Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn kĩ năng rèn luyện học sinh yếu kém trong giảng dạy bộ môn tiếng anh thpt tống duy tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (219.73 KB, 20 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Cơ sở lý luận
Giáo viên giữ vai trò quyết định trong việc bảo đảm chất lượng giáo dục. Thật
vậy, nếu người thầy biết cách tổ chức điều khiển học sinh trong hoạt động học
tập, thì chất lượng học tập bộ môn sẽ được nâng cao.
Hiện nay chúng ta đang hướng tới dạy học cá thể hóa – phương pháp giảng
dạy yêu cầu người giáo viên phải quan tâm tới từng đối tượng học sinh, dạy
cho từng cá nhân chứ không phải dạy theo số đông. Muốn vậy, giáo viên phải
nắm được năng lực tiếp nhận và cả đặc điểm tâm sinh lý của từng em. Người
thầy không những phải nắm vững và trau dồi chuyên môn thường xuyên mà
còn phải biết vận dụng một cách sát hợp với từng đối tượng để động viên
khuyến khích các em học tốt hơn.Nói cách khác, phương pháp dạy phải phù
hợp với đối tượng. Dạy học sinh yếu kém khác với dạy học sinh khá giỏi,
người giáo viên phải có kỹ năng tiếp cận, nắm bắt được đối tượng để từ đó có
phương pháp dạy phù hợp, hiệu quả.
II. Cơ sở thực tiễn:
1, Thực trạng về việc học tập bộ môn Tiếng Anh của học sinh phổ
thông
Trong trường phổ thông, tiếng Anh được giảng dạy cho tất cả các học
sinh.Tuy nhiên, do nội dung chương trình sách giáo khoa quá tải, sĩ số học
sinh đông, sức học của học sinh còn hạn chế, một số giáo viên ít chịu khó đầu
tư, tìm tòi những phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học
sinh, cơ sở vật chất, trang thiết bị nghèo nàn…nên chất lượng dạy và học môn
Tiếng Anh hiện nay còn thấp.Trong các tiết học tiếng Anh rất nhiều học sinh
còn thụ động, giờ học kém sinh động, đặc biệt là các đối tượng học sinh yếu
kém chưa được quan tâm nhiều. Về phía học sinh, bên cạnh những học sinh
1
học tốt môn Tiếng Anh, vẫn còn khá nhiều học sinh cảm thấy khó khăn trong
quá trình học tập bộ môn này.
Học sinh yếu kém có thể chia làm hai loại: học sinh chưa chăm học, thiếu
động cơ học tập và học sinh có học tập nhưng khả năng tiếp thu chậm. Với


đối tượng thứ nhất, thường là những học sinh chưa ngoan, các em ít chú ý
nghe giảng, trong lớp thường nói chuyện hoặc làm việc riêng…Tuy nhiên, đối
tượng này nếu được rèn luyện sẽ đạt kết quả tốt hơn những học sinh khả năng
tiếp thu kém,các em này thụ động,tuy có nghe giảng, ghi chép đầy đủ, nhưng
không hiểu bài hoặc chỉ hiểu chút ít. Chính vẻ ngoài “học tập nghiêm túc” của
học sinh khiến nhiều giáo viên chủ quan cho rằng học sinh đang tiếp thu bài
tốt. Đối tượng này chỉ thường được phát hiện sau khi có kết quả bài kiểm tra.
2, Nguyên nhân:
- Học sinh yếu kém do mất căn bản từ cấp dưới: Hạn chế lớn nhất của
học sinh khi học bộ môn này đó là thiếu một lượng lớn từ vựng thiết yếu vì
vậy học sinh không dịch được, không hiểu nghĩa câu văn, ngoài ra cấu trúc
ngữ pháp nhiều, đa dạng nên học sinh yếu không nhớ được cấu trúc ngữ pháp
nên không làm được bài tập.
- Việc không có vốn từ vựng do các em ít học bài, ít chịu khó rèn viết từ
Tiếng Anh, hoặc chép từ nhưng chép cho có, không động não, không tư duy,
nên không nhớ được từ.
- Kiến thức trong sách giáo khoa quá nhiềuthời lượng dành cho bộ môn ít
so với kiến thức, các học sinh học chậm cảm thấy chán nản do không theo kịp
các bạn, dẫn đến học tập ngày càng sa sút, yếu kém.
- Số tiết tăng để rèn luyện cho học sinh làm bài tập Tiếng Anh còn ít so
với khối lượng bài tập.
- Một số học sinh ỷ lại vào việc học thêm nên thiếu cố gắng, dẫn tới học
yếu kém bộ môn.
2
- Phần đông phụ huynh học sinh không thể chỉ dẫn cho con em môn tiếng
Anh, chỉ giao phó cho giáo viên hoặc cho đi học thêm để an tâm nhưng thiếu
kiểm tra sâu sát việc học thêm của con em.
- Một số giáo viên chưa thật sự tâm huyết với nghề nghiệp, chưa toàn tâm
toàn ý cho việc giảng dạy, còn thờ ơ, ngại khó, nên chưa sử dụng hết các biện
pháp hữu hiệu giúp học sinh yếu kém vươn lên trong học tập bộ môn.

III. Các biện pháp thực hiện để giúp học sinh yếu kém vươn lên trong
học tập bộ môn Tiếng Anh.
- Với bản thân tôi đã cá thể hóa đối tượng học sinh trong quá trình giảng
dạy: dạy không chú ý tới số đông mà truyền đạt kiến thức có chất lượng đến
từng học sinh. Muốn vậy, tôi phải nắm được năng lực tiếp nhận và cả đặc
điểm tâm sinh lý của từng em. Nói cách khác là phương pháp phải phù hợp
với đối tượng.
- Với đối tượng học sinh hiếu động: tôi thường xuyên nhắc nhở các em
tập trung vào bài.
- Đối với học sinh thụ động: tôi động viên khuyến khích các em, tránh la
mắng, phê bình.
- Tôi chọn các bài tập vừa sức để các em có thể làm bài, có thêm tự tin
trong học tập.
- Để rèn luyện cho những đối tượng học sinh yếu, mỗi tiết học tôi chỉ
truyền đạt cho học sinh một lượng kiến thức vừa phải để tiếp thu chứ không
nên nhồi nhét kiến thức.
- Kiến thức phải được lập đi lập lại nhiều lần để học sinh ghi nhớ.
- Không yêu cầu cao với đối tượng học sinh yếu khi các em chưa đạt được
một chuẩn kiến thức nhất định, tôi đi từ các bài tập cơ bản. Khi giải bài tập,
nếu có kiến thức liên quan tôi dừng lại, yêu cầu học sinh nhắc lại kiến thức,
giúp các em tập trung vào bài đồng thời ôn lại kiến thức cũ.
3
- Không dồn quá nhiều bài tập trong một tiết học, không dạy quá nhanh,
cần dạy chắc kiến thức, quan sát thái độ học tập của các em để có hướng điều
chỉnh kịp thời. Khi thấy các em có biểu hiện mệt mỏi, nên thay đổi dạng bài
tập đơn giản hơn.Tạo hứng thú học tập là điều rất quan trọng, học sinh yếu
kém thường dễ nản, ít động não, gặp câu khó thường buông xuôi. Tôi luôn
phải tạo không khí vui tươi, nhẹ nhàng trong giờ học, nên tỏ thái độ gần gũi,
cảm thông với các em thay vì la mắng khi thấy các em không làm được bài.
Tôi luôn đi lại, quan sát từng học sinh làm bài. Nếu thấy học sinh nào không

làm được, tôi cần chỉ hướng làm bài, cho các em thấy chỗ sai sót. Ngoài ra,
cần động viên học sinh yếu lên bảng trình bày, đây là một trong những cách
giúp các em nhớ lâu kiến thức.
- Cho học sinh thuộc cấu trúc ngữ pháp ngay tại lớp bằng cách yêu cầu
các em cho nhận xét đề và nêu cấu trúc ngữ pháp liên quan. Nếu các em
không nêu được, tôi mời các học sinh khác phát biểu, và sau khi có câu trả lời
đúng, tôi cho học sinh yếu nhắc lại để các em ghi nhớ cấu trúc.
- Tuyên dương nếu học sinh làm được bài (dù không nhiều) để động viên
tinh thần các em.
- Sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh yếu ở vị trí tiện cho tôi tiếp cận học sinh:
( đầu bàn ,cạnh lối đi giữa hai hàng ghế…),tránh để học sinh yếu ngồi bàn
cuối sẽ hạn chế sự tiếp thu kiến thức của các em, ảnh hưởng kết quả học tập.
- Bài tập: toi đã cho học sinh làm theo từng dạng trước, sau đó mới đến
bài tập tổng hợp để học sinh quen dạng bài.
- Trước khi làm bài tập, tôi đã phải hướng dẫn cách làm: yêu cầu học sinh
nêu lại một số cấu trúc ngữ pháp liên quan.
- Yêu cầu các học sinh lập lại công thức để các em khắc sâu kiến thức.
- Yêu cầu ghi công thức kế bên câu bài tập để nhắc nhớ bản thân, giúp
các em nhớ lại kiến thức khi đọc lại bài.
- Chỉ cho học sinh cách học hiệu quả:
4
+ Khoanh tròn các câu sai, để về nhà làm lại các câu sai đó.
+ Cần có bài tập lưu; một bản viết trực tiếp đáp án do thầy cô sửa, một bản
để làm lại (ở nhà)
+ Cần có sổ tay học tập, ghi lại các công thức ngữ pháp liên quan đến bài
tập trong lúc nghe giảng.
+ Phải cố gắng thuộc từ vựng để dịch câu.
B. NỘI DUNG:
Bản thân là một giáo viên đang còn trẻ , mới ra trường kinh nghiêm giảng dạy
chưa có nhiều, đôi lúc còn rất lúng túng trong việc truyền đạt kiến thức cho

các em. Làm sao để các em là những đối tượng học sinh yếu kém có thể hiểu
được bài chỉ trong thời lượng là 45 phút và các em cảm thấy hướng thú khi
học bộ môn tiếng anh.
Sau khi được tham gia lớp tập huấn của Sở giáo dục năm 2009 về các phương
pháp và biện pháp giúp học sinh yếu kém hứng thú với việc học môn Tiếng
anh và nhiều năm liền được tiếp súc với đối tượng chủ yếu là học sinh yếu
kém bản thân tôi đã rút ra được một số phương pháp cách thức để có thể áp
dụng vào bài giảng của mình làm sao để đối tượng là các em học sinh yếu
kém có thể hiểu được bài.
Tôi chỉ xin lấy một vài ví dụ điển hình trong một số bài dạy và các tiết dạy
của tôi, tôi đã áp dụng và thiết kế lại sách giáo khoa sao cho phù hợp với từng
đối tượng học sinh như sau:
* ĐỐI VỚI KỸ NĂNG ĐỌC:
a,Bài tập dạng đúng sai (True / False )
Học sinh yếu kém thường thấy đoạn văn dài, từ vựng khó thì thường ngại đọc
và hay đoán lung tung, có em không làm được thì thường chọn True hoặc
False hết để hy vọng có được phần nào điểm đó. Tôi thường hướng dẫn các
em:
5
- Đọc lướt các câu (True / False) trước xem người ta yêu cầu và hỏi những
gì .
- Đọc thầm đoạn văn, các câu được hỏi ở phần (True / False ) thường là từ
trên xuống dưới của đoạn văn ở trên , tìm ý hoặc câu có liên quan đến các
câu (True / False ) và gạch chân lại.
- Đọc các phần liên quan của các câu (True / False) với các câu trong đoạn
văn và xem xét xem là đúng hay sai.
Sau khi làm xong, đọc toàn bộ đoạn văn để hiểu ý toàn bài và điều chỉnh đáp
án vừa chọn nếu thấy có sai sót.
b,Bài tập dạng điền khuyết ( Cloze test )
Đây là dạng bài tập khá khó, đòi hỏi học sinh phải đọc toàn đoạn văn chưa

hoàn chỉnh, học sinh yếu kém do vốn từ ít, không biết liên đới các câu nên
làm sai rất nhiều phần này. Giáo viên nên hướng các em chú ý đến các câu
thuần cấu trúc ngữ pháp để điền vào trước. Sau đó mới làm các câu dạng điền
từ vựng. Sau khi làm bài, phải đọc lại toàn đoạn văn và cố gắng dịch để hiểu,
từ đó điều chỉnh các sai sót đã làm trước đó. Trước khi điền từ, tìm các từ liên
đới xung quanh chỗ trống cần điền để chọn cho đúng từ.
* ĐỐI VỚI KỸ NĂNG NÓI :
Trong bài UNIT 10: ENDANGER SPECIES Phần B SPEAKING Sách tiếng
anh lớp 12 yêu cầu hỏi đáp về 4 con vật theo gợi ý trong sách giáo khoa.
Nhưng với đối tượng là học sinh yếu kém các em không biết cách đặt câu hỏi
làm sao cho đúng mặc dù đã có đáp án được gợi ý sẵn trong sách giáo khoa.
Tôi sẽ gợi ý trước câu hỏi và yêu cầu các em tìm đáp án trả lời, sau đó mới
yêu cầu học sinh thực hành hội thoại.
A: Where do giant pandas live?
B: They live in bamboo forests in the mountain in central and western China
A: What is the population of pandas in the world?
B: Only about 600.
6
A: How are they?
B: about 1.2 to 1.5m
A How much do they weigh( hight)?
B: About 75 kg to 160 kg(about 1.2 to 1.5m)
A: What do they eat ?
B: Bamboo (They eat bamboo)
A: Why are they in danger?
B: People destroy their habitat and hurt them for trade.
Còn với các bài khác tôi luôn phải gợi ý trước cấu trúc để học sinh bắt trước
và thực hành nói hoặc kết hợp với các trò chơi thì các em học sinh yếu kém
mới chú tâm và để ý tới.
* ĐỐI VỚI KỸ NĂNG NGHE :

Kỹ năng nghe là một kỹ năng khó nhất đối với học sinh yếu kém, và đặc biệt
là với dạng bài tập là phải nghe cả câu để viết đáp án. Hầu hết là các em
không làm được dạng bài tập này. Vì lý do đó mà các bài phải nghe cả câu,
tôi thường cho sẵn đáp án nhưng theo một số các khác nhau. Ví dụ trong bài
UNIT 12 THE ASIAN GAMES Part C: LISTENING sách tiếng anh 11 . Tôi
đã đục đi một số từ trong đáp án sau đó yêu cầu học sinh nghe và điền vào, và
hầu hết các em đã nghe được và thấy hứng thú với bài nghe này.
1- It was at
2- They have won
3- He took part in the long jump
4- It was
5- He very disappointed
Keys:
1- It was at 10. 15 pm
2- They have won six gold medals
3- He took part in the long jump two times
7
4- High- jump
5- He looked very disappointed
* ĐỐI VỚI KỸ NĂNG VIẾT :
Đối với kỹ năng viết, các bài viết trong sách giáo khoa gần như là không có
nhiều giữ kiện cho trước và cấu trúc để các em bắt trước. Tôi đều phải soạn
và tìm các bài mẫu có sẵn photo và lên lớp phát cho các em để các em có thể
nhìn vào đó và bắt trước cấu trúc, cách dùng từ để sử dụng cho bài viết của
mình. Sau khi phát các bài mẫu tôi yêu cầu học sinh phải hiểu được đoạn văn,
gạch chân các cấu trúc mà các em định sử dụng. Sau khi thực hành để viết
xong tôi lại yêu cầu các em phải dịch được bài viết của mình và về nhà học
thuộc các cấu trúc .Ví dụ trong bài UNIT 8: Celebration Part D:Writing sách
tiếng anh 11. Tôi đã cho các em bài mẫu về một ngày lễ sau đó các em dựa
vào đó để viết về một ngày lễ khác mà em yêu thích , và các em đã làm được.

Sau bài học các em không những hiểu bài mà còn có thể biết thêm được nhiều
cấu trúc mới.
In Viet Nam the Mid – Autumn festival , also referred as Tet Trung Thu , is
one of the two most celebrated festivals to current date . The Mid –Autumn
Festival dates back over 15,000 years ago , and is traditionlly held on the 15
th
day of the 8
th
lunar month . A Vietnamese folkore indicates that the festival
came about as a way for parets to make up lost time , showing love and
appropriatelyto their chilred after the harvest season . Appropriately , The
Mid –Autumn Festival is also called the Chilren’s Festival . Trung thu
activites are offer centred around children and education . Parents buy
lanterns fot their children so that they can participate in a candlelit lantern
procession at dawn . Lantersn represent brightness while the procession
symboziles success in school . Vietnamese markerts sell a variety of lantern .
Other children’s activites include arts and crafts which children make face
masks and lanterns . Children also perform traditional Vietnamese danse and
8
participate in contests for prizes and scholarships . Unicorn dancers are also
very popular in Trung Thu festivites . In addition , Vietnamese parents tell
their children’s fairy tales and serve mooncakes and other special treats treats
uneder the opportunity for me to gather with my family and friends to enjoy
the moonlight and many special refreshments
* ĐỐI VỚI CÁC DẠNG BÀI TẬP Ở PHẦN LANGUAGE FOCUS :
a, Bài tập chọn từ đúng ( Multiple choice )
Bài tập này tương đối dễ do kiến thức thường sát với bài học, học sinh ít
phải động não, học sinh yếu kém thường làm bài tập dạng này tốt hơn các
dạng khác. Tuy nhiên vẫn có những học sinh làm sai nhiều, thường do các em
không học từ vựng, không dịch được câu, không nhớ cấu trúc ngữ pháp nên

chọn sai.
Để khắc phục, tôi tăng cường kiểm tra từ vựng sau mỗi bài học. Không nên
cho học quá nhiều từ vì học sinh sẽ không nhớ hết, nên chia nhỏ từ vựng, mỗi
buổi kiểm tra khoảng 10 từ, có thể cho làm kiểm tra 5 phút đầu buổi học, cho
điểm tích lũy, điểm cộng để khuyến khích các em học bài. Tôi có thể thay đổi
hình thức kiểm tra, ngoài từ vựng cần kiểm tra các cấu trúc ngữ pháp thường
gặp để học sinh khắc sâu kiến thức, quá trình lập đi lập lại này giúp học sinh
nhớ bài và nhớ cấu trúc từ đó mới có thể vận dụng vào bài tập một cách hiệu
quả .
Ví dụ : Anna was the women __________ first thought of Mother’s Day.
a. that b. who she c. she d. whose
Kiến thức ngữ pháp cần nhớ: who + V; whose + N, trường hợp thay thế
được với “that”, kết hợp với dịch câu đề, học sinh nào học kỹ ngữ pháp sẽ
chọn được đáp án đúng (a).
b, Bài tập điền dạng đúng của từ (Word form)
Dạng bài tập này khó vì đòi hòi kiến thức tổng hợp, học sinh yếu kém
thường làm sai , thậm chí có em bỏ không làm phần này trong bài kiểm tra.
9
- Chuẩn bị: Tôi soạn bảng từ gia đình ( word family ) cho học sinh học
trước, bảng này cần sắp theo thứ tự chữ cái để giúp học sinh tiện tra từ.
- Yêu cầu học sinh nhớ vị trí của danh từ, tính từ, trang từ…trong câu,
thường xuyên yêu cầu học sinh lập lại kiến thức ngữ pháp này trong quá trình
tôi giảng dạy, sửa bài tập.
- Sau khi sửa bài, yêu cầu học sinh viết lại từ hai đến ba lần mỗi từ để nhớ
mặt chữ, tránh trường hợp học sinh biết chọn loại từ điền vào nhưng không
viết được từ đó.
- Hướng dẫn học sinh cách nhận biết loại từ:
Ví dụ : Visitors can catch sight of an old banyan tree at the __________ of
the village. ( enter )
+ Nhận xét: chú ý các từ trước và sau chỗ trống: (the , of ),suy ra chỗ trống

phải là một danh từ ( Noun ), vậy từ điền vào là entrance
Ví dụ: That little girl dances ____________ .( beautiful )
+ Nhận xét: chú ý từ trước chỗ trống: động từ dance là động từ thường: sau
động từ thường là trạng từ, vậy từ điền vào là beautifully.
Ví dụ: That little girl dances ____________ .( beauty )
+ Lưu ý học sinh: từ trong ngoặc là danh từ,vì vậy cần chuyển thành tính từ
beautiful trước khi thêm -LY để được trạng từ beautifully .
Vídụ: ____________ are very demanding. They want products that are
both cheap and of good quality. (consume )
-Yêu cầu học sinh nhận xét vị trí của từ cần điền trong câu (đầu câu, không
có dấu phẩy phía sau, trước động từ), vậy loại từ cần điền vào là danh từ hoặc
danh động từ làm chủ từ.
-Yêu cầu học sinh đọc câu kế bên ( They want products that are both cheap
and of good quality. ) để suy ra danh từ này chỉ người. Vậy từ điền vào là
consumer.
10
-Yêu cầu học sinh chú ý đến động từ are sau khi điền từ consumer, vậy từ
điền vào hoàn chỉnh nhất là consumers.
c, Bài tập dạng hoặc thì của động từ (Verb form)
- Chuẩn bị: bảng các điểm ngữ pháp cần nhớ, động từ bất quy tắc, bảng các
thì, cách sử dụng các thì, từ dùng kèm cho học sinh học trước.
- Trong quá trình làm bài, nếu học sinh quá yếu kém, không thể làm được bài
nếu không sử dụng các bảng này, tôi để các em sử dụng bảng tra, tránh trường
hợp học sinh do không nhớ cấu trúc nên ngồi chơi, không làm bài sẽ lãng phí
thời gian, nhưng cần nhắc nhở các em cố gắng ghi nhớ các cấu trúc ngữ pháp.
- Lưu ý học sinh phải chú ý các điểm ngữ pháp và khoanh các từ quan trọng
liên quan đến cấu trúc ngữ pháp.
Ví dụ: Raw sewage _____________ directly into the sea. ( pump )
+ Yêu cầu học sinh tìm chủ từ (Raw sewage), động từ (pump - từ trong
ngoặc)

+ Yêu cầu học sinh nhận xét chủ từ: chỉ vật (sewage), dự đoán đây có thể là
dạng câu bị động.
+Yêu cầu học sinh: nhận xét thì của động từ (hiện tại đơn-bị động), cho biết
công thức chung của bị động hiện tại đơn: ( am / is / are + V3/ Ved )
+ Nhắc nhớ học sinh chủ từ là danh từ không đếm được, động từ “pump” là
động từ theo quy tắc, vậy từ điền vào là is pumped.
+ Lưu ý học sinh: không phải cứ chủ từ là vật, sự vật thì động từ ở dạng bị
động, có những trường hợp ngược lại, do đó phải cố gắng dịch được câu để
hiểu nghĩa từ đó mới có thể chọn đúng từ.
- Luôn luôn nhắc nhớ học sinh phải nhận biết được chủ từ và động từ trong
câu để dễ dịch câu.Yêu cầu học sinh gạch chân chủ từ, động từ trong câu đề
cho.
- Với câu chủ từ có nhiều từ, tôi hướng dẫn học sinh nhận biết từ chính để
viết được động từ tương ứng .
11
Ví dụ : Recycling used cans and bottles___________ a good way to
economize.(be)
+Từ chính ảnh hưởng đến động từ là Recycling (không phải cans and
bottles-lưu ý học sinh rất hay nhầm lẫn điểm này, do tâm lý hay chọn danh từ
sát ngay gần động từ làm chủ từ), vì vậy động từ điền vào là is (hiện tại đơn).
Cần yêu cầu học sinh dịch để hiểu rõ ý của câu, giúp các em lựa chọn dạng
đúng của động từ cần điền vào.
d, Bài tập dạng chuyển đổi câu( Sentence transformation)
Đây là dạng bài tập khó, học sinh yếu kém thường bỏ phần này hoặc làm sai
nhiều. Bản thân tôi trong quá trình dạy học sinh yếu kém đã chỉ cho học sinh:
- Đọc câu đề thật kỹ.
- Cố gắng dịch câu đề sang tiếng Việt trước.
- Phân tích câu đề (xác định chủ từ, động từ, tân ngữ, cụm từ chỉ thời gian,
nơi chốn … )
- Đọc phần gợi ý viết lại câu, từ phần gợi ý này đoán xem ý đề bài muốn ta

làm theo cấu trúc nào.
- Vân dụng cấu trúc để viết tiếp câu cho hoàn chỉnh, trong khi viết nhớ phải
vừa viết vừa dịch câu để tránh sai ý của đề bài .
- Biết loại bỏ các từ không phù hợp của câu đề với cấu trúc viết lại.
Ví dụ :
Câu đề: Tom is a good speaker of English .
Phần gợi ý: Tom speaks ______________________.
+ Yêu cầu học sinh dịch câu đề:
HS : Tom là một người nói Tiếng Anh giỏi.
+ Yêu cầu học sinh phân tích câu đề:
HS : Tom is a good speaker of English.
S BE ADJ NP
+ Yêu cầu học sinh đoán cấu trúc đề bài muốn học sinh làm:
12
HS : S + V + O + ADV
+ Vận dụng cấu trúc để viết tiếp câu cho hoàn chỉnh:
HS : Tom speaks English well.
S V O ADV
+ Dịch câu: Tom nói – nói ngôn ngữ gì?(Tiếng Anh - English) – nói như
thế nào ? ( giỏi - well )
GV: Từ không phù hợp của câu đề với cấu trúc viết lại cần loại bỏ ?
HS: is , a , of
GV: Từ đã thay đổi và cần thay đổi để phù hợp với cấu trúc mới ?
HS: speaker , good
e , Bài tập dạng tìm lỗi sai ( Error Identification )
- Lưu ý học sinh: tập trung chú ý vào các từ được gạch chân, từ không gạch
chân là từ đã đúng , chỉ dùng để phối hợp, nên tìm chủ từ, động từ của câu đề,
sau đó:
- Xem động từ đã đúng chưa ( thì , dạng )
- Xem chủ từ phù hợp với động từ chưa ( số ít hay số nhiều?đếm được hay

không đếm được? người hay sự vật? … )
- Nếu tất cả đã phù hợp thì xét đến các từ còn lại: vị trí của từ trong câu, loại
từ …
- Dịch nghĩa của câu xem đã phù hợp hay chưa.
- Yêu cầu học sinh phải biết sửa lỗi dù đề bài không yêu cầu, để học sinh
hiểu vì sao từ đó sai. Bài tập Tiếng Anh rất đa dạng, học sinh có thể gặp lại
kiến thức này nhưng ở dạng bài tập khác, nếu được khắc sâu kiến thức, học
sinh sẽ vận dụng được cho dù dạng bài tập thay đổi.
Ví dụ : The charity organization provides the poor with so many household
furniture.
A B C D
+ Gợi ý học sinh tìm chủ từ ( S ) : charity organization ( số ít )
13
+ Yêu cầu học sinh nhận xét: chủ từ có phù hợp với động từ provides
không ? ( thêm - s , hiện tại đơn) : phù hợp
+ Còn lại C và D: ta thấy furniture là danh từ không đếm được, trước đó là
many đã phù hợp chưa ? ( many + danh từ đếm được số nhiều) : không phù
hợp
+ Suy ra đáp án là D ( much thay cho many )
C. Một số điểm giáo viên cần chú ý trong suốt quá trình rèn học sinh
yếu:
- Thường xuyên kiểm tra học sinh,đặc biệt từ vựng và yêu cầu học sinh giải
thích nghĩa của câu đề.Việc kiểm tra từ vựng không nhất thiết cố định mà
kiểm tra thường xuyên, đột xuất. Có thể trong quá trình giải bài tập, đầu giờ
học hoặc giữa giờ học. Cần yêu cầu học sinh yếu gạch dưới những từ chưa
biết hoặc từ đã học rồi nhưng không nhớ nghĩa, ghi lại nghĩa của từ đó kế bên,
về nhà phải xem lại.
- Bài tập cần cho từ dễ đến khó để học sinh quen dần với cấu trúc trước. Nên
cho các dạng bài tập tương tự nhau để học sinh quen cách làm và nhớ cách
làm trước, sau đó mới nâng dần mức độ.

- Chỉ cho các em cách học từ gia đình ( word family )và cách nhớ từ gia
đình( tiếp đầu ngữ , tiếp vĩ ngữ , từ mang nghĩa “ not ( không )”…)
- Việc làm thường xuyên bài tập dạng của từ (word form)giúp học sinh nhớ
từ gia đình.Học sinh yếu không thể học hết các từ gia đình giáo viên soạn ra
vì quá nhiều, giáo viên nên để cho học sinh học từ từ, từng ít một. Ngoài ra
việc học từ không gắn với câu sẽ khiến học sinh khó nhớ, một trong những
cách học ngôn ngữ hiệu quả là giúp học sinh học từ ở trong câu.
Ví dụ: They are proud of their father .
ADJ
They take pride in their father .
N
14
- Kiểm tra một số công thức ngữ pháp cơ bản: giống như kiểm tra từ, việc
kiểm tra công thức ngữ pháp không nhất thiết cố định mà kiểm tra thường
xuyên, đột xuất. Có thể trong quá trình giải bài tập, đầu giờ học, giữa giờ học
hoặc cuối giờ học. Cần yêu cầu học sinh yếu giải thích nghĩa của các ký hiệu
trong công thức các em vừa đọc hoặc viết, tránh trường hợp đọc nhưng không
hiểu.
Ví dụ : make + O + V(o)
O: tân ngữ
V(o): động từ nguyên mẫu không “ to”
- Tránh các từ phát âm gần giống nhau khiến học sinh hiểu sai, dẫn đến làm
bài sai.
Ví dụ: V (bare) khi đọc lên nghe giống V3, vì vậy giáo viên nên dùng V(o)
thay vì V(bare).
- Việc lập đi lập lại dạng bài tập giúp học sinh khắc sâu kiến thức. Giáo viên
cần soạn các bài tập có cùng dạng cấu trúc ngữ pháp nhưng thay đổi từ vựng,
vừa nâng cao vốn từ cho học sinh,vừa tránh hiện tượng học sinh học thuộc
lòng, nhớ bài máy móc chứ không hiểu cách làm.
- Sau mỗi lần sửa dạng bài tập dạng của từ (word form), giáo viên cần yêu

cầu học sinh yếu viết lại các từ (trung bình mỗi từ khoảng 3 lần) để quen và
thuộc mặt chữ, tránh trường hợp khi làm bài học sinh nhận biết được loại từ
nhưng không viết được do không nhớ,không thuộc từ đó. Nhắc học sinh
trước khi viết lại, cần kiểm tra xem đã viết đúng chưa,tránh trường hợp học
các từ viết sai.Trong khi học sinh viết, giáo viên cần quan sát xem các em có
thực hiện không,vì thường học sinh yếu là những học sinh chưa ngoan,chưa
chăm học.
- Không yêu cầu cao về kiến thức đối với học sinh yếu kém, nhưng yêu cầu
cao các em trong việc tập trung học tập, cần cầm tay chỉ việc,gần gũi quan
tâm, nhắc nhở động viên, và phải theo thật sát các em để giúp đỡ kịp thời.
15
- Giáo viên không đứng trên bục giảng nhiều mà cần đi lại quan sát, nhắc nhở
học sinh tập trung vào học tập, không lo ra, không làm việc riêng.
- Cần thường xuyên chấm bài học sinh yếu kém, giáo viên có thể ra đề cho cả
lớp làm thường xuyên,nhưng chỉ chọn bài học sinh yếu kém để chấm, chấm
không nhất thiết lấy điểm, chỉ để theo dõi xem mức độ tiến bộ ra sao và để
giúp các em nhận ra sai sót cũng như thấy kết quả học tập của mình để phấn
đấu vươn lên.
D. HIỆU QUẢ
Qua quá trình rèn học sinh yếu kém bộ môn Tiếng Anh, tôi nhận thấy
học sinh yếu kém do tôi đảm nhiệm có nhiều tiến bộ. Các em ý thức hơn, cố
gắng hơn trong học tập bộ môn, thể hiện ở việc học bài và làm bài tập về nhà
đầy đủ, các em học sinh chưa chăm ngoan có thái độ học tập tích cực hơn
Nhiều em đã làm được các dạng bài tập cơ bản. Năm học vừa qua, theo kết
quả các bài kiểm tra 15 phút, một tiết ở học kỳ hai, số học sinh kém đã giảm
so với học kỳ một, số học sinh đạt trung bình trở lên tăng.
E. KẾT LUẬN
Việc giúp học sinh yếu kém vươn lên trong học tập bộ môn là một trong
những nhiệm vụ của giáo viên. Đây là công việc thật sự khó khăn, đòi hỏi sự
kiên nhẫn của người thầy và sự nỗ lực lớn của học sinh. Để đạt kết quả tốt,

người giáo viên cần có lòng yêu nghề, thương yêu học sinh, không ngại khó,
tận tâm trong giảng dạy. Học sinh cần có ý chí vươn lên trong học tập.
Trong thực tế sĩ số lớp đông, số lượng học sinh yếu kém, thiếu ý thức
học tập nhiều, trình độ học sinh trong cùng lớp không đồng đều nên giáo viên
gặp khó khăn trong việc rèn học sinh yếu. Nhưng với tinh thần trách nhiệm,
tình thương yêu học sinh, ý chí quyết tâm cao và sự nhạy bén, sáng tạo, tôi sẽ
đạt được thành công trong công việc đòi hỏi nhiều nhẫn nại này.
16
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi trong quá trình
giảng dạy đã góp phần giúp những học sinh yếu kém không gặp phải nhiều
khó khăn trong việc học tập, đặc biệt trong làm bài tập môn tiếng Anh.
Chắc chắn rằng trong quá trình giảng dạy tôi phải bổ sung và tìm ra các
phương pháp mới để vấn đề ngày càng đi vào thực tiễn. Rất mong được các
bạn đồng nghiệp và các cấp quản lí quan tâm góp ý và giúp đỡ tôi thực hiện
tốt đề tài này.
Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm
này là do tôi viết. Không sao chép của ai.
Vĩnh Tân, ngày 27 tháng 5 năm 2013
Người làm sáng kiến
Phạm Thị Nhung
Xác nhận
của thủ trưởng đơn vị
17

Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm
này là do tôi viết. Không sao chép của ai.
Vĩnh Tân, ngày 27 tháng 5 năm 2013
Người làm sáng kiến
Phạm Thị Nhung
Xác nhận của thủ trưởng đơn vị


18
Tài liệu tham khảo
1. Sách giáo khoa môn Tiếng anh 11,12 - NXB Giáo dục.
2. Sách giáo viên môn Tiếng anh 11,12 - NXB Giáo dục .
3. Các dạng bài tập dành cho thi Tốt nghiệp đại học và cao đẳng - NXB Đại
học Quốc Gia Hà Nội .
4. Các phương pháp làm nhanh các dạng bài tập trắc nghiệm môn Tiếng anh
– NXB Giáo Dục.
PHỤ LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………Tr.1
1. Lí do chọn đề tài…………………… …………………………………… Tr.1
2. Đối tượng nghiên cứu………………………………………… ………….Tr.2
3. Mục đích, nhiệm vụ và mục tiêu nghiên cứu của đề tài……………… … Tr.3
4. Phương pháp nghiên cứu…………………………………………… ……Tr.4
B. PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………Tr.5
C. MỘT SỐ LƯU Ý…………………………………………………………Tr.14
D. HIỆU QUẢ…………………………………………… ………………Tr.16
E. KẾT LUẬN …………………………………………………………… Tr. 16
19
së gi¸o dôc vµ ®µo t¹o thanh ho¸
Trêng thpt tèng duy t©n
*&*
S¸ng kiÕn kinh nghiÖm
KĨ NĂNG RÈN LUYỆN HỌC SINH YẾU KÉM TRONG
GIẢNG DẠY BỘ MÔN TIẾNG ANH
Người thực hiện: Phạm Thị Nhung
Chức vụ: giáo viên
SKKN thuộc môn : Tiếng anh
Thanh HÓA N¨m : 2012 - 2013


20

×