pháp dạy học sẽ chú trọng cải tiến thực tiễn
này, phát huy thế mạnh tổng hợp của các đổi mới phương pháp dạy học, phương
20
thức, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá nhằm tăng cường sự tích
cực học tập của các đối tượng học sinh trong giờ học.
Bước 5: Thiết kế giáo án: Đây là bước người giáo viên bắt tay vào soạn giáo
án - thiết kế nội dung, nhiệm vụ, cách thức hoạt động, thời gian và yêu cầu cần đạt
cho từng hoạt động dạy của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh.
Trong thực tế, có nhiều giáo viên khi soạn bài thường chỉ đọc sách giáo
khoa, sách giáo viên và bắt tay ngay vào hoạt động thiết kế giáo án; thậm chí, có
giáo viên chỉ căn cứ vào những gợi ý của sách giáo viên để thiết kế giáo án bỏ qua
các khâu xác định mục tiêu bài học, xác định khả năng đáp ứng nhiệm vụ học tập
của học sinh, nghên cứu nội dung dạy học, lựa chọn các đổi mới phương pháp dạy
học, phương tiện dạy học, hình thức tổ chức dạy học và cách thức đánh giá thích
hợp nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động, sáng tạo. Cách làm như vậy
không thể giúp giáo viên có được một giáo án tốt và có những điều kiện để thực
hiện một giờ dạy học tốt. Về nguyên tắc, cần phải thực hiện qua các bước 1, 2, 3, 4
trên đây rồi hãy bắt tay vào soạn giáo án cụ thể.
b. Cấu trúc của một giáo án được thể hiện ở các nội dung sau:
* Mục tiêu bài học:
+ Nêu rõ yêu cầu học sinh cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ;
+ Các mục tiêu được biểu đạt bằng động từ cụ thể, có thể lượng hoá được.
* Chuẩn bị về phương pháp và phương tiện dạy học:
+ GV chuẩn bị các thiết bị dạy học (tranh ảnh, mô hình, hiện vật, hoá chất ),
các phương tiện dạy học (máy chiếu, TV, đầu video, máy tính, máy projector ) và
tài liệu dạy học cần thiết;
+ Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài
liệu và đồ dùng học tập cần thiết). Tổ chức các hoạt động dạy học: Trình bày rõ
cách thức triển khai các hoạt động dạy- học cụ thể. Với mỗi hoạt động cần chỉ rõ:
+ Tên hoạt động ;
+ Mục tiêu của hoạt động;
+ Cách tiến hành hoạt động;
+ Thời lượng để thực hiện hoạt động;
+ Kết luận của giáo viên về: những kiến thức, kĩ năng, thái độ học sinh cần có
sau hoạt động; những tình huống thực tiễn có thể vận dụng kiến thức, kĩ năng, thái
độ đã học để giải quyết; những sai sót thường gặp; những hậu quả có thể xảy ra
nếu không có cách giải quyết phù hợp;
* Hướng dẫn các hoạt động tiếp nối:
21
Xác định những việc học sinh cần phải tiếp tục thực hiện sau giờ học để
củng cố, khắc sâu, mở rộng bài cũ hoặc để chuẩn bị cho việc học bài mới.
2. Thực hiện giờ dạy học:
Một giờ dạy học nên được thực hiện theo các bước cơ bản sau:
a. Kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh:
- Kiểm tra tình hình nắm vững bài học cũ và những kiến thức, kĩ năng đã học
có liên quan đến bài mới.
- Kiểm tra tình hình chuẩn bị bài mới (soạn bài, làm bài tập, chuẩn bị tài liệu
và đồ dùng học tập cần thiết).
Lưu ý: Việc kiểm tra sự chuẩn bị của học sinh có thể thực hiện đầu giờ học
hoặc có thể đan xen trong quá trình dạy bài mới.
b. Tổ chức dạy và học bài mới:
- Gióa viên giới thiệu bài mới: Nêu nhiệm vụ học tập và cách thức thực hiện để
đạt được mục tiêu bài học; tạo động cơ học tập cho học sinh.
- Giáo viên tổ chức, hướng dẫn học sinh suy nghĩ, tìm hiểu, khám phá và lĩnh
hội nội dung bài học, nhằm đạt được mục tiêu bài học với sự vận dụng phương
pháp dạy học phù hợp.
c. Luyện tập, củng cố:
Giáo viên hướng dẫn học sinh củng cố, khắc sâu những kiến thức, kĩ năng,
thái độ đã có thông qua hoạt động thực hành luyện tập có tính tổng hợp, nâng cao
theo những hình thức khác nhau.
d. Đánh giá:
- Trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu bài học, giáo viên dự kiến một số câu hỏi,
bài tập và tổ chức cho học sinh tự đánh giá về kết quả học tập của bản thân và của
bạn.
- Giáo viên đánh giá, tổng kết về kết quả giờ học.
e. Hướng dẫn học sinh học bài, làm việc ở nhà:
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện tập, củng cố bài cũ (thông qua làm bài
tập, thực hành, thí nghiệm,…).
- Giáo viên hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài học mới.
Lưu ý: Tùy theo đặc trưng môn học, nội dung dạy học, đặc điểm và trình độ
học sinh, điều kiện cơ sở vật chất… Giáo viên có thể vận dụng các bước thực hiện
một giờ dạy học như trên một cách linh hoạt và sáng tạo, tránh đơn điệu, cứng
nhắc.
22
Sự thành công của một giờ dạy theo định hướng đổi mới phương pháp dạy
học phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó quan trọng nhất là sự chủ động, linh
hoạt, sáng tạo của cả người dạy và cả người học. Những phần trình bày trên đây
chỉ là những kinh nghiệm được đúc kết từ thực tiễn chỉ đạo triển khai đổi mới
phương pháp dạy học trong nhiều năm qua ở trường phổ thông, là những điều mà
các giáo viên, các đơn vị có thành tích tốt trong dạy học đã làm mà tôi đã được học
hỏi. Dù ở điều kiện và hoàn cảnh nào, sự chuẩn bị chu đáo theo quy trình trên đều
đem lại những giờ học có hiệu quả, bổ ích và hứng thú đối với cả người dạy, người
học.
Đại hội chi bộ khóa 3 - Chi bộ trường TH
23
Giáo viên nhà trường tham gia “Hội thi nét đẹp nhà giáo” năm 2013 (Đứng thứ 3 từ
trái sang)
PHẦN III: PHẦN KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
a. Kết luận:
Qua phân tích thực trạng công tác soạn bài ở trường tiểu học bản
thân tôi đã nhận thấy Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức kiểm tra công tác soạn
bài đúng với quy trình, với văn bản cấp trên. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện
của giáo viên vẫn còn một số hạn chế trong việc tổ chức kiểm tra còn lúng túng,
còn mang tính hình thức, kiểm tra đủ với số lượng kế hoạch đề ra song thiếu tính
hiệu quả. Nên trong thời gian tới bản thân làm chuyên môn nên có các giải pháp
cụ thể:
- Dựa vào năng lực của giáo viên để bố trí vào giảng dạy ở khối lớp 1, lớp 2
và 3; lớp 4 và lớp 5.
- Tổ chức thường xuyên hơn các chuyên đề về soạn giáo án.
- Xây dựng kế hoạch ở các khối về lập kế hoạch bài dạy.
- Tổ chức các cuộc thi như: Thi giáo án tốt, thi soạn giáo án điều chỉnh, bổ
sung, thi soạn giáo án diện tử.
- Tổ chức kiểm tra đánh giá năng lực của giáo viên:
24
+ Kiểm tra việc soạn giảng.
+ Đánh giá giờ dạy.
+ Kiểm tra thực tế dạy trên lớp của giáo viên.
- Sau khi kiểm tra, nhà trường luôn thực hiện công tác tư vấn, thúc đẩy cho
giáo viên thông qua các việc làm cụ thể của họ. Thông qua hội thảo trong sinh
hoạt tổ, sinh hoạt chuyên môn.
b. Khuyến nghị:
+ Với cấp trường:
- Hiệu trưởng nên họp, duyệt tổ chức nhiều chuyên đề về công tác chuyên
môn về công tác thiết kế kế hoạch bài học rút kinh nghiệm để thực hiện tốt.
- Bố trí và sắp xếp thời gian phù hợp, có kế hoạch ưu tiên để giáo viên phát
huy hơn công tác giảng dạy giáo án điện tử làm tốt công tác ứng dung công nghệ
thông tin vào dạy học.
- Có thể sử dụng các hình thức, thời điểm thực hiện việc kiểm tra để điều chỉnh
các sai sót một cách kịp thời (nếu có).
- Khuyến khích giáo viên mạnh dạn hơn trong đổi mới nội dung và phương
pháp dạy học, thi đua soạn nhiều giáo án tốt, giờ dạy hay, thi làm đồ dùng dạy học,
thi soạn giáo án tinh giản trên một mặt giấy A4, thi thiết kế giáo án điện tử, và tổ
chức chuyên đề soạn giáo án bổ sung, chuyên đề soạn giáo án tích hợp giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh và hướng cho giáo viên hiểu, xem đây là một hoạt động bổ
ích, đem lại kết quả thiết thực trong công tác dạy và học.
+ Với cấp trên:
- Tăng thêm thời lượng công tác tập huấn về chuyên môn nhất là đối với giáo
viên dạy theo vùng, miền.
Tôi không dám chủ quan nghĩ đề tài này áp dụng rộng rãi cho các trường bạn
nhưng đối với một trường chuyên môn chưa mạnh như trường tôi hiện nay, thiết
nghĩ, sáng kiến sẽ hữu dụng cho công tác soạn bài của giáo viên vì nó rất phù hợp
với thực tế của địa phương và nhà trường như trường tiểu học Trong quá
trình làm đề tài, do kinh nghiệm còn thiếu nên không thể tránh được sai sót, rất
mong được sự góp ý của các lãnh đạo cũng như đồng nghiệp.
, ngày 22 tháng 11 năm 2012
Người hoàn thành đề tài
TÀI LIỆU THAM KHẢO
25