Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Quản lý chi bảo hiểm xã hội tại bảo hiểm xã hội tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.96 KB, 66 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo hiểm nói chung hay Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Bảo hiểm thất
nghiệp, Bảo hiểm thương mại nói riêng đều mang lại nhưng lợi ích kinh tế - xã
hội thiết thực. Trước hết bảo hiểm góp phần ổn định tài chính cho người tham
gia trước tổn thất do rủi ro gây ra, đề phòng và hạn chế tổn thất gúp cho cuộc
sống con người an toàn hơn, xã hội trật tự hơn giảm bớt nỗi lo cho mỗi cá nhân,
mỗi doanh nghiệp, góp phần ổn định chi tiêu của ngân ngân sách Nhà nước, còn
là phương thức huy động vốn để đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, góp phần
thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế giữa các nước thông qua hoạt động tái bảo
hiểm, bảo hiểm còn thu hút số lượng lao động nhất định của xã hội, là chỗ dựa
tinh thần cho mọi người, mọi tổ chức.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) tỉnh Cao Bằng trực thuộc Bảo hiểm xã hội
Việt Nam là một trong những bộ phận nằm trong hệ thống của BHXH Việt
Nam. Qua 15 năm xây dựng và phát triển BHXH tỉnh Cao Bằng đã đạt được
những thành công lớn như: số thu và số người lao động tham gia BHXH tăng
lên hàng năm, nguồn chi trả được quản lý chặt chẽ, chi đúng chi đủ và kịp thời
đến tận tay người lao động tạo ra sự an tâm và tin tưởng cho người lao động
tham gia BHXH. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động BHXH tỉnh Cao Bằng
cũng gặp rất nhiều khó khăn, hạn chế trong việc quản lý nguồn chi BHXH, vì
vậy việc tìm ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý
nguồn chi của BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH, đề xuất các giải
pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong hoạt động chi trả để hoạt động
này ngày càng có hiệu quả, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế - xã hội ở
tỉnh Cao Bằng là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của các cán bộ công chức
ngành BHXH. Vì vậy trong thời gian thực tập tại BHXH tỉnh Cao Bằng tôi
chọn đề tài “Quản lý chi BHXH tại BHXH tỉnh Cao Bằng” làm đề tài viết
chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo và bảng kê các chữ viết tắt gồm có 3 chương:
1
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về BHXH và quản lý chi BHXH.


Chương 2: Thực trạng quản lý chi BHXH tại BHXH tỉnh Cao Bằng
giai đoạn 2007-2010.
Chương 3: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác
quản lý chi BHXH tại BHXH tỉnh Cao Bằng.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI VÀ QUẢN LÝ CHI
BẢO HIỂM XÃ HỘI

I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI.
1. Sự cần thiết khách quan và sự nghiệp phát triển BHXH
Trong cuộc sống để tồn tại trước hết con người cần phải ăn, mặc, ở đó là
những nhu cầu thiết yêu trong cuộc sống hàng ngày. Muốn được vậy con người
cần phải lao động để làm ra những của cải vật, chất phục vụ cho sinh hoạt hàng
ngày. Để lao động được con người cần có sức khỏe, xong trong cuộc sống thực
tế không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi, không phải người lao động nào cũng
có đủ điều kiện sức khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn để hoàn
thành công việc, công tác, tạo nên cho gia đình một cuộc sống no ấm, hạnh
phúc. Ngược lại không mấy ai tránh được những rủi ro bất hạnh như ốm đau, tai
2
nạn, thương tật cần có người chắm sóc, cần có tiền để trang trải thuốc men. Vì
thế con người muốn giảm bớt gánh nặng tiền bạc. Muốn an tâm ổn định cuộc
sống con người tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như san sẻ, đùm bọc lẫn
nhau, đi vay đi xin hoặc dựa vào sự cứu trợ của Nhà nước. Đây là những cách
chắc chắn nhưng thụ động.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên
phổ biến, cùng với đó là quan hệ giữa người chủ sử dụng lao động và người lao
động nảy sinh thêm mâu thuẫn. Người lao động ngoài việc được trả tiền công
lao động họ còn đòi hỏi một khoản thu nhập khi họ ốm đau, tai nạn, sinh con…
Trong thực tế nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không

phải chi một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra
một lúc nhiều khoản tiền lớn mà họ không muốn. Để điều hòa mâu thuẫn trên,
Nhà nước buộc cả giới chủ và thợ phải đóng một khoản tiền nhất định hàng
tháng được tính toán chặt chẽ dưa trên cơ sở xác suất xảy ra đối với người làm
thuê. Từ đó hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia.
Quỹ này còn được bổ sung từ NSNN khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho
người lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan
hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao động được dàn trải, cuôc sống
của người lao động và gia đình họ ngày càng được ổn định. Người sử dụng lao
động cũng có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh doanh lại diễn ra bình thường,
tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ tền tệ này được
thiết lập ngày càng lớn và nhanh chóng, khả năng giải quyết những phát sinh
lớn của quỹ ngày càng cao.
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên được gọi là BHXH đối với người lao động. Như vậy BHXH là một trong
những biện pháp nhằm khắc phục khó khăn về tài chính của người lao động khi
họ gặp phải rủi ro và được coi là biện pháp hữu hiệu nhất. Có thể nói rằng sự
suất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã
hội đều cản thấy sự cần thiết phải tham gia vào hệ thống BHXH và sự cần thiết
3
phải tiến hành bảo hiểm cho người lao động. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu
cầu và quyền của người lao động, được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu, một
trong những quyền lợi của con người như trong bản tuyên ngôn nhân quyền của
hội đồng liên hợp quốc họp thông qua ngày 10/12/1948 đã nêu: “Tất cả mọi
người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”.
Ra đời thế kỷ 13 ở Nam Âu đến nửa cuối thế kỷ 19 có thể coi như là
một mốc phát triển của BHXH với hệ thống BHXH lớn đầu tiên của chính phủ
Đức dưới thời thủ tướng Bismasch. Năm 1850 ở Đức có nhiều bang lập quỹ ốm
đau và bắt buộc công nhân phải đóng góp để dự phòng khi mất thu nhập vì ố
đau, bệnh tật. Lúc này chỉ có người được hưởng bảo hiểm phải đóng góp. Năm

1883 chuyển quỹ ốm đau này cho hội Tương Tế lúc bấy giờ do công nhân quản
lý, để mở rộng diện người được bảo hiểm và để tài chính của quỹ được dồi dào
hơn. Năm 1884 xuất hiện thêm chế độ bảo hiểm rủi ro nghề nghiệp (tức tai nạn
lao động – bệnh nghề nghiệp) do các hiệp hội chủ doanh nghiệp quản lý. Năm
1889 lại xuất hiện thêm chế độ tuổi già. Như vậy thời gian từ 1883 đến năm
1889 một hệ thống BHXH lớn đầu tiên đã ra đời.
Sau đó những năm đầu của thế kỷ 20 BHXH đã lan ra các nước châu Âu
và Bắc Mỹ. Đến cuối những năm 20 đầu những năm 30 mới có những đạo luật
về BHXH được ban hành. Sau chiến tranh thế giới thứ hai BHXH phát triển
phong phú và đa dạng ở trên 160 nước trên thế giới. Do điều kiện kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia khác nhau nên việc áp dụng BHXH của các nước cũng
không giống nhau. Tuy nhiên có những vấn đề chung cơ bản mà bất kỳ nước
nào cũng phải thực hiện khi xây dựng BHXH cho quốc gia mình để đảm bảo sự
thông nhất của mối quốc gia về vấn đề này, hội nghị quốc tế về lao động do tổ
chức lao động quốc tế (ILO) tổ chức ngày 28/6/1952 đã thông qua công ước
Giơnevơ 102 về BHXH và được 158 nước thành viên phê chuẩn. Theo công
ước này thì hệ thống BHXH là một hệ thống gồm 3 tầng:
+ Tầng 1: Là cơ sở để áp dụng cho một thành viên trong xã hội, trong
đó chủ yếu là cho người nghèo và cho những người có thu nhập thấp. Các đối
4
tượng này được Nhà nước bảo trợ và phần đông trong số họ có khả năng đóng
BHXH rất hạn chế nhưng vẫn được hưởng BHXH và trợ cấp khi có yêu cầu, vì
vậy tầng này được coi là tầng lưới an toàn.
+ Tầng 2: Dành cho các đối tượng có công ăn việc làm. Đây là đối
tượng bị bắt buộc bao gồm công nhân viên chức Nhà nước, người lao động ở
các thành phần kinh tế khác. Tài chính chi trả lấy từ nguồn tài trợ đóng góp của
người chủ thợ và có thể từ sự hố trợ của Nhà nước.
+ Tầng 3: Là tầng BHXH tự nguyện giành cho đối tượng có nhu cầu
tham gia BHXH nhưng chưa tham gia và những người đã tham gia BHXH
nhưng muốn được tiêu chuẩn quy định bắt buộc.

2. Khái niệm BHXH.
Từ sự cần thiết về BHXH người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về BHXH
nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào mà theo quan
niệm riêng của từng nước. Tuy vậy cơ bản khái niệm BHXH được hiểu:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với
người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm, bằng cách hình thành và sử dụng một quỹ tài chính tập
trung do sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động nhằm bảo
đảm đời sống của người lao động và gia đình họ, góp phần đảm bảo an toàn xã
hội” hoặc “BHXH là quá trình tổ chức, một quỹ tiền tệ tập trung tồn tích dần do
sự đóng góp của người lao động và gia đ ình họ khi gặp phải những biến cố làm
giảm hoặc mất thu nhập theo lao động”
Còn tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã định nghĩa: “BHXH là sự bảo vệ
của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình thông qua một loạt các biện
pháp công cộng để đối phó với những khó khăn về kinh tế, xã hội do bị ngừng
hoặc giảm nhiều về thu nhập, gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già và chết, việc cung cấp y tế và trợ cấp cho những gia đình đông con”.
3, Bản chất chức năng của BHXH.
5
* Bản chất :
Với các cách hiểu về BHXH có thể khẳng định bản chất của BHXH được
thể hiện ở những nội dung sau :
- BHXH là nhu cầu tất yếu khách quan gắn liền với nền kinh tế hàng hóa
khi quan hệ thuê mướn, sử dụng lao động phát triển ở mức độ nhất định. Kinh
tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng và hoàn thiện. Có thể nói kinh tế nền
tảng của BHXH không vượt quá trạng thái của mối nước.
- Các biến cố được đảm bảo trong BHXH có thể là ngẫu nhiên như ốm
đau, tai nạn lao động Nhưng cũng có trường hợp không hoàn toàn ngẫu nhiên
như hưu trí, tuổi già, thai sản
- Thu nhập của người lao động bị mất do bị giảm hoặc bị mất sức lao

động, mất việc làm được bù đắp bởi quỹ bảo hiểm tập trung bằng sự đóng góp
chủ yếu của các bên tham gia bảo hiểm.
- Mục đích của BHXH là đảm bảo ít nhất mức sống tối thiểu cho người
lao động khi gặp phải những biến cố rủi ro, mất sức lao động hay mất việc làm.
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), mục tiêu này được cụ thể hóa như sau :
+ Đền bù cho người lao động những khoản thu nhậpp bị mất để đảm bảo
nhu cầu thiết yếu của họ.
+ Chăm sóc sức khỏe và chống bệnh tật.
+ Xây dựng các điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân cư và các
nhu cầu đặc biệt của người già, người tàn tật và trẻ em.
* Chức năng :
- Bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị mất của người lao
động khi gặp phải những biến cố làm giảm, mất khả năng lao động hay mất việc
làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiệm vụ, tính
chất và cơ chế tổ chức hoạt động của BHXH. Suy cho cùng mất khả năng lao
động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết tuổi lao động theo quy định
của BHXH, còn mất việc làm và mất khả năng lao động tạm thời chỉ có thể xảy
ra với một số người nhưng đều được hưởng trợ cấp BHXH với mức hưởng phụ
6
thuộc vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn được hưởng phải đúng
quy định.
- BHXH phân phối lại thu nhập giữa các bên tham gia bảo hiểm.Tham
gia bảo hiểm không chỉ có người lao động mà cả người sử dụng lao động. Các
bên tham gia đều phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho
một số người lao động tham gia khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng
những người này thường chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số những người tham
gia đóng góp. Như vậy không kể bảo hiểm hưu trí BHXH đã lấy số đông bù số
ít và thực hiện chức năng phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều
ngang, giữa những người có thu nhập cao và thu nhập thấp, giữa những người
khoẻ mạnh đang làm việc với những người ốm yếu phải nghỉ việc Điều đó

cũng góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội.
- BHXH góp phần kích thích người lao động hăng hái sản xuất, tăng
năng suất lao động cá nhân và từ đó tăng năng xuất lao động xã hội. Khi khoẻ
mạnh làm việc bình thường, người lao động sẽ có tiền lương, tiền công khi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, tuổi già hoặc bị chết đã có BHXH bảo đảm thay
thế hoặc bù đắp một phần thu nhập quan trọng, do đó đời sống của bản thân và
gia đình họ luôn có chỗ dựa, luôn được bảo đảm. Chính vì vậy họ sẽ yên tâm
gắn bó với công việc, với nơi làm việc và tích cực lao động sản xuất, góp phần
tăng năng suất lao động cũng như tăng hiệu quả kinh tế. Chức năng này biểu
hiện như một đòn bẩy kinh tế, như động lực thúc đẩy người lao động.
- BHXH góp phần gắn bó lợi ích giữa người lao động và người sử dụng
lao động, giữa người lao động với Nhà nước. Trên thực tế, người lao động và
người sử dụng lao động vốn có nhiều mâu thuẫn về tiền lương, tiền công, thời
gian lao động Thông qua BHXH, những mâu thuẫn đó được điều hoà và giải
quyết. Đặc biệt cả hai bên đều thấy nhờ có BHXH mà mình có lợi và được bảo
hiểm. Từ đó làm họ hiểu nhau hơn và gắn bó lợi ích được với nhau. Đối với
Nhà nước, chỉ có BHXH là cách thức phải chi ít nhất nhưng hiệu quả nhất, giải
7
quyết được khó khăn về đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần
ổn định kinh tế, chính trị, xã hội.
4. Nguyên tắc của BHXH.
Để hoạt động có hiệu quả, đúng bản chất BHXH phải tuân theo những những
nguyên tắc sau:
- Nguyên tắc số đông bù số ít.
- Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải bảo hiểm xã
hội đối với người lao động, người lao động cũng có trách nhiệm phải tự bảo
hiểm cho chính mình.
- Nguyên tắc kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện.
- Nguyên tắc tự hoạch toán độc lập BHXH với ngân sách nhà nước.
- Mọi người lao động đều có quyền hưởng BHXH khi bị giảm, mất khả

năng lao động.
- Phải kết hợp hài hoà giữa mục tiêu, lợi ích và khả năng đáp ứng nhu cầu
trong BHXH.
- Giữ mức đóng góp và mức hưởng BHXH có sự tương đương và có sự
kết hợp với tính xã hội.
- Mức trợ cấp BHXH nói chung phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi
làm nhưng thấp nhất cũng phải bảo đảm đời sống tối thiểu.
- Phải đảm bảo tính thống nhất BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời
làm phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành.
- BHXH phải phát triển dần từng bước phù hợp với các điều kiện kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể.
5. Nội dung cơ bản của BHXH.
5.1. Đối tượng của BHXH.
Như trên đã viết BHXH là một hệ thống đảm khoản thu nhập bị giảm
hoặc bị mất đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc
làm vì các nguyên nhân ốm đau, tai nạn, già yếu Do vậy, đối tượng của
BHXH chính là thu nhập của người lao động bị biến động hoặc mất đi do giảm
8
hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của những người lao động tham gia
BHXH.
Đối với đối tượng tham gia BHXH, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những người
lao động nào đó. Tuy vậy hầu hết các nước khi mới có chính sách BHXH đều
thực hiện BHXH đối với các viên chức Nhà nước, những người làm công
hưởng lương.
* Các mối quan hệ trong của BHXH:
Mối quan hệ xuyên suốt trong hoạt động BHXH là mỗi quan hệ giữa nghĩa vụ,
trách nhiệm và quyền lợi của các bên tham gia BHXH, mỗi quan hệ này dựa
trên quan hệ lao động và diễn ra giữa ba bên: Bên tham gia BHXH, bên BHXH
và bên được BHXH. Đây là đặc trưng riêng của BHXH, nó quyết định sự tồn

tại, hoạt động và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững.
Bên tham gia BHXH gồm có người lao động, người sử dụng lao động và Nhà
nước (Trong một số trường hợp). Người lao động tham gia BHXH để bảo hiểm
cho chính mình trên cơ sở san sẻ rủi ro của một số đông người lao động khác.
Người sử dụng lao động đóng góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ để bảo
hiểm cho người lao động mà họ sử dụng, đồng thời còn vì lợi ích của chính họ,
đó là bảo đảm cho quá trình sản xuất kinh doanh của họ không bị ảnh hưởng
khi phát sinh nhu cầu BHXH. Còn Nhà nước tham gia BHXH với tư cách là
người bảo hộ cho các hoạt động của quỹ BHXH, bảo đảm giá trị đồng vốn và
hỗ trợ cho quỹ BHXH trong những trường hợp cần thiết.
Ngoài ra, Nhà nước tham gia BHXH còn với tư cách chủ thể quản lý,
định ra những chế độ, chính sách, định hướng cho hoạt động BHXH.
- Bên BHXH là bên nhận BHXH từ những người tham gia BHXH. Bên
BHXH thường là một số tổ chức (cơ quan, công ty ) do Nhà nước lập ra (ở
một số nước có thể do tư nhân lập ra) nhận sự đóng góp của người lao động,
người sử dụng lao động lập nên quỹ BHXH. Bên BHXH có trách nhiệm thực
9
hiện chi trả trợ cấp cho bên được BHXH khi có nhu cầu phát sinh và làm cho
quỹ BHXH phát triển.
- Bên được BHXH là người lao động tham gia BHXH và thân nhân của
họ theo quy định của pháp luật. Bên được BHXH được quyền nhận các loại trợ
cấp khi phát sinh những nhu cầu BHXH, để bù đắp thiếu hụt về thu nhập do
các loại rủi ro được bảo hiểm gây ra.
Giữa các bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Trong kinh tế thị trường, bên
tham gia BHXH có thể đồng thời là bên được BHXH ( người lao động chẳng
hạn). Đối với người lao động độc lập, họ vừa là người tham gia BHXH vừa là
người được quyền hưởng BHXH vì họ đóng phí BHXH để bảo hiểm cho chính
họ.
5.2. Các chế độ BHXH.
Theo Công ước Quốc tế 102 của ILO ‘‘Công ước về quy phạm tối thiểu của bảo

hiểm xã hội’’ quy định gồm 9 chế độ trợ cấp BHXH như sau :
1. Chăm sóc y tế.
2. Trợ cấp ốm đau.
3. Trợ cấp thất nghiệp.
4. Trợ cấp tuổi già.
5. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
6. Trợ cấp gia đình.
7. Trợ cấp thai sản.
8. Trợ cấp tàn tật.
9. Trợ cấp mất người nuôi dưỡng.
Tuy nhiên không phải quốc gia nào cũng thực hiện đầy đủ 9 chế độ trên
mà việc xây dựng, thực hiện các chế độ BHXH ở các nước là khác nhau phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội, vào yếu tố sinh học, điều kiện làm việc và
bảo hộ an toàn lao động của mỗi nước. Nhưng theo khuyến nghị của ILO thì
mỗi nước phải thực hiện ít nhất 3 chế độ, trong đó phải có ít nhất 3 trong 5 chế
độ 3,4,5,8,9.
10
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất san sẻ rủi ro, san sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
+ phần lớn các chế độ là chi trả định kỳ.
+ Đồng tiền làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư
có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kỳ để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội.
6. Quỹ BHXH.

6.1. Khái niệm quỹ BHXH:
Trong đời sống kinh tế- xã hội, người ta thường nói đến rất nhiều loại quỹ
khác nhau như: Quỹ tiêu dùng, quỹ sản xuất, quỹ dự phòng, quỹ tiền lương, quỹ
phúc lợi, quỹ tiết kiệm Tất cả những loại quỹ này đều có một điểm chung là
tập hợp các phương tiện tài chính hay vật chất khác cho những hoạt động nào
đó theo mục tiêu định trước. Quỹ lớn hay nhỏ biểu thị khả năng về mặt phương
tiện và vật chất để thực hiện công việc cần làm. Cũng theo quân niệm này, quỹ
BHXH là tập hợp những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH
hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được
BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả
năng lao động hoặc bị mất việc làm.
Có thể nói việc làm hình thành quỹ BHXH là rất cần thiết. Lợi ích thiết
thân của người tham gia BHXH, dù theo loại hình nào (BHXH tự nguyện hay
bắt buộc) trong trường hợp gặp một loại rủi ro ngẫu nhiên xác định thì đươc cơ
quan BHXH trợ cấp kịp thời nhằm bù đắp một phần thu nhập bị suy giảm hoặc
bị mất. Ngoài ra cơ quan BHXH còn phải chi phí cho công tác quản lý bộ máy
11
từ Trung Ương đến địa phương. Do vậy quỹ BHXH ra đời là điều tất yếu để
trang trải những chi phí trên.
Hơn thế nữa BHXH hoạt động dựa trên cơ sở số đông bù số ít, tức là mọi
đối tượng tham gia đều phải đóng góp để hình thành quỹ. Từ đo quỹ BHXH có
thể thực hiện được phân phối lại thu nhập của họ, góp phần tạo sự cân bằng xã
hội kích thích người sử dụng lao động hăng hái sản xuất, gắn bó với công việc.
Đặc biệt khi quỹ BHXH đã được hình thành, nó tạo ra được nguồn vốn không
nhỏ đem đầu vào phát triển kinh tế trở thành một kênh huy động vốn quan
trọng cho nền kinh tế đồng thời quỹ BHXH cũng được mở rộng.
Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời cũng là một quỹ dự phòng.
Quỹ tiêu dùng thể hiện ở mục đích chi của quỹ BHXH cho những người được
hưởng BHXH, quỹ dự phòng thể hiện quỹ BHXH chỉ trả trợ cấp cấp khi rủ ro
xảy ra và người lao động có thể được hưởng trợ cấp ở thời điểm rất xa so với

thời điểm đóng góp. Quỹ BHXH còn vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã
hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn
bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển, là yếu tố mang tính chất sống còn đối
với chính sách BHXH.
6.2. Nguồn hình thành quỹ BHXH.
Cũng như bất kỳ một quỹ tài chính khác, nói đến quỹ BHXH là nói đến
nguồn hình thành quỹ, mục đích sử dụng quỹ và hoạt động đầu tư quỹ. Dòng tài
chính của quỹ BHXH được khái quát như sau :

12
Dòng tài chính của quỹ BHXH
13
Đóng góp của người
lao động
Đóng góp của người
sử dụng lao động
Phạt do nộp chậm
BHXH
Hỗ trợ của Ngân
sách Nhà nước
Thu nhập từ
đầu tư


Quỹ BHXH
Tài sản đầu tư

Chi trả trợ cấp
BHXH


Chi phí quản lý

Chi phí đầu tư
Trợ cấp
ngắn hạn
- Chăm
sóc y tế
- Ốm đau
- Thai sản
- Mai táng
Trợ cấp
dài hạn
- Mất sức
lao động
- Tuổi già
Tử tuất
Trợ cấp tai
nạn lao động
- Chăm sóc
y tế
- Mất sức
vĩnh viễn
- Trợ cấp
cho người
ăn theo
Trợ cấp
thất nghiệp
- Trợ cấp
cho người
thất nghiệp

- Trợ cấp
cho người
ăn theo
Trợ cấp
gia đình
- Trợ cấp
gia đình
- Trợ cấp
khi sinh
đẻ non
(ngoài trợ
cấp thai
sản)
Như vậy, quỹ BHXH được hình thành từ những nguồn thu chủ yếu sau:
- Từ sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm (người lao động, người
sử dụng lao động, Nhà nước). Đây là nguồn thu chủ yếu và cơ bản của quỹ.
Trong phần trách nhiệm đóng góp BHXH của mỗi bên thì giữa người lao động
và người sử dụng lao động được phân chia trên cơ sở quan hệ lao động. Đây
không phải là sự phân chia rủi ro mà là lợi ích giữa hai bên. Về phía người sử
dụng lao động, đóng góp một phần BHXH cho người lao động sẽ tránh được
những thiệt hại thực tế do phải chi ra một khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối
với người lao động mà mình thuê mướn, đồng thời góp phần giảm bớt tình
trạng tranh chấp và kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ - thợ. Về phía người
lao động, sự đóng góp một phần vừa để bảo hiểm cho chính mình, vừa biểu
hiện sự tự gánh chịu trực tiếp rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc
nghĩa vụ và quyền lợi một cách chặt chẽ. Mặt khác, mối quan hệ chủ - thợ trong
BHXH thực chất là mối quan hệ lợi ích, sự đóng góp của nhà nước thể hiện qua
các luật lệ được coi là chuẩn mực pháp lý bắt buộc người lao động và người sử
dụng lao động phải tuân theo, những tranh chấp chủ - thợ trong lĩnh vực BHXH
có cơ sở vững chắc để giải quyết, ngoài ra Nhà nước còn là chỗ dựa để đảm bảo

cho hoạt động BHXH chắc chắn và ổn định.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính nhưng cũng là một quỹ của hệ thống an
sinh xã hội với mục đích thực hiện chính sách xã hội. Do vậy với tư cách là quỹ
của người lao động, hoạt động không vì mục đích lợi nhuận vì nguyên tắc hoạt
động của quỹ là cân đối thu - chi. Nhưng trên thực tế không phải lúc nào các
khoản đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động cũng đủ để bù
đắp cho các khoản chi của quỹ, có thể vì những nguyên nhân nào đó mà hệ
thống BHXH gặp khó khăn, ví dụ như nguồn thu không đủ chi trả, thiếu trụ sở,
điều kiện làm việc thì Nhà nước đều phải hỗ trợ thích đáng. Nếu Nhà nước
không thực hiện đúng vai trò của mình sẽ dẫn đến khủng hoảng nặng nề, nhất là
khủng hoảng pháp lý. Ví dụ, nếu chưa tính toán đầy đủ, pháp luật quy định tỷ lệ
thu nộp BHXH thấp so với nhu cầu, dẫn đến quỹ BHXH không đủ để chi trả
14
BHXH thì Nhà nước cần can thiệp hoặc là nâng cao tỷ lệ thu cho thích hợp,
hoặc là có sự hỗ trợ giúp quỹ BHXH để có thể vượt qua khủng hoảng.
6.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH:
Quỹ BHXH được hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết rủi
ro cho người tham gia, đảm bảo an toàn kinh tế cho người lao động và gia đình
họ, giảm tối thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi
cho ngân sách nhà nước và ngân sách gia đình.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mục đích sau:
- Chi trả các chế độ BHXH (chi trợ cấp): thực hiện chi trả theo 9 chế độ mà
ILO đã khuyễn nghị các nước. Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
quỹ BHXH.
- Chi quản lý cho hệ thống thực hiện BHXH như tiền lương, chi đào tạo,
khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.
II. QUẢN LÝ CHI BHXH.
1. Khái niệm chi BHXH.
Chi BHXH là việc các cơ quan Nhà nước (cụ thể là cơ quan BHXH) sử
dụng số tiền thuộc nguồn quỹ BHXH để dùng chi trả cho các hoạt động của

BHXH cụ thể như sau:
- Chi trợ cấp các chế độ BHXH
- Chi phí quản lí bộ máy
- Chi đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Việc sử dụng quỹ vào mục đích chi cho các hoạt động của BHXH được
Nhà nước qui định trong các văn bản pháp quy cụ thể là trong Điều lệ BHXH
ban hành ngày 25/01/1995 và các văn bản kèm theo. Trong đó việc chi trả trợ
cấp chế độ BHXH là lớn nhất và quan trọng nhất. BHXH Việt Nam, tổng số
tiền chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH trong 14 năm qua (1995 - 2009) là
trên 90.000 tỉ đồng chiếm trên 90% trong tổng chi cho các hoạt động của
BHXH trong đó do Ngân sách Nhà nước đảm bảo là trên 81.000 tỉ đồng và do
quỹ BHXH đảm bảo là trên 24.000 tỉ đồng. Việc chi trả trợ cấp cho các đối
15
tượng hưởng các chế độ BHXH được thực hiện theo luật định (cụ thể là tại
Điều lệ BHXH) và phụ thuộc và phạm vi trợ cấp từng chế độ của từng hệ thống
BHXH mỗi nước (ví dụ tại Việt Nam mức lương hưu quy định tối đa là 75%
tiền lương trong khi ở Mỹ mức hưởng còn tuỳ thuộc vào mức thu nhập thực tế
khi nghỉ hưu và được chia ra 3 mức: thu nhập < 445 USD/ tháng thì được trợ
cấp 90% tiền lương đóng BHXH, thu nhập < 2741 USD/ tháng thì được trợ cấp
32% tiền lương đóng BHXH, thu nhập > 2741 USD/ tháng thì được cấp 15%
tiền lương đóng BHXH). Về nguyên tắc, có thu mới có chi, thu trước chi sau.
Vì vậy, quỹ chỉ chi cho các chế độ trong phạm vi có nguồn thu. Thu ở chế độ
nào thì chi ở chế độ đó.
Quá trình sử dụng quỹ BHXH mà phần sử dụng nhiều nhất là để chi trả
cho các chế độ còn phụ thuộc vào việc thành lập quỹ theo phương thức nào?
Nếu chỉ thành lập một quỹ BHXH tập trung thống nhất thì việc chi trả
cũng phải đảm bảo tính thống nhất theo nội dung chi. Điều đó có nghĩa là tất cả
các nguồn thu BHXH đều được tập trung để hình thành một quỹ, sau đó quỹ
được sử dụng để chi các chế độ, chi quản lý và đầu tư. Phương thức này rất đơn
giản và tác dụng chủ yếu là quản lí quỹ được tập trung, cho nên dễ dàng điều

tiết giữa các chế độ BHXH trong quá trình chi trả.
Nếu quỹ BHXH được hình thành theo 2 loại quỹ: quỹ BHXH ngắn hạn,
quỹ BHXH dài hạn thì việc chi trả và quản lí chi sẽ cụ thể hơn. Quỹ BHXH
ngắn hạn như: Ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Nguồn
quỹ này sẽ được cân đối từng năm, thậm chí có thể hình thành ngay trong từng
doanh nghiệp để chi trả trực tiếp. Quỹ BHXH dài hạn được sử dụng để chi trả
cho các chế độ dài hạn như: hưu trí, tử tuất. Nguồn quỹ này phải đảm bảo cân
đối trong nhiều năm và dùng tài khoản cá nhân trong quá trình chi trả là sát thực
tế nhất. Phương thức này đảm bảo cho công tác chi trả sát thực tế và đúng mục
đích hơn. Đồng thời, còn tạo điều kiện cho người lao động thuộc mọi thành
phần kinh tế tham gia chế độ BHXH dài hạn.
16
Nếu quỹ BHXH được thành lập theo từng chế độ: quỹ ốm đau, thai sản,
hưu trí (hay còn gọi là quỹ BHXH thành phần), thì việc chi trả sẽ càng trở nên
đơn giản hơn và đảm bảo đúng mục đích. Nội dung chi trả gắn liền với nội
dung kinh tế, xã hội của từng chế độ hoặc từng nhóm chế độ. Chính vì vậy, mỗi
chế độ có thể hình thành một quỹ và mỗi loại quỹ sẽ được hạch toán độc lập,
bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Phương thức này có ưu điểm là dễ dàng cân đối thu
chi từ đó góp phần xác định mức đóng và mức hưởng trong từng chế độ một
cách chính xác. Ngoài việc chi trả trợ cấp theo chế độ BHXH, quỹ BHXH còn
được sử dụng cho chi phí quản lí như tiền lương cho những người làm việc
trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố định, văn phòng phẩm và một số
khoản chi khác Phần quỹ nhàn rỗi phải được đem đầu tư sinh lợi. Mục đích
đầu tư quỹ BHXH là nhằm bảo toàn và tăng trưởng nguồn quỹ.
Quá trình chi trả BHXH phải đảm bảo nguyên tắc chi đúng, chi đủ, chi kịp
thời. Đó là điều kiện tiên quyết để thực hiện quá trình chi trả được thuận lợi và
đúng với qui định của các văn bản hướng dẫn chi các chế độ BHXH do BHXH
Việt Nam qui định trong điều lệ BHXH mà quốc hội ban hành.
Việc chi BHXH trước hết phải tuân theo nguyên tắc chi đúng đối tượng
tức là thuộc đối tượng nào thì chi cho đối tượng đó, thu ở chế độ nào thì chi cho

chế độ đó. Theo tính toán của BHXH Việt Nam thì đến năm 2020, cơ bản
NSNN không còn phải bao cấp, vì cán bộ, công chức, người lao động đã tham
gia đóng góp xây dựng quỹ BHXH. Lượng tiền tồn tích để giành của người lao
động để sau này về hưu, hiện nay đã được trên 49 nghìn tỷ đồng. Theo chỉ đạo
của Chính phủ nguồn quỹ BHXH tồn tích bước đầu đầu tư có hiệu quả như mua
công trái, cho các ngân hàng vay để sinh lời nhờ đó đã có một số dự án lớn
đã được triển khai như trường học, bệnh viện, đường sá Các dự án này đã tạo
việc làm cho hàng vạn người lao động, từ đó người lao động tiếp tục tham gia
BHXH, phát triển nguồn quỹ, góp phần ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội.
2. Quản lý chi BHXH.
17
Quản lý diễn ra trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của con người khi có
nhiều người liên kết, hợp tác với nhau, diễn ra trên nhiều cấp độ khác nhau,
được vận dụng khái niệm chung về quản lý. Đối với hoạt động BHXH cũng cần
có quản lý BHXH, được định nghĩa như sau: "Quản lý bảo hiểm xã hội là quản
lý toàn bộ hoạt động bảo hiểm xã hội, bao gồm cả quản lý các đối tượng tham
gia và hưởng thụ, quản lý thu, chi và quỹ BHXH".
Trong hệ thống quản lý BHXH có chủ thể quản lý là Nhà nước và đối
tượng quản lý là tất cả mọi đối tượng tham gia và hưởng thụ BHXH. Nhà nước
uỷ quyền cho Bảo hiểm xã hội Việt Nam quản lý toàn bộ hoạt động BHXH trên
phạm vi cả nước với một hệ thống tổ chức từ trung ương đến tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương, quận huyện, còn ở cấp xã phường có đại lý và các tổ chi
trả BHXH. Và như vậy quản lý BHXH với chức năng dự báo, lập kế hoạch, tổ
chức thực hiện và kiểm tra giám sát quá trình thực hiện chính sách BHXH.
2.1. Quản lý đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội.
Đặc điểm của đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội:
+ Đối tượng hưu trí là nòng cốt của quá khứ, họ là người đã cống hiến
nhiều cho xã hội trong các lĩnh vực sản xuất, trong công cuộc kháng chiến
chống Pháp, chống Mỹ.
+ Đối với người lao động tham gia và hưởng BHXH, cơ quan BHXH

không quản lý trực tiếp đối tượng mà thông qua chủ sử dụng lao động để quản
lý ngày nghỉ hưởng các chế độ BHXH: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và
bệnh nghề nghiệp. Thông qua UBND phường, xã để quản lý đối tượng hưu trí,
mất sức lao động, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, đối tượng chế độ tử
tuất. Các đối tượng này cư trú ở tất cả các xã, phường… và ở các đơn vị lao
động trong cả nước.
a, Đối tượng thụ hưởng BHXH: Được chia làm hai nhóm
Nhóm 1: Người lao động đang tham gia BHXH là những người đang trực
tiếp tham gia BHXH, trong quá trình tham gia được hưởng các chế độ ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp. Đây là lực
18
lượng lao động chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội và cũng là nguồn
chủ yếu đóng góp quỹ BHXH. Đối tượng này nhìn chung có đặc điểm trẻ, khỏe
đang trong độ tuổi lao động và có tâm lý là không muốn mình thuộc diện hưởng
trợ cấp BHXH ngắn hạn, trừ trường hợp thai sản.
Nhóm 2: Bao gồm những người đã tham gia BHXH nay đến tuổi nghỉ
hưu, nghỉ hưởng trợ cấp BHXH hàng tháng và các thân nhân trong trường hợp
người lao động đang tham gia hoặc đang thụ hưởng BHXH bị chết và thân nhân
đủ điều kiện hưởng trợ cấp tuất hàng tháng. Nhóm này có tâm lý ngược với
nhóm 1, chủ yếu là các đối tượng đã tham gia quá trình công tác, cống hiến cho
xã hội, ở nước ta trong số họ nhiều người đã từng tham gia vào hai cuộc kháng
chiến giành độc lập cho dân tộc và bảo vệ tổ quốc, nay nghỉ hưởng chế độ
BHXH; Tuổi cao sức khỏe gảm dễ mặc cảm và có yêu cầu được xã hội quan
tâm, phục vụ.
Ngoài ra, ở nước ta đối tượng hưởng chế độ BHXH được phân theo chế
độ BHXH, cụ thể:
- Chế độ trợ cấp ốm đau;
- Chế độ trợ cấp thai sản;
- Chế độ trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp;
- Chế độ trợ cấp mất sức lao động (từ ngày 01/01/1995 không áp dụng);

- Chế độ hưu trí;
- Chế độ trợ cấp tử tuất.
Tại quyết định số 37/2001/QĐ-TTg ngày 21/03/2001 của thủ tướng
Chínhphủ, chế độ BHXH được bổ sung thêm chế độ nghỉ dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe cho người lao động tham gia BHXH bắt buộc có từ ba năm công tác
trở lên tại các cơ quan đơn vị mà bị suy gảm sức khỏe, sau khi điều trị ốm đau,
tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp mà chưa phục hồi sức khỏe hoặc lao động
nữ sức khỏe yếu sau khi nghỉ thai sản. Ngày 24/01/2002 thủ tướng Chính phủ
đã có quyết định số 20/2002/QĐ – TTg chuyển BHYT sang BHXH và như vậy
từ năm 2003 ngoài 6 chế độ đã nêu ở trên còn có thêm 2 chế độ nữa là:
19
- Chế độ nghỉ ngơi dưỡng sức;
- Chế độ BHYT.
b) Công tác xét duyệt và quản lý hồ sơ.
Việc xác định thủ tục hành chính trong thực hiện chế độ BHXH là khâu
hết sức quan trọng nhằm giải quyết các chế độ BHXH cho người lao động đảm
bảo công bằng, nhanh gọn kịp thời, chính xác. Ngay từ khi mới được thành lập,
BHXH Việt Nam đã sớm ban hành các văn bản về thủ tục lập hồ sơ, quy định
về chữ ký và con dấu trong việc thẩm định của BHXH các tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương. Vì trong giai đoạn này quyết định cho người lao động nghỉ
việc hưởng các chế độ vẫn do người sử dụng lao động ký, cùng Bảo hiểm xã
hội các tỉnh chi, xét duyệt, thẩm định lại và bảo hiểm xã hội huyện, thành phố
thực hiện chi trả.
Trong quá trình đổi mới, hoàn thiện dần, ngày 17/5/ 1996 Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội với chức năng là cơ quan quản lý nhà nước về BHXH
đã ban hành quyết định số 517/ LĐ-TBXH-QĐ, quy định việc ban hành các
quyết định nghỉ việc để hưởng các chế độ BHXH do thủ trưởng các cơ quan
đơn vị kí, còn quyết định xét hưởng các chế độ, mức hưởng do cơ quan BHXH
ở địa phương thực hiện. Căn cứ chức năng, quyền hạn của bảo hiểm xã hội Việt
Nam được chính phủ quy định. Ngày 29/5/1996 Tổng giám đốc Bảo hiểm xã

hội Việt Nam có quyết định số 99/QĐ/ BHXH ban hành biểu mẫu hồ sơ xét
hưởng các chế độ BHXH thống nhất trong toàn quốc. Trong quá trình thực hiện
còn một số vướng mắc, để công tác quản lý được tốt hơn ngày 24/6/1996 Tổng
Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã có quyết định số 115/QĐ/BHXH kèm
theo quy định về hồ sơ xét hưởng các chế độ BHXH với nội dung quy định cụ
thể các loại hồ sơ, giấy tờ cần thiết để xét hưởng từng loại chế độ, tại quyết định
này đã quy định trách nhiệm lập hồ sơ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội của các
bên tham bảo hiểm xã hội và cơ quan BHXH. Điều mới và các văn bản trước
đây là tất cả các vấn đề giải quyết về hưởng chế độ BHXH của người lao động
như tỉ lệ hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng Đều do Giám đốc BHXH các
20
tỉnh, thành phố thực hiện. Ngài ra còn có quy định về việc thẩm định hồ sơ đã
được giải quyết theo tháng, quỹ tại BHXH Việt Nam trước khi ban hành,đảm
bảo mức độ chính xác, chặt chẽ trong thực hiện chế độ chính sách BHXH, giảm
thấp nhất sai sót về chế độ.
Thực hiện việc cải cách thủ tục hành chính trong việc thực hiện chế độ
chính sách BHXH cho người lao động theo cơ chế “một cửa”, ngày 24/6/1999,
Tổng giám đốc BHXH Việt Nam đã có quyết định số 1584/1999/QĐ/BHXH về
việc ban hành quy chế hồ sơ và quy trình giải quyết hưởng chế độ chính sách
BHXH đã bãi bỏ các quy định trước đây do còn nhiều bất cập, thủ tục còn nhiều
phiền hà. Việc giải quyết các chế độ BHXH được tập trung một đầu mối cho
người lao động, người sử dụng lao động từ khi tiếp nhận vào cho đến khi trả kết
quả là phòng chế độ, chính sách BHXH tỉnh thành phố trực thuộc trung ương.
Quyết định đã được quy định rõ quy trình xét duyệt thẩm định, cấp giấy chứng
nhận hưởng trợ cấp, hưởng hưu trí, quy định cụ thể việc quản lý và lưu trữ hồ
sơ (hai cấp). Quyết định này đã gắn chặt trách nhiệm tham gia đóng BHXH của
người sử dụng lao động với cơ quan BHXH.
2.2. Quản lý chi BHXH.
Việc quản lý chi trả các chế độ BHXH là một khâu rất quan trọng trong
quy trình quản lý quỹ BHXH, là công việc mang ý nghĩa kinh tế, chính trị và xã

hội to lớn, cụ thể:
- Thực hiện chính sách BHXH của Đảng và Nhà nước đối với người lao
động.
- Đảm bảo được cuộc sống hằng ngày cho cá nhân và gia đình họ khi gặp
rủi ro, tạm thời hoặc vĩnh viễn mất khả năng lao động, góp phần tích cực vào
việc ổn định trật tự an toàn xã hội.
- Tạo được lòng tin cho người lao động tham giam BHXH, từ đó tạo điều
kiện để họ an tâm sản xuất và lôi cuốn, mở rộng thêm các đối tượng tham gia
BHXH.
21
Muốn quản lý tốt việc chi trả các chế độ BHXH cần phải thực hiện một
số nguyên tắc và nhiệm vụ sau đây.
a) Nguyên tắc
- Việc chi trả trợ cấp BHXH chỉ thực hiện đối với các đối tượng tham gia
và đã đóng BHXH theo quy định của pháp luật.
- Thực hiện chi BHXH trên cơ sở có nộp BHXH và căn cứ vào các chế
độ chính sách, chế độ tài chính hiện hành.
- Chi trả các chế độ BHXH cho các đối tượng hưởng BHXH- chỉ thực
hiện trên địa bàn tỉnh, thành phố, quận huyện theo quy định của BHXH Việt
Nam.
- BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gọi chung là BHXH tỉnh
chi BHXH cho các đối tượng hưởng chế độ ốm đau, thai sản thuộc các đơn vị
sử dụng lao động do BHXH tỉnh trực tiếp quả lý thu và chi trợ cấp một lần và
lần đầu cho đối tượng đang làm việc đủ điều kiện hưởng hưu trên 30 năm, hưu
một lần, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp.
- BHXH quận huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh gọi chung là
BHXH huyện, chi trả cho các đối tượng hưởng BHXH gồm:
+ Trợ cấp ốm đau, thai sản thuộc các đơn vị do BHXH huyện trực tiếp
quản lý thu BHXH.
+ Chi trả lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, trợ cấp

tử tuất cho đối tượng hưởng BHXH trên địa bàn quản lý.
- BHXH các cấp có trách nhiệm quản lý đối tượng hưởng BHXH theo
các chế độ quy định, theo dõi đối tượng tăng giảm (chuyển đến, chuyển đi, chết,
hết hạn hưởng…) Đảm bảo chi trả đúng kì, đủ số lượng, thuận tiện.
- Cơ quan BHXH có quyền từ chối chi trả BHXH cho các đối tượng đang
hưởng, khi kết luận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về hồ sơ man trá, làm
giả hồ sơ, tài liệu.
b, Nhiệm vụ công tác chi.
* Ban quản lý chi- BHXH Việt Nam:
22
1) Hướng dẫn công tác nghiệp vụ chi trả 5 chế độ BHXH trên cơ sở các
văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước cũng như các văn bản quy định quản
lý của BHXH Việt Nam.
2) Hàng năm xét duyệt và tổng dự toán chi các chế độ BHXH của địa
phương.
3) Hàng tháng lập bổ sung kế hoạch chi để thực hiện cấp phát cho địa
phương.
4) Hàng quí thẩm định quyết toán chi trả 5 chế độ BHXH các tỉnh.
5) Chỉ đạo đôn đốc, kiểm tra BHXH cấp dưới trong công tác quản lý tổ
chức chi trả cho người được hưởng BHXH (kiểm tra nguồn chi, các chứng từ
thanh toán cho người được hưởng.
6) Tổng hợp phân tích đánh giá rút kinh nghiệm đề xuất các biện pháp
quản lý để không ngừng cải tiến, hoàn thiện công tác quản lý nghiệp vụ chi.
* BHXH tỉnh, thành phố:
1) Chấp hành đầy đủ mọi thể lệ, quản lý chi các chế độ BHXH.
2) Hàng tháng lập danh sách chi trả cho các loại đối tượng.
3) Hàng tháng tiếp nhận quản lý kinh phí từ trung ương cấp để thực hiện
chi trả các chế độ BHXH và phân phối kinh phí đó trên cơ sở danh sách đối
tượng tỉnh lập chuyển cho BHXH huyện.
4) Hàng tháng, quỹ thẩm định chứng từ chi trả hai chế độ ốm đau, thai

sản cho người lao động.
5) Hàng quỹ, năm thẩm định báo cáo quyết toán, cấp huyện. trên cơ sở
đó tổng hợp chung toàn tỉnh báo cáo về BHXH Việt Nam đúng kì hạn.
6) Thường xuyên hướng dẫn nghiệp vụ và kiểm tra công tác chi trả.
7) Tổng hợp đối tượng tăng giảm có phân tích đối tượng. chuyển đến,
chuyển đi, chết, hết hạn hưởng.
* BHXH huyện:
1) Chấp hành mọi chế độ, thể lệ về chế độ quản lý chi BHXH theo quy
định của BHXH Việt Nam và BHXH tỉnh.
23
2) Hàng tháng tiếp nhận kinh phí và danh sách đối tượng do BHXH tỉnh.
3) Thẩm định chứng từ hai chế độ ốm đau thai sản cho đơn vị sử dụng
lao động thuộc huyện quản lý.
4) Tổ chức chi trả lương hưu và trợ cấp BHXH cho đối tượng hàng
tháng.
5) Hàng quý, năm tổng hợp báo cáo quyết toán chi các chế độ BHXH gửi
BHXH cấp trên đúng kỳ hạn.
6) Theo dõi đối tượng tăng, giảm, báo cáo kịp thời cắt giảm.
7) Theo định kỳ tổ chức tiếp cận trực tiếp với phường xã, đại diện chi trả
để nắm bắt tình hình. Tăng cường sự phối hợp với Đảng, chính quyền địa
phương, tạo sự ủng hộ sự giúp đỡ cho cơ quan BHXH hoàn thành nhiệm vụ.
C. Thủ tục hồ sơ và quy trình chi trả.
Quy trình thanh toán chế độ hưu trí:
- Đối tượng thuộc nguồn ngân sách chi trả.
- Đối tượng thuộc nguồn quỹ BHXH chi trả.
- Thủ tục đối với cấp huyện chi trả căn cứ vào danh sách đối tượng do
tỉnh lập gửi xuống.
- Tổ chức chi trả:
+ Chi trả trực tiếp.
+ Chi trả dán tiếp.

- Tăng cường công tác kiểm tra:
+ Kiểm trả nguồn chi giao cho đại lý hoặc cá nhân.
+ Kiểm tra đối tượng chết và hết hạn hưởng để cắt giảm kịp thời.
- Từ 1/1/1998 đối tượng tham gia BHXH và hưởng BHXH đã được mở
rộng tới cán bộ chủ chốt các xã, phường, thị trấn là một điều kiện thuận lợi để
hệ thống tổ chức BHXH mở rộng các hoạt động của ngành trong đó có vấn đề
quản lý đối tượng và chi trả BHXH.
- Nắm được đối tượng di chuyển chỗ có thời hạn đến địa Phương khác vì
các lý do như thăm thân nhân, con cháu, đi nghỉ điều dưỡng, dưỡng sức trên ba
24
tháng, để tiến tới cải tiến việc nhận lương hưu, hoặc trợ cấp BHXH tại nơi mới
đến mà không cần phải có hộ khẩu thường trú.
2.3. Công tác kiểm tra.
Hoạt động BHXH là việc thực hiện chế độ chính sách của Đảng và Nhà
nước, vì vậy trong quá trình tổ chức điều hành hoạt động BHXH cần phải đảm
bảo nguyên tắc kiểm tra, nhằm đánh giá và nắm bắt được kết quả thực hiện
nghiệp vụ, mặt khác kịp thời phát hiện những sai sót để khắc phục sửa chữa.
Đồng thời phát hiện biểu dương những điển hình, cơ quan BHXH tỉnh phải
thường xuyên kiểm tra tình hình chi trả các chế độ BHXH của các tổ chức đại
lý chi và có hình thức nhắc nhở các trường hợp chi trả chậm hoặc cố ý chây ì
chếm dụ vốn làm công việc khác, thường xuyên đối chiếu với các tổ chức chi
trả về các thông tin liên quan đến việc chi trả BHXH hưu trí, sự thay đổi về tiền
lương… việc kiểm tra, đối chiếu được tiến hành ngay trong nội bộ lẫn nhau và
được phòng kiểm tra của tỉnh thường xuyên kiểm tra giám sát công tác chi này.
Trong công tác kiểm tra phải thực hiện nghiêm túc công tác giải quyết khiếu nại
tố cáo của công dân về BHXH.
Qua nghiên cứu phương thức hoạt động BHXH ở một số nước cho thấy
ngay từ khi bắt đầu hoạt động, các tổ chức BHXH đều được tổ chức và hoạt
động theo luật BHXH, sau đó tùy theo yêu cầu thực tế luật BHXH sẽ được sửa
đổi bổ sung nhằm phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước trong

từng thời kì. Trên cơ sở đó đưa ra các quy định cụ thể về phương thức kiểm tra
phù hợp.
Chương 2:
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CHI BHXH Ở BHXH
TỈNH CAO BẰNG GIAI ĐOẠN 2007 - 2010
25

×