Tải bản đầy đủ (.doc) (96 trang)

Thực trạng bệnh sâu răng, viêm lợi và một số yếu tố liên quan ở học sinh lớp 5 huyện hoài đức, hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.12 KB, 96 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CSRM : Chăm sóc răng miệng
ĐTNC : Đối tượng nghiên cứu
KCB : Khám chữa bệnh
KTTH : Kiến thức, thực hành
NCV : Nghiên cứu viên
NHĐ : Nha học đường
SKRM : Sức khỏe răng miệng
SR : Sâu răng
SRVL : Sâu răng, viêm lợi
SRVV : Sâu răng vĩnh viễn
TTYT : Trung tâm y tế
VSRM : Vệ sinh răng miệng
WHO : World Health Organisation
TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Bệnh sâu răng và viêm lợi là hai bệnh phổ biến nhất trong các bệnh răng
miệng và cũng là hai bệnh phố biến nhất trong xã hội. Tỷ lệ mắc sớm, phổ biến và
tốn kém về kinh phí cho mọi quốc gia. Năm 1994 WHO.đánh giá bệnh sâu răng và
viêm lợi nước ta vào loại cao nhất thế giới.
Chúng tôi tiên hành nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng
mô tả cắt ngang kết hợp với nghiên cứu định tính với đề tài : “Thực trạng bệnh
sâu răng, viêm lợi và một số yếu tố liên quan ở học sinh lớp 5 huyện Hoài Đức,
tỉnh Hà Tây năm 2007”. Nghiên cứu được tiến hành qua việc khám và phỏng vấn
trên 289 học sinh khối lớp 5 ; phỏng vấn sâu các thầy (cô) giáo, cán bộ nha học
đường và thảo luận nhóm trên 12 bậc phụ huynh học sinh ở 3 trường tiểu học ở
Hoài Đức, Hà Tây.
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sâu răng là 58,48%, chỉ số sâu mất trám là
1,3. Tỷ lệ viêm lợi là 92,39%. Có 94,4% học sinh có mảng bám răng. Bằng cách
thang điểm chúng tôi có 37,72% học sinh có kiến thức đạt CSRM. Qua việc phỏng
vấn và thang điểm cũng cho thấy có 37,72% học sinh có kiến thức CSRM đạt, và


có 24,22% học sinh có thực hành đạt, có 42,56% bậc phụ huynh học sinh có kiến
thức CSRM cho con mình đạt. Những học sinh có phụ huynh dạy chải răng thì
kiến thức đạt cao gấp 1,94 lần những học sinh không có phụ huynh dạy. Những
học sinh có phụ huynh nhắc không cắn các vật cứng có thực hành đạt cao gấp 1,74
lần những học sinh không được phụ huynh nhắc. Những học sinh có kiến thức
CSRM đạt thì thực hành đạt cao gấp 9 lần những học sinh có kiến thức CSRM
không đạt. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng công tác NHĐ còn yếu kém, việc giảng
dạy cho học sinh về CSRM trong nhà trường còn sơ sài về nội dung và thời gian
dạy là chưa có nhiều, chưa có sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và y tế cơ sở
trong công tác NHĐ.
Qua nghiên cứu, chúng tôi đã rút ra được những kiến nghị cần thiết, đó là :
Đẩy mạnh công tác truyền thông tăng cường kiến thức cho học sinh, qua những
chương trình truyền hình chúng yêu thích, qua những phong trào thi đua ngoại
khoa nhà trường ; cần phải cung cấp đầy đủ thông tin về kiến thức CSRM cho học
sinh đối với các bậc phụ huynh ; cần đẩy mạnh công tác NHĐ, trong đó cần chú
trọng đặc biệt với việc phối hợp giữa gia đình, nhà trường và y tế cơ sở trong công
tác NHĐ ; cần tăng cường nhân lực cho công tác NHĐ ở các trường tiểu học, cần
đầu tư mô hình học tập cách CSRM trong các nhà trường.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh răng miệng là bệnh có nhiều ảnh hưởng tới sức khỏe và tính thẩm
mỹ của con người. Đây là bệnh có tỷ lệ mắc khá cao ở nước ta cũng như trên thế
giới, trong đó bệnh sâu răng và viêm quanh răng là hai bệnh phổ biến nhất. Theo
WHO vào những năm 70 đã xếp bệnh sâu răng và viêm lợi là tai họa thứ ba của
loài người sau bệnh tim mạch và bệnh ung thư vì những lý do sau :
- Bệnh mắc rất sớm, ngay sau khi răng mọc ( 6 tháng tuổi)
- Bệnh phổ biến ( Chiếm 90 đến 99% dân số), hiếm có ai không mắc phải
- Tổn phí chữa răng rất, vượt qua khă năng chi trả của mọi chính phủ, kể
cả những nước giàu có nhất.
Ở các nước đang phát triển như ở Việt Nam, xuất phát từ các điều kiện
kinh tế như : Kinh tế còn khó khăn, trang thiết bị và cán bộ răng hàm mặt thiếu

nghiêm trọng, tỷ lệ mắc bệnh còn cao và có chiều hướng tăng lên. Năm 1994,
WHO đánh giá bệnh sâu răng và viêm lợi nước ta vào loại cao nhất thế giới và
nước ta thuộc khu vực các nước có bệnh răng miệng đang tăng lên.
Theo đánh giá của Viện Răng Hàm Mặt Hà Nội, các bệnh về răng
miệng khá phổ biến trong cộng đồng dân cư, đặc biệt trẻ em lứa tuổi học
đường có tỷ lệ sâu răng và các bệnh quanh răng rất cao. Có tới 84,9% trẻ em
từ 6-8 tuổi bị sâu răng sữa và mỗi em có thể có 4, 5 chiếc răng sâu (25% sâu
răng vĩnh viễn).,lứa tuổi 12 là 56,6%[]
Nước ta từ năm 1987 chương trình nha học đường được Liên Bộ Y tế -
Giáo Dục và đào tạo triển khai. Chương trình NHĐ là các hoạt động chăm sóc sức
khỏe và dự phòng bệnh răng miệng cho học sinh, đặc biệt là khối học sinh tiểu học
nhằm từng bước hạ thấp tỷ lệ bệnh răng miệng và tăng cường sức khỏe cho học
sinh nói riêng và cộng đồng nói chung. Mặc dù chương trình nha học đường được
triển khai, song vì thiếu nhân lực, thiếu cơ sở vật chất phục vụ cho công tác, nên
hiệu quả vẫn chưa được cao[].
Theo tiến sĩ Trần Văn Trường, Viện trưởng Viện Răng
hàm mặt, đã cho biếtmột bác sĩ chuyên khoa này ở nước ta
phải phục vụ trung bình 25.000 dân, trong khi ở các nước phát
triển, tỷ lệ trên là 1/1.000-2.000. Mặt khác, tuy ngành y tế đã
chú trọng đẩy mạnh Chương trình Nha học đường, nhưng đến
nay, chương trình mới chỉ phủ kín được ở 5 tỉnh (Ninh Bình,
Nam Định, Hải Dương, Thừa Thiên - Huế, Thái Nguyên). Chỉ
có 4,5 trong tổng số 20 triệu học sinh được chăm sóc răng
miệng thường xuyên tại trường học. Theo giáo sư Lê Ngọc
Trọng, Thứ trưởng Bộ Y tế, một trong những điều cần làm
ngay để giảm số người mắc bệnh răng miệng ở Việt Nam là
đẩy mạnh chương trình Nha học đường
Ngoài bệnh sâu răng ra thì còn rất nhiều các bệnh về răng miệng khác như
bệnh viêm lợi có tỷ lệ mắc cao mà các em lứa tuổi 12 nói riêng cũng như toàn thể
người dân nói chung đang bị mắc hoặc đang có nguy cơ mắc.

Lứa tuổi 12 là lứa tuổi gần như tất cả răng vĩnh viễn đều mọc trên cung
hàm (Trừ răng khôn). Đặc điểm là bệnh xảy ra rất sớm, có thể ngay khi đang mọc
từ các yếu tố : Răng – Vi Khuẩn – Bột, đường từ đó tạo thành acid kết hợp với
thời gian. Lứa tuổi 12 được chọn như là lứa tuổi theo dõi đối với bệnh sâu răng
toàn cầu, dùng để so sánh quốc tế và giám sát xu hướng của bệnh. Ở lứa tuổi này
vấn đề chăm sóc răng miệng là yếu tố ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và vẻ đẹp
răng miệng về sau. Lứa tuổi này các em hầu hết đang học lớp 5, các em cũng đã có
ý thức cá nhân trong việc vệ sinh, và tự chăm sóc sức khỏe nói chung cho chính
bản thân mình. Do vậy, việc nghiên cứu các bệnh sâu răng và viêm lợi trên những
đối tượng này là việc làm cần thiết để có những can thiệp kịp thời giúp các em có
một bộ răng khỏe mạnh và có tính thẩm mỹ.
Xã Tân Trào. Phòng giáo dục, Phòng Y tế và Trung tâm Y tế Dự phòng
huyện đã kết hợp triển khai công tác NHĐ, công tác đặc biệt chú trọng vào đối
tượng học sinh tiểu học. Song vì thiếu nhân lực, kinh phí, vật tư nên công tác
NHĐ vẫn còn nhiều hạn chế, tỷ lệ mắc các bệnh răng miệng còn khá cao đặc biệt
là lứa tuổi 12, tỷ lệ mắc các bệnh sâu răng và viêm lợi theo báo cáo y tế của
Trung tâm Y tế dự phòng năm 2006 là 78%. Lứa tuổi 12 là lứa tuổi các em hầu hết
là đang học lớp 5 năm học 2006 – 2007 trên địa bàn.
Từ những thực tế trên, cho thấy bệnh răng miệng là một vấn đề sức khỏe
của cộng đồng nói chung và cũng là vấn đề sức khỏe của học sinh lớp 5 trên địa
bàn huyện Hoài Đức nói riêng. Can thiệp nhằm giảm tỷ lệ mắc bệnh răng miệng
cho các em học sinh lớp 5 nói riêng và cho cộng đồng nói chung là vấn đề cần
thiết.
Do vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với đề tài: “Thực trạng bệnh sâu
răng, viêm lợi và một số yếu tố liên quan ở học sinh lớp 5 huyện Hoài Đức, tỉnh
Hà Tây năm 2007”
Nghiên cứu triển khai đã cho thấy được rõ thực trạng của một số bệnh
răng miệng và biết được một số nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp gây ra bệnh
răng miệng ở khối học sinh lớp 5 trên địa bàn huyện. Qua đó sẽ đề ra được một số
giải pháp can thiệp kịp thời, trên cơ sở đó sẽ giảm được tỷ lệ mắc các bệnh răng

miệng ở khối học sinh lớp 5 cũng như cộng đồng nói chung một cách hiệu quả
nhất.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. Mục tiêu chung.
Mô tả thực trạng bệnh sâu răng, viêm lợi và một số yếu tố liên quan ở học
sinh lớp 5 huyện Hoài Đức tỉnh Hà Tây năm 2007.
2.2. Mục tiêu cụ thể
2.1. Xác định tỷ lệ sâu răng, viêm lợi học sinh khối lớp 5 huyện Hoài Đức – Hà
Tây.
2.2. Mô tả kiến thức, thực hành phòng chống sâu răng, viêm lợi ở học sinh khối lớp 5
huyện Hoài Đức – Hà Tây.
2.3. Xác định mối liên quan giữa bệnh sâu răng, viêm lợi và kiến thức, thực hành ở
học sinh khối lớp 5 trên điạ bàn huyện Hoài Đức – Hà Tây.
Chương I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu tổ chức học của răng và vùng quanh răng [4], [14]
1.1.1. Các phần của răng
Mỗi răng có phần thân răng và chân răng. Giữa thân răng và chân răng là
đường cổ răng (cổ răng giải phẫu), là một đường cong, còn gọi là đường nối men -
xê măng. Thân răng được bao bọc bởi men răng, chân răng được xê măng bao bọc.
Vùng quang răng gồm lợi, dây chằng quanh răng, xê măng và xương ổ răng.
1.1.2. Cấu tạo của răng
Bao gồm men răng , ngà răng và tuỷ răng
1.1.2.1. Men răng
Men răng phủ ngoài ngà thân răng, có nguồn gốc từ ngoại bì, là mô cứng
nhất trong cơ thể, có tỷ lệ vô cơ cao nhất (khoảng 96%). Men răng dày mỏng tuỳ
vị trí khác nhau, dày nhất ở núm răng là 1,5 mm và mỏng nhất ở vùng cổ răng.
Hình dáng và bề dày của men răng xác định từ trước khi răng mọc ra, trong đời
sống men răng không có sự bồi đắp thêm mà chỉ mòn dần theo tuổi, nhưng có sự
trao đổi vật lý và hoá học với môi trường trong miệng.

Về mặt hoá học, vô cơ chiếm 96%, chủ yếu là 3 [(PO
4
)
2
Ca
3
]Ca(OH)
2
còn lại là các
muối cacbonat của magiê, và một lượng nhỏ clorua và muối sufat của natri và kali.
Thành phần hữu cơ chiếm khoảng 1% trong đó chủ yếu là protit.
Về mặt lý học, men răng cứng, dòn, trong và cản tia X, với tỷ trọng từ 2,3 -
3 so với ngà răng.
Cấu trúc hoá học của men răng: quan sát dưới kính hiểm vi thấy hai loại đường
vân:
- Đường Retzius: trên tiêu bản cắt ngang là các đường song song nhau và song song
với đường viền ngoài của lớp men cũng như với đường ranh giới men ngà ở phía
trong. Trên tiêu bản cắt dọc thân răng, đường Retzius hợp với ranh giới men ngà
cũng như mặt ngoài của men thành một góc nhọn.
- Đường trụ men: chạy suốt chiều dày men răng và hướng thẳng góc với đường
ngoài trong của men răng, đôi khi có sự gấp khúc và thay đổi hướng đi của trụ
men. Trụ men có đường kính từ 3 - 6 μm, cắt ngang qua trụ men ta thấy tiết diện
có các loại hình thể: vẩy cá 57%, lăng trụ 30%, không rõ ràng 10%, hướng đi của
trụ men tạo ra các dải sáng tối xen kẽ chính là dải Hunter - Schrenge.
Cấu trúc siêu vi của men: thành phần hữu cơ có cấu trúc sợi và sắp xếp dọc theo
trụ men, có vùng hợp với trụ men góc 40
o
, thành phần vô cơ là các khối tinh thể to
nhỏ không đều dài 1μm rộng 0,04 - 0,1 μm, các tinh thể trong trụ men sắp xếp
theo hình xương cá đôi khi theo hình lốc. Cấu tạo của các tinh thể là hydroxy

apatit, chất giữa trụ men là các giả tinh thể apatit (thay PO
4
bằng Ca(CO
3
))
1.1.2.2 Ngà răng
Có nguồn gốc từ trung bì , kém cứng hơn men, chất tỷ lệ vô cơ thấp hơn
(75%) chủ yếu là 3 [( (PO
4
)
2
Ca
3
)
2
H
2
O] . Trong ngà răng có nhiều ống ngà, chứa
đuôi bào tương của nguyên bào ngà.Bề dày ngà răng thay đổi trong đời sống do
hoạt động của nguyên bào ngà, ngà răng ngày càng già theo hướng về phía hốc tủy
răng, làm hẹp dần ống tủy.
Về tổ chức học: Ngà răng được chia làm hai loại
- Ngà tiên phát chiếm khối lượng chủ yếu và được tạo nên trong quá trình hình
thành răng, nó bao gồm:ống ngà, chất giữa ông ngà, dây Tôm.
- Ngà thứ phát được sinh ra khi răng đã hình thành rồi, nó gồm ngà thứ phát sinh
lý, ngà phản ứng và ngà trong suốt.
Ống ngà: có số lượng từ 15-50000/1mm
2
, đường kính ống từ 3-5 µm, ống ngà
chính chạy suốt chiều dày của ngà tận và tận cùng bằng đầu chốt ở ranh giới men

ngà, ống ngà phụ là ống nhỏ hoặc nhánh bên, nhánh tận cùng của ống ngà chính.
Chất giữa ống ngà có cấu trúc sợi được ngấm vôi, sắp xếp thẳng góc với ống
ngà.
Dây Tôm: nằm trong ống ngà là đuôi nguyên sinh chất của tế bào tạo ngà.
1.1.2.3. Tủy răng
Là mô liên kết mềm, nằm trong hốc tủy gồm tủy chân và tủy thân. Tủy răng trong
buồng tủy gọi là tủy thân, tủy buồng, tủy răng trong ống tủy gọi là tủy chân. Các
nguyên bào ngà nằm sát vách hốc tủy.
Tủy răng có nhiệm vụ duy trì sự sống của men răng, cụ thể là sự sống của nguyên
bào ngà và tạo ngà thứ cấp, nhận cảm giác của răng. Trong tủy răng có chứa nhiều
mạch máu, mạch bạch huyết và đầu tận cùng của thần kinh.
Về tổ chức, tủy răng gồm hai vùng: vùng cạnh tủy gồm các lớp tế bào tạo ngà
(2-3) lớp và lớp không có tế bào gồm những tổ chức sợi tạo keo.
Vùng giữa tủy là tổ chức có nhiều tế bào, ít tổ chức sợi.
1.1.3 Vùng quanh răng.
Bao gồm xương ổ răng, xê măng, dây chằng nha chu và lợi răng.
1.1.3.1 Xương ổ răng
Là mô xương xốp, bên ngoài được bao bọc bằng màng xương, nơi nướu răng bám
vào. Xương ổ răng tạo thành một huyệt, có hình dáng và kích thước phù hợp với
chân răng.Bề mặt ổ răng, nơi đối diện với chân răng, là mô xương đặc biệt có
nhiều lỗ thủng để cho mạch máu, thần kinh từ xương xuyên qua để nuôi dây chằng
nha chu, gọi là xương ổ chính danh hay lá sàng.
Xương ổ răng và xê măng là thành phần tổ chức cứng của tổ chức quanh răng.
Thành phần này không bị tổn thương trong bệnh viêm lợi, nó bị tổn thương trong
bệnh viêm quanh răng.
1.1.3.2. Xê măng
Là mô đặc biệt, hình thành cùng với sự hình thành chân răng, phủ mặt ngoài ngà
chân răng. Xê măng được bồi đắp thêm ở phía chóp chủ yếu để bù trừ sự mòn mặt
nhai, được coi là hiện tượng mọc răng suốt đời.
1.1.3.3. Dây chằng nha chu.

Dây chằng nha chu nằm ở khe giữa xương ổ răng và xê măng, bình thường khe
này rộng 0,15-0,25 mm. Dây chằng nha chu có nhiệm vụ giữ cho răng gắn vào
xương ổ răng và đồng thời có chức năng làm vật đệm, làm cho mỗi răng có sự xê
dịch nhẹ độc lập với nhau trong khi ăn nhai, giúp lưu thông máu, truyền cảm giác
áp lực và truyền lực để tránh tác có hại của lực nhai đối với răng và nha chu.
1.1.3.4. Lợi răng
Bao gồm lợi bám dính và lợi tự do.
Lợi tự do có bờ lợi tự do ( đường viền lợi) và nhú lợi (núm lợi)
Bình thường lợi tự do hình lượn sóng ôm sát vào xung quanh của một phần thân
răng và cổ răng. Đường viền lợi ở mặt ngoài và mặt trong của răng, nhú lợi ở
phần kẽ giữa hai răng đứng cạnh nhau. Mặt trong của đường viền lợi và núm lợi
cùng với phía ngoài của thân răng có khe hở gọi là khe lợi. Khe này sâu 0,5-1mm.
Khi răng mới mọc có thể có chiều sâu 0,8-2mm. Đáy khe lợi ở ngang cổ răng.
Vùng lợi dính hơi gò lên, nối tiếp từ phần lợi tự do đến phần niêm mạc di động.
1.1.4. Giải phẫu răng sữa [ 14], [17]
Tương tự răng vĩnh viễn nhưng có một số đặc điểm khác nhau:
- Răng sữa nhỏ hơn răng vĩnh viễn rất nhiều trên cùng một người.
- Tỷ lệ thân răng trên chiều dài toàn bộ răng ngắn hơn răng vĩnh viễn.
- Tương quan giữa kích thước gần xa thân răng với chiều cao thân răng của bộ rang
sữa lớn hơn răng vĩnh viễn.
- Các răng cửa sữa có gờ cổ do có sự lồi ra nhiều của mặt trong và ngoài ở 1/3 cổ.
- Chân của các răng sữa dài và mảnh hơn, chúng uốn cong và dang rộng hơn vượt
qua đường viền ngoài của thân răng ( Nhờ vậy tạo được khoảng trống rộng giữa
các chân răng nơi mầm răng vĩnh viễn phát triển)
- Thân răng có màu trắng sữa.
- Men răng mỏng, ngà răng mỏng, buồng tủy rộng, các sườn tủy nhô cao, đặc biệt ở
một số vùng của răng cối sữa hai hàm dưới.
1.2. Sinh bệnh học sâu răng và viêm lợi
1.2.1. Sinh bệnh học sâu răng [12], [15]
Bệnh sâu răng là bệnh đa nguyên nhân trong đó vi khuẩn đóng vai trò quan

trọng. Ngoài ra còn phải có các yếu tố thuận lợi như chế độ ăn uống nhiều đường,
VSRM không tốt, chất lượng men răng kém và môi trường tự nhiên, nhất là môi
trường nước ăn uống có hàm lượng fluor thấp (hàm lượng fluor tối ưu là 0,8-0,9
pp/lit) đã tạo điều kiện cho sâu răng phát triển [8]
Trước năm 1970, người ta cho rằng bệnh căn của sâu răng là do nhiều
nguyên nhân với sự tác động của 3 yếu tố. Vi khuẩn trong miệng mà chủ yếu là
Streptococcus mutans lên men các chất bột và đường còn dính lại răng tạo thành
các acid, acid này đã phá hủy tổ chức cứng của răng tạo thành lỗ sâu, qua lỗ sâu,
vi khuẩn thâm nhập vào tủy răng gây viêm tủy và gây viêm quanh cuống răng.
Sự phối hợp của các yếu tốnày để gây sâu răng được thể hiện bằng sơ đồ Keyes:

Với sơ đồ Keyes, người ta chú ý nhiều đến chất đường và vi khuẩn
Steptococcus do đó việc dự phòng cũng chú ý quan tâm đến chế độ ăn hạn chế
đường và VSRM. Áp dụng thực tế vào bệnh sâu răng thấy kết quả đạt được không
cao, tỷ lệ sâu răng giảm xuống không đáng kể.
Về sau, White giải thích sinh bệnh học sâu răng bằng thay việc thay vòng
chất đường trong sơ đồ Keyes bằng vòng tròn chất nền và đề cao vai trò của nước
bọt, pH dòng nước chảy bọt quanh răng và vai trò của fluor.
Cơ chế sinh bệnh học của sâu răng được thể hiện bằng hai quá trình hủy khoáng
và tái khoáng. Nếu quá trình hủy khoáng lớn hơn quá trình tái khoáng thì sẽ gây
sâu răng.

Sâu răng = Hủy khoáng > Tái khoáng
Các yếu tố gây mất ổn định lám sâu răng:
+ Mảng bám vi khuẩn
+ Chế độ ăn nhiều đường
+ Nước bọt hay thiếu acid
+ Acid từ dạ dạy tràn lên miệng
+ pH < 3



Các yếu tố bảo vệ:
+ Nước bọt
+ Trám bít hố rãnh
+ Khả năng kháng acid của men
+ Fluor có ở bề mặt men răng
+ Độ Ca
++
, NPO
4
quanh răng
+ pH > 5,5
Hình 1.4. Sơ đồ tóm tắt cơ chế sâu răng [15]
Với sự hiểu biết nhiều hơn vê sinh bênh học quá trình sâu răng nên hơn hai thập
kỷ qua, loài người đã đạt được nhiều thành tựu lớn trong dự phòng sâu răng.
1.2.2 Sinh bệnh học viêm lợi [5], [10], [24], [44]
Bệnh quạnh răng là bệng rất phổ biến, tỷ lện mắc bệnh rất cao, ở trẻ em chủ
yếu là bệnh viêm lợi.
Bệnh quanh răng do nhiều nguuyên nhân như thiếu sinh tố, sang chấn khớp
căn, vi khuẩn và VSRM kém…trong đó vi khuẩn và VSRM kém tạo nên cặn bám
răng là nguyên nhân chính.
Cặn bám răng hình thành trên bề mặt răng ngay sau khi ăn. Cặn bám răng
được hình thành và phát triển khi môi trường trong miệng giàu chất dinh dưỡng,
nhất là đường Saccharose. Lúc đầu, cặn bám là vô khuẩn, sau khi vi khuẩn xâm
nhập và phát triển thành cặn bám vi khuẩn (MBVK) sau 2 giờ. Ở giai đoạn này
các cặn bám dễ dàng được làm sạch bằng cách chỉa răng. Thành phần trong cặn
bám răng: vi khuẩn chiếm chủ yếu đến 70% trọng lượng, còn 30% là chất hữu cơ:
- Hai ngày đầu chủ yếu là vi khuẩn Gram dương
- Hai ngày tiếp thoe là vi khuẩn hình sợi và hình thoi phát triển.
- Ngày thứ tư đến ngày thứ chín có xoắn khuẩn

Chiều dày của MBVK thay đổi từ 54 – 2000gam. Theo Theilade và Loe(1996)
thành phần, số lượng của các loại vi khuẩn thay đổi theo thời gian, vị trí phát triển
của các MBVK. Theo Ritz ( 1969), khi MBVK dày lên và có nhiều lớp thì có vi
khuẩn yếm khí và trực khuẩn Gram am tăng lên, các laọi này khởi điểm cho tổ
chức viêm và thấy rõ trên lâm sàng.
Các vi khuẩn xâm nhập vùng quanh răng gây viêm, phá hủy tổ chức. Tác động
của chúng có thể:
+ Trực tiếp: do hoạt động của vi khuẩn sản sinh ra các men, nội độc tố, các
sản phẩm đào thải…
+ Gián tiếp: do vai trò kháng nguyên của chúng.
Viêm lợi xuât hiện rất sớm khi cặn bám răng hình thành được bảy ngày.
1.3. Dịch tễ học sâu răng và viêm lợi
1.3.1 Tình hình sâu răng ở trẻ em
1.3.1.1 Trên thế giới
Taị hôi nghị Alma Ata( 1978), WHO đã công bố có hơn 90% dân số thế giới
mắc bệnh sâu răng và đã phát động chương trình hành động vì sức khỏe răng
miệng cho con người đến năm 2000. Đồng thời có chương trình giúp đỡ cho tất cả
các nước trên thế giới triển khai chương trình này. Qua hai thập kỷ, chương trình
này đã phát huy được hiệu quả to lớn ở nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Song, việc việc triển khai thực hiện chương trình sâu răng còn phụ thuộc vào
rất nhiều vào điều kiện kinh tế- xã hội và khả năng ở mỗi nước, nên kết quả thực
hiện chương trình này còn ở nhiều mức độ khác nhau. Bệnh răng miệng trên thế
giới ngày nay có hai khuynh hướng rõ rệt
+ Ở các nước phát triển: Từ những năm 1940 đến 1960, tình hình sâu răng rất
nghiêm trong, trung bình mỗi trẻ em 12 tuổi có 8- 10 răng sâu hoặc răng đã bị mất
do sâu. Chỉ số DMFT của Nauy tới mức 12,0 năm 1940. Tới những năm 1980, chỉ
số DMFT ở tuổi 12 ở các nứơc này đã giảm xuống mức từ 2,0 – 4,0. Tớ năm 1993,
chỉ số DMFT tuổi 12 ở hầu hết các nước công nghiệp đã giảm xuống mức thấp từ
1,2 – 2,6 [12]. Như vậy, nhìn chung từ cuối những năm của thập kỷ 1970 tới nay,
tình hình sâu răng tại các nước phát triển có xu hướng giảm dần, chỉ số DMFT

tuổi 12 tại hầu hết các nước ở mức thấp và rất thấp.
+ Ở các nước đang phát triển: Ở thời điểm của những năm của thập kỷ 1960,
tình hình sâu răng ở mức thấp hơn nhiều so với các nước phát triển. Chỉ số DMFT
tuổi 12 ở thời kỳ này nói chung từ 1,0 – 3,0, thậm chí một số nước dưới mức 1,0
như Thái Lan, Uganda,Zaire. Tới thập kỷ 1970 và 1980 thì chỉ số này lại tăng lên
và ở mức từ 3,0 đến 5,0 và một số nước còn cao hơn như Chilê là 6,3, French
Polynesia là 120,7 [12]. Nhìn chung, tình trạng sâu răng của các nước đang phát
triển có xu hướng đều tăng.
1.3.1.2. Ở Việt Nam
Theo Võ Thế Quảng [21], qua kết quả điều tra cơ bản bệnh răng miệng toàn
quốc năm 1991 cho thấy, sâu răng ở Việt Nam tăng dần theo tuổi cả về tỷ lệ sâu
răng ở Việt Nam có xu hướng gia tăng. So với kết quả điều tra răng miệng toàn
quốc năm 2001 do Trần Văn Trường và Trình Đinh Hải công bố thì tình hình sâu
răng ở Việt Nam có xu hướng tăng lên và không đồng bộ giữa các vùng miền
trong cả nước [29].Cụ thể:
Theo Nguyễn Văn Cát [5], tỷ lệ sâu răng ở trẻ em dưới 12 tuổi trên toàn quốc
năm 1983-1984 là:
Miền Bắc :19,30% DMFT
Miền Nam :76,29% DMFT
Năm 1991, theo kết quả điều tra cơ bản bệnh sâu răng miệng toàn quốc lần thứ
nhất, tỷ lệ sâu răng ở trẻ em 12 tuổi:
Việt Nam :57,33% DMFT là 1,82
Miền Bắc :43,33% DMFT là 1,15
Miền Nam :76,33% DMFT là 2,93
Năm 2001 theo kết quả điều tra cơ bản bệnh răng miệng toàn quốc lần thứ hai
do Trần Văn Trường và Trịnh Đình Hải công bố, tỷ lệ sâu răng ở trẻ em [29]:
Tuổi 5-6 ( răng sữa)
Tỷ lệ sâu răng : 84.90%
Chỉ số dmft : 5.54
Chỉ số dmfs : 12.98

Tuổi 12:
Tỷ lệ sâu răng : 56,60%
Chỉ số DMFT : 1,87
Chỉ số DMFS : 3,02
1.3.2. Tình hình viêm lợi
Theo nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài, trẻ em bị viêm lợi ở các nước trên
thế giới đều cao, có nơi tỷ lệ này là trên 90%[ 52].
Ở Việt Nam, theo kết quả điều tra bệnh răng miệng toàn quốc lần một thì tỷ lệ học
sinh viêm lợi ở lứa tuổi 12 là 95%, trong đó từng điạ phương là:
Hà Nội 84%
Thành phố Hồ Chí Minh 100%
Hải Hưng 100%
Cao Bằng 88%
Sau mười năm, năm 2001, Trần Văn Trường và Trịnh Định Hải công bố tình trạng
viêm lợi ở Việt Nam sau điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc lần 2 năm 2001
[29]:
Tỷ lệ trẻ em có chảy máu lợi
Trẻ 6-8 tuổi: 42,7%
Trẻ 9-11 tuổi: 69,2%
Trẻ 12-14 tuổi: 71,4%
Tỷ lệ trẻ em có cao răng:
Trẻ 6-8 tuổi: 25,5%
Trẻ 9-11 tuổi: 56,8%
Trẻ 12-14 tuổi: 78,4%
1.4. Các biện pháp phòng bệnh sâu răng và viêm lợi cho học sinh
1.4.1. Các biện pháp phòng sâu răng
Từ những hiểu biết về nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh của sâu răng, WHO đã
đưa ra một số biện pháp phòng bệnh sâu răng chủ yếu sau [11], [12], [46], [50]:
* Sử dụng Fluor:
- Fluor hóa nguồn cung cấp nước công cộng với độ tập trung fluor từ 0,7 đến 1,2

mgF/lít nước mà độ tập trung tối ưu tùy thuộc vào khí hậu.
- Đưa fluor vào muối với độ tập trung flour là 250mgF/1kg muối.
- Dùng viên flour.
- Flour hóa nguồn cung cấp nước ở trường học với độ tập trung flour cao hơn mức
độ tập trung flour tối ưu trong nước công cộng 4,5 lần.
- Xúc miệng với các dung dịch flour pha loãng. Cho trẻ em xúc miệng hàng ngày
với dung dịch flour 0,05% hoặc xúc miệng mỗi tuần một lần với dung dịch flour
0,2%.
- Dùng kem đánh răng có flour.
- Dùng gel flour hoặc vecni flour.
- Sử dụng phối hợp các dạng flour.
* Trám bít hố rãnh:
Áp dụng đối với các mặt nhai để ngăn ngừa sâu ở hố và rãnh răng sau khi răng
vĩnh viễn mọc.
* Chế độ ăn uống hợp lý:
Kiểm soát các thức ăn và đồ uống có đường bao gồm các biện pháp dưới đây:
- Kiểm soát các thực phẩm có đường ở trường học.
- Giảm dần số lần ăn các thực phẩm có đường.
- Giảm mức độ tiêu thụ đường ở tầm quốc gia.
- Dùng các sản phẩm thay thế đường: xylitol, malnitol,
* Hướng dẫn vệ sinh răng miệng:
- Các biện pháp được giám sát chặt chẽ ở trường bao gồm chải răng và dùng chỉ
nha khoa.
- Các biện pháp không giám sát được như thực hiện chải răng và các biện pháp
VSRM khác ở nhà.
Tuy vậy, tùy theo đặc điểm cụ thể mà mỗi nước, thậm chí các khu vực trong một
nước lựa chọn các biện pháp khác nhau cho phù hợp với thực tiễn ở các nước và
các khu vực.
• Mục tiêu dự phòng sâu răng
Từ năm 1979 đến năm 1994, WHO đã nhiều lần đưa ra và bổ sung các mục tiêu

toàn cầu về dự phòng sâu răng [46], [50].
Bảng 1.1. Mục tiêu toàn cầu dự phòng sâu răng trẻ em cho năm 2010
Lứa tuổi Mục tiêu
5-6 90% trẻ em không bị sâu răng
12 Răng sâu mất trám <1
18 100% giữ được toàn bộ sâu
Ở Việt Nam, mục tiêu của chương trình nha học đường là đạt được mục tiêu về dự
phòng sâu răng của WHO [9], [10], [13], [26] và đảm bảo ít nhất 80% học sinh
tiểu học và trung học cơ sở được CSRM ổn định, dài lâu qua chương trình nha học
đường.
1.4.2. Dự phòng bệnh quanh răng
• Các biện pháp can thiệp [10], [46]
* Biện pháp cơ học làm sạch cặn bám răng
- Các kỹ thuât chải răng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
+ Làm sạch được tất cả các mặt răng, đặc biệt là vùng rãnh lợi và kẽ răng. Việc
chải răng thường làm sạch tốt ở phần lồi của răng nhưng hay để lại cặn bám ở
những phần lõm và nơi bị che khuất.
+ Việc di chuyển bàn chải không được làm tổn thương tổ chức mềm và tổ chức
cứng. Chải răng theo hướng thẳng đứng và kéo ngang có thể làm co lợi và mòn
răng.
+ Kỹ thuật phải đơn giản và dễ học, dễ hướng dẫn cho cộng đồng.
+ Có hai kỹ thuật chải răng được nhiều người ưu chuộng là kỹ thuật cuốn ( the
rool technique), được dùng khi lợi nhạy cảm và kỹ thuật Bass ( the Bass
technique) được dùng khi lợi lành mạnh.
- Làm sạch kẽ răng bằng chỉ tơ nha khoa, bàn chải kẽ, tăm gỗ…
- Phương pháp phun tưới.
* Kiểm soát cặn bám răng bằng phương pháp hóa học
Đây là biện pháp dùng nước súc miệng có tác dụng lên cặn bám răng theo một số
cơ chế sau:
- Kìm hãm sự phát triển của các khuẩn lạc trong hốc miệng.

- Ngăn cản việc định cư của các vi khuẩn ở bề mặt răng.
- Ức chế việc hình thành cặn bám răng.
- Hòa tan các cặn bám đã hình thành.
- Ngăn ngừa sự khoáng hóa các cặn bám.
Nước súc miệng có tác dụng làm sạch miệng khỏi các mảnh vụn thức ăn. Ngoài
ra do các chất kháng khuẩn nên nó có tác dụng phòng ngừa và giảm tích tụ cặn
bám răng và có fluor nên làm giảm sâu răng.
* Khắc phục sửa chữa các sai sót.
Bao gồm sử chữa lại các răng hàn hoặc phục hồi sai quy cách, tạo điểm tiếp
giáp giữa các răng…
* Chế độ ăn uống
Thiếu hụt dinh dưỡng phối hợp với cặn bám răng sẽ làm tăng quá trình viêm lợi,
vì phải có chế độ ăn cân bằng.
Thành phần hóa học và tính chất lý học của thức ăn cũng ảnh hưởng đến tổ
chức lợi. Các thực phẩm sơ làm sạch răng, các thức ăn mềm, dính có đường lại là
điều kiện tốt để hình thành cặn bám răng.
* Tuyên truyền phòng bệnh.
Việc tuyên truyền phòng bệnh giúp cho các trẻ em trong cộng đồng có kiến thức,
hiểu biết và từ đó có thay đổi về nhận thức, quan diểm dẫn đến thay đổi về nhận
thức, quan điểm dẫn đến thay đổi về thói quen trong CSRM.
Khi tuyên truyền giáo dục VSRM cần chú ý dùng từ dễ hiểu, đơn giản, ngắn gọn
và ít thông tin nhung dễ lặp lại và mọi người dễ nhớ.
• Mục tiêu can thiệp dự phòng bệnh quanh răng.
Các nước EEC đã đặt ra mục tiêu cho năm 2000 là ở lứa tuổi 18 có 90% người có
sức khỏe lợi ở mức chấp nhận được, tức là mỗi người có ít nhất ba vùng lục phân
lành mạnh(CPITN 0) [10], [46].
Ở Mỹ, người ta đã đặt ra mục tiêu cho năm 1990 là giảm tỷ lệ trẻ em viêm lợi ở
lứa tuổi 6 – 17 xuống còn 18% so với 23% năm 1971 [46].
Năm 1994, WHO đã đặt mục tiêu năm 2010 [10]:
Bảng 1.2. Mục tiêu về sức khoẻ răng miệng đến năm 2010

Lứa tuổi Mục tiêu
35-45 - Dưới 2% người không còn răng
- 90% người còn ít nhất 20 răng còn
chức năng
65-74 - Dưới 5% người không còn răng
- 75% người còn ít nhất 20 răng chức
năng
Ở Việt Nam, mục tiêu từ năm 2000 đến năm 2010 là giảm tỷ lệ trẻ em viêm lợi
xuống 50% so với năm 1990 [21],[25],[28]
1.4.3 Chương trình nha học đường
Trong khoảng hai thập niên trở lại đây, các nước phát triển đã thành công trong
việc giảm tỷ lệ sâu răng nhờ vào các biện pháp phòng bệnh sâu răng hữu hiệu, đó
là việc sử dụng fluor trong cộng đồng, đặc biệt là trong các trường học. Xây dựng
chương trình phòng chống sâu răng có hiệu quả bằng chăm sóc răng miệng trẻ em
trong nhà trường là giải pháp tốt nhất và cũng là cách thức mà Việt Nam cũng như
các nước đang phát triển đi theo.
Ở nước ta chương trình nha học đường đã được tiến hành từ những năm 1980
[31]. Đến nay, nó đã được thực hiện ở 61 tỉnh thành với 3 nội dung can thiệp dưới
đây [9], [26].
- Nội dung 1: Giáo dục nha khoa: Hướng dẫn học sinh phương pháp trải răng và
các biện pháp khác làm sạch răng, giữ gìn VSRM. Khắc sâu thói quen chải răng
hàng ngày và phát triển kỹ năng trải răng cho trẻ em.
- Nội dung 2: Cho học sinh súc miệng nước fluor 0.2% tại trường mỗi tuần 1 lần.
- Nội dung 3: Dự phòng lâm sàng: bao gồm lấy cao răng điều trị viêm lợi, hàn
răng sâu sớm, nhổ răng sữa thay, khám răng miệng định kỳ và trám bít hố rãnh,
kiểm tra VSRM…
Tùy theo điều kiện cụ thể của từng địa phương mà triển khai các nội dung trên
ở các mức độ khác nhau.
1.5. Các chỉ số dùng trong điều tra dịch tễ học bệnh răng miệng [10], [24], [44].
Để đánh giá tình hình sức khỏe răng miệng, trong điều tra dịch tễ học có sử

dụng một số chỉ số sau:
- Chỉ số DMFT (chỉ số sâu mất trám răng vĩnh viễn)
- Chỉ số dmft ( chỉ số sâu mất trám răng sữa)
- Chỉ số CPITN ( chỉ số tình trạng quang răng và nhu cầu điều trị của cộng đồng).
- Chỉ số OHI-S ( vệ sinh răng miệng đơn giản).
Chương III
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
- Học sinh lớp 5 của huyện Hoài Đức, Hà Tây.
- Thầy cô giáo của trường tiểu học nghiên cứu.
- Cán bộ nha học đường của nhà trường .
- Bố mẹ học sinh.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cắt ngang có phân tích kết hợp nghiên cứu định lượng và định tính:
- Nghiên cứu định lượng:
+ Dựa trên bộ câu hỏi phỏng vấn kiến thức thực hành , các yếu tố liên
quan trên khối học sinh lớp 5 của huyện.
+ Số liệu khám lâm sàng của các bác sỹ chuyên khoa răng
- Nghiên cứu định tính:
+ Phỏng vấn sâu: Hiệu trưởng 3 người, giáo viên chủ nhiệm 6 người, cán
bộ nha học đường 3 người.
+ Thảo luận nhóm: Cha mẹ học sinh tham gia nghiên cứu 12 người trong
đó 6 người có con mắc bệnh sâu răng, viêm lợi và 6 người có con không bị mắc
bệnh sâu răng, viêm lợi.
Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu định lượng
3.3.1. Cỡ mẫu:
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
p(1-p)
n =Z
2

1-
α
/2
DE
d2
Trong đó:
- n: cỡ mẫu; Z = 1,96 (α = 0,05; độ tin cậy 95%).
- p =0,78 là tỷ lệ mắc sâu răng và viêm lợi năm 2006
- q = 1 - p = 1-0,78=0,22
- d: Sai số cho phép = 10% = 0,10.
- DE=2
Ta tính được n = 264
Dự phòng 10 % bỏ cuộc ta lấy cỡ mẫu nghiên cứu là 300 đối tượng
3.3.2. Cách chọn mẫu:
Chọn mẫu theo phương pháp chọn mẫu phân tầng:
−Bước1: Liệt kê danh sách 24 trường tiểu học trên địa bàn huyện, dựa trên
những đặc điểm về mức sống, thu nhập phân ra các trường tiểu học thuộc khu vực
xã có mức sống cao ( thuộc khu vực thị trấn) có trường tiểu học Thị trấn Trạm
trôi, và khu vực có mức sống thấp (nông thôn) có 23 trường tiểu học còn lại.
−Bước 2: Theo khảo sát ban đầu học sinh lớp 5 ở mỗi trường khoảng 100 học
sinh, ở khu vực thi trấn chọn trường tiểu học thị trấn Trạm Trôi. Khu vực nông
thôn rút ngẫu nhiên 2 trường tiểu học ta rút được 2 trường tiểu học Vân Canh và
trường tiểu học An Khánh.
−Bước 3: Lấy toàn bộ số lượng học sinh khối lớp 5 ở 3 Trường đã chọn.
3.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.
- Ba trường tiểu học huyện Hoài Đức, tỉnh Hà tây.
- Thời gian: Tháng 4/2007 đến tháng 8 /2007
3.5. Phương pháp thu thập số liệu
3.5.1. Công cụ thu thập thông tin.
a) Nghiên cứu định lượng:

×