Vấn đề 8 : Phân tích mối liên hệ
biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn, từ đó rút ra quan điểm thực
tiễn; vận dụng quan điểm đó để
phân tích, phê phán bệnh kinh
nghiệm, giáo điều và để phân
tích luận điểm sau đây của Đảng
ta : “Tiến hành đổi mới, xuất
phát từ thực tiễn và cuộc sống
của xã hội Việt Nam, tham
khảo kinh nghiệm tốt của thế
giới, không sao chép bất cứ
một mô hình có sẳn nào”(Văn
kiện Đại hội IX, trang 141)
Bài làm
Cội nguồn của những đột
phá tạo ra những bước tiến vượt
bật của xã hội loài người có sự
đóng góp của lý luận đích thực.
Lý luận lại có nguồn gốc, cơ sở
động lực từ thực tiễn, chính thực
tiễn đặt ra vô vàn những vấn đề
mà lý luận phải giải đáp và chỉ
trên cơ sở đó lý luận mới thực
sự giữ vai trò dẫn đường, lý luận
phải đi trước một bước. Việc
phân tích tìm hiểu mối liên hệ
biện chứng giữa lý luận và thực
tiễn, từ đó rút ra quan điểm thực
tiễn và vận dụng đúng đắn quan
điểm đó trong hoạt động thực
tiễn là rất cần thiết đối với sự
nghiệp đổi mới ở nước ta hiện
nay cũng như tránh được những
sai lầm của bệnh kinh nghiệm,
giáo điều chủ nghĩa.
Thực tiễn - theo quan
điểm triết học duy vật biện chứng
- là toàn bộ hoạt động vật chất
có mục đích mang tính lịch sử
XH của con người làm biến đổi,
cải tạo tự nhiên và xã hội. Bản
chất của hoạt động thực tiễn đó
là sự tác động qua lại của chủ
thể và khách thể, là con người
sử dụng những công cụ vật chất
tác động vào đối tượng vật chất
làm biến đổi chúng theo mục
đích của mình. Thực tiễn cũng
có quá trình vận động, phát triển,
trình độ phát triển của thực tiễn
nói lên quá trình chinh phục tự
nhiên, làm chủ xã hội của con
người. Thực tiễn mang tính lịch
sử xã hội bởi nó phát triển qua
các giai đoạn lịch sử. Hoạt động
thực tiễn có thể chia làm 3 hình
thức cơ bản : hoạt động SX vật
chất, hoạt động biến đổi chính trị
xã hội và hoạt động thực nghiệm
khoa học. Ttrong đó, hoạt động
SX vật chất là hoạt động có ý
nghĩa quyết định các hình thức
khác, hoạt động biến đổi chính trị
xã hội là hình thức cao nhất và
hoạt động thực nghiệm khoa học
là hình thức đặc biệt nhằm thu
nhận những tri thức về hiện thực
khách quan.
Lý luận – theo Chủ tịch
Hồ chí Minh – là sự tổng kết kinh
nghiệm của loài người, sự tổng
hợp những tri thức về tự nhiên,
xã hội đã được tích lũy lại trong
quá trình lịch sử của con người.
Lý luận là sản phẩm cao của
nhận thức đồng thời thể hiện
trình độ cao của nhận thức, của
những tri thức về bản chất, quy
luật của hiện thực và vì vậy, bản
chất của lý luận là hình ảnh chủ
quan của thế giới khách quan.
Giữa lý luận và thực tiễn
có mối quan hệ biện chứng,
tác động qua lại với nhau. Trong
mối quan hệ đó, thực tiễn có vai
trò quyết định, vì thực tiễn là
hoạt động vật chất, còn lý luận là
sản phẩm của hoạt động tinh
thần. Vai trò quyết định của thực
tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ
: chính thực tiễn là cơ sở, là
động lực, là mục đích, là tiêu
chuẩn để kiểm tra nhận thức và
lý luận; nó cung cấp chất liệu
phong phú sinh động để hình
thành lý luận và thông qua hoạt
động thực tiễn, lý luận mới được
vật chất hóa, hiện thực hóa, mới
có sức mạnh cải tạo hiện thực.
Lý luận mặc dù được hình thành
từ thực tiễn nhưng nó có vai trò
tác động trở lại đối với thực tiễn.
Sự tác động của lý luận thể hiện
qua vai trò xác định mục tiêu,
khuynh hướng cho hoạt động
thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam
cho hoạt động thực tiễn), vai trò
điều chỉnh hoạt động thực tiễn,
làm cho hoạt động thực tiễn có
hiệu quả hơn. Lý luận cách
mạng có vai trò to lớn trong thực
tiễn cách mạng. Lênin viết
“không có lý luận cách mạng thì
không thể có phong trào cách
mạng”. Như vậy, giữa lý luận và
thực tiễn có sự liên hệ, tác động
qua lại, tạo điều kiện cho nhau
cùng phát triển và gắn bó hữu cơ
với nhau do đó sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn là
nguyên lý cao nhất của triết học
Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng chỉ rõ “Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành
thực tiễn mù quáng”, “Lý luận mà
không có thực tiễn là lý luận
suôn”
Từ mối quan hệ biện
chứng giữa lý luận và thực tiễn,
ta rút ra được quan điểm thực
tiễn. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi
khi xem xét sự vật hiện tượng
phải gắn với thực tiễn, phải theo
sát sự phát triển của thực tiễn để
điều chỉnh nhận thức cho sự phù
hợp với sự phát triển của thực
tiễn, hiệu quả của thực tiễn để
kiểm tra những kết luận của
nhận thức, kiểm tra những luận
điểm của lý luận. Quan điểm
thực tiễn cũng đòi hỏi những
khái niệm của chúng ta về sự vật
phải được hình thành, bổ sung
và phát triển bằng con đường
thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn
chứ không phải bằng con đường
suy diễn thuần túy, không phải
bằng con đường tự biện. Do
thực tiễn luôn vận động và phát
triển nên phải thường xuyên ổng
kết quá trình vận dụng lý luận
vào thực tiễn, xem nó thừa thiếu
nhằm bổ sung phát triển nó cho
phù hợp.
Nắm vững quan điểm thực
tiễn có ý nghĩa trong việc góp
phần hạn chế bệnh giáo điều và
bệnh chủ quan duy ý chí trong tư
duy và trong hoạt động thực tiễn.
Kinh nghiệm thực tiễn có
vai trò rất quan trọng đối với lý
luận, kinh nghiệm chính là cơ sở
để tổng kết, khái quát thành lý
luận. Kinh nghiệm là căn cứ để
chúng ta không ngừng xem xét
lại bổ sung, sửa đổi, phát triển lý
luận. Tri thức lý luận hình thành
tổng kết khái quát kinh nghiệm
nhưng lại phải thông qua tư duy
trừu tượng của cá nhân nhà lý
1
luận cho nên nó cũng chứa đựng
khả năng không chính xác xa rời
thực tiễn. Vì vậy trí thức lý luận
phải được thể nghiệm trong thực
tiễn để khẳng định, bổ sung sửa
đổi hoàn thiện. Mặt khác lý luận
một khi đã được hình thành nói
không phải thụ động, mà có vai
trò độc lập tương đối của nó. Lý
luận tác động trở lại đối với thực
tiễn hướng dẫn chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, dự báo dự đón
tình hình và phương hướng hoạt
động thực tiễn trong tương lai …
Chúng ta coi trọng những
kinh nghiệm thực tiễn và không
ngừng tích lũy vốn kinh nghiệm
quý báu đó. Tuy nhiên nếu chỉ
dừng lại ở trình độ kinh nghiệm,
chỉ dựa vào những hiểu biết ở
trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn
với vốn kinh nghiệm của bản
thân coi kinh nghiệm là tất cả,
tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng
thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập,
nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý
luận vươn lên để nắm lý luận,
không quan tâm tổng kết kinh
nghiệm để đề xuất lý luận … thì
rất dễ mắc bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa. Trong thực tế, đây là
trường hợp thường có ở những
cán bộ, đảng viên có kinh
nghiệm và làm theo kinh nghiệm.
Họ không hiểu được rằng kinh
nghiệm của họ tuy tốt nhưng
cũng chỉ là từng bộ phận, từng
mặt mà thôi. Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhận xét: ''Có kinh nghiệm
mà không có lý luận cũng như
một mắt sáng, một mắt mờ''
Mặt khác, thái độ thực
sự coi trọng lý luận đòi hỏi phải
ngăn ngừa bệnh giáo điều chủ
nghĩa. Bệnh giáo điều chủ nghĩa
là tuyệt đối hóa lý luận, coi
thường kinh nghiệm thực tiễn,
xem lý luận là bất di bất dịch,
việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở
những nguyên lý chung trừu
tượng, không chú ý đến những
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự
vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều
có 2 dạng : giáo điều lý luận và
giáo điều kinh nghiệm. Bệnh giáo
điều lý luận là việc thuộc lòng lý
luận, cho rằng áp dụng lý luận áp
dụng vào đâu cũng được không
xem xét điều kiện cụ thể của
mình. Bệnh giáo điều kinh
nghiệm là việc áp dụng nguyên
si rập khuôn mô hình của nước
khác, của địa phương khác vào
địa phương mình mà không sáng
tạo, chọn lựa …
Thực chất của những sai
lầm của bệnh kinh nghiệm và
bệnh giáo điều là vi phạm sự
thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn. Cho nên để khắc phục bệnh
kinh nghiệm, giáo điều trong
công tác lý luận cần từ bỏ lối
nghiên cứu một cách kinh viện
thuần túy, cần chống lại lối tư
duy bắt chước sao chép rập
khuôn, thoát ly thực tế, bất chấp
những đặc điểm truyền thống và
điều kiện cụ thể của đất nước,
của dân tộc đồng thời phải tăng
cường tổng kết thực tiễn bổ sung
phát triển lý luận.
Một trong những sai lầm
trong đường lối chính sách của
Đảng trong thời kỳ trước đổi mới
cũng xuất phát từ căn bệnh giáo
điều. Trong thời kỳ này, đã có lúc
ta bắt chước rập khuôn mô hình
CNXH ở Liên Xô trong việc
thành lập các bộ ngành của bộ
máy nhà nước (ở Liên Xô có bao
nhiêu Bộ, Ngành ta cũng có bấy
nhiêu Bộ ngành), hoặc về công
nghiệp hóa cũng vậy, ta chỉ chú ý
tập trung phát triển công nghiệp
nặng mà không chú ý phát triển
công nghiệp nhẹ Hoặc theo học
thuyết của Mác thì phải xóa bỏ
tư hữu, do đó khi áp dụng vào
nước ta, Đảng đã có biểu hiện
nóng vội trong việc tiến hành cải
tạo XHCN nhằm xóa tất cả các
thành phần kinh tế mà không
thấy được rằng "Nền kinh tế
nhiều thành phần là một đặc
trưng của thời kỳ quá độ", sự có
mặt của nhiều thành phần kinh tế
với các mối quan hệ tác động
qua lại của nó sẽ tạo động lực
cho sự phát triển kinh tế trong
giai đoạn này. Phê phán việc học
tập, sao chép nguyên si kinh
nghiệm của các nước XHCN ,
Chủ tịch HCM có viết : “không
chú trọng đến những đặc điểm
dân tộc mình trong khi học tập
kinh nghiệm của các nước anh
em là sai lầm nghiêm trọng, là
phạm chủ nghĩa giáo điều”.
Chính những sai lầm này là một
trong những nguyên nhân gây ra
tình trạng khủng hoảng kinh tế
trầm trọng trong thời kỳ trước đổi
mới.
Thực hiện việc đổi mới
toàn diện nhằm đưa đất nước ra
khỏi cuộc khủng hoảng và tiếp
tục công cuộc xây dựng đất, đưa
đất nước tiến lên theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, Văn
kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX
của Đảng ta nêu rõ: ''Đảng và
nhân dân ta quyết tâm xây dựng
đất nước Việt Nam theo con
đường xã hội chủ nghĩa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và
tư tưởng Hồ Chí Minh ''. Trong
sự nghiệp đổi mới và xây dựng
CNXH ở nước ta, Đảng đã
khẳng định “Tiến hành đổi mới,
xuất phát từ thực tiễn và cuộc
sống của xã hội Việt Nam,
tham khảo kinh nghiệm tốt
của thế giới, không sao chép
bất cứ một mô hình có sẳn
nào”(Văn kiện Đại hội IX, trang
141)
Con đường đổi mới và xây
dựng CNXH ở nước ta hiện nay
có những đặc điểm những vấn
đề riêng của cách mạng Việt
Nam trong bối cảnh điểm xuất
phát kinh tế của nước ta thấp lại
bị chiến tranh tàn phá nặng nề,
bỏ qua chế độ TBCN và không
còn các nước XHCN đi trước
giúp đỡ do điều kiện chính trị thế
giới biến đổi một cách căn bản;
phong trào cộng sản và công
nhân quốc tế đang lâm vào thoái
trào tạm thời. Mặc dù, sau cơn
biến động lớn về chính trị trên
thế giới, các Đảng CS cầm
quyền ở Trung Quốc, Cuba
tiếp tục lãnh đạo cải cách, đổi
mới CNXH, song mỗi nước lại có
hoàn cảnh rất khác nhau, những
bước đi và cách làm khác nhau.
Việc học tập và vận dụng kinh
nghiệm tốt, những mô hình hiệu
quả trong công cuộc xây dựng
đất nước của các nước XHCN
trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò
mẫm, đỡ phạm những sai lầm
2
của người đi trước. Nói cách
khác, những tìm kiếm, phát triển
lý luận về CNXH, con đường và
các giải pháp xây dựng CNXH ở
mỗi nước có thể là kinh nghiệm
tham khảo chứ không thể áp
dụng máy móc, rập khuôn. Trong
nguyên tắc lý luận liên hệ với
thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh
cũng nhấn mạnh rằng “phải có
sự kết hợp biện chứng giữa việc
chú trọng đặc điểm riêng của
dân tộc với giá trị phổ biến trong
kinh nghiệm các nước”.
Việc hình thành những
quan niệm về chủ nghĩa xã hội
và con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội là công việc rất khó khăn.
Mô hình xây dựng chế độ xã hội
chủ nghĩa chưa có trong thực
tiễn lịch sử, càng chưa có khi
chúng ta xây dựng một nước có
nền kinh tế chưa phát triển như
nước ta. Đây là một vấn đề rất
mới mẻ. Xuất phát từ đặc điểm
đó, trong Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991),
Đảng đã nêu : chúng ta phải tiếp
tục nâng cao ý chí tự lực tự
cường, phát huy mọi tiềm năng
vật chất và trí tuệ của dân tộc
đồng thời mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình
thức và biện pháp thích hợp xây
dựng thành công chủ nghĩa xã
hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta xây dựng làm một
xã hội: do nhân dân lao động làm
chủ, có một nền kinh tế phát triển
cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về
các tư liệu sản xuất chủ yếu, có
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, con người
được giải phóng khỏi áp bức,
bóc lột, bất công, làm theo năng
lực, hưởng theo lao động, có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh
phúc, có điều kiện phát triển toàn
diện cá nhân, các dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết và
giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ,
có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân tất cả các nước
trên thế giới. Sáu đặc trưng nêu
trên thể hiện bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội chủ nghĩa mà
nhân dân ta sẽ xây dựng
Trên cơ sở vận dụng sáng
tạo những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin, tổng kết kinh
nghiệm thành công và cả kinh
nghiệm chưa thành công trong
thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta và các nước khác,
đặc biệt là những kinh nghiệm
của những năm đổi mới, Đảng ta
đã nêu ra những phương hướng
cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, gồm:
Một là, "xây dựng Nhà
nước xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh
giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm
nền tảng do Đảng Cộng sản lãnh
đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ
nguyên kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích Tổ quốc và của
nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng
sản xuất, công nghiệp hóa đất
nước theo hướng hiện đại gắn
liền với phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện là nhiệm vụ
trung tâm nhằm từng bước xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật
của chủ nghĩa xã hội, không
ngừng nâng cao năng suất lao
động xã hội và cải thiện đời sống
nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát
triển của lực lượng sản xuất,
thiết lập từng bước quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp
đến cao với sự đa dạng về hình
thức sở hữu. Phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần
theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của Nhà
nước. Kinh tế quốc doanh và
kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân. Thực hiện nhiều hình
thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh
vực tư tưởng và văn hóa làm
cho thế giới quan Mác - Lênin và
tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
giữ vị trí chủ đạo trong đời sống
tinh thần xã hội. Kế thừa và phát
huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của tất cả các dân tộc
trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng
một xã hội dân chủ, văn minh, vì
lợi ích chân chính và phẩm giá
con người, với trình độ tri thức,
đạo đức, thể lực và thẩm mỹ
ngày càng cao. Chống tư tưởng,
văn hóa phản tiến bộ, trái với
những truyền thống tốt đẹp của
dân tộc và những giá trị cao quý
của loài người, trái với phương
hướng đi lên chủ nghĩa xã hội".
Năm là, "thực hiện chính
sách đại đoàn kết dân tộc, củng
cố và mở rộng Mặt trận dân tộc
thống nhất, tập hợp mọi lực
lượng phấn đấu vì sự nghiệp
dân giàu, nước mạnh. Thực hiện
chính sách đối ngoại hoà bình,
hợp tác và hữu nghị với tất cả
các nước; trung thành với chủ
nghĩa quốc tế của giai cấp công
nhân, đoàn kết với các nước xã
hội chủ nghĩa, với tất cả các lực
lượng đấu tranh vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới".
Sáu là, "xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc
là hai nhiệm vụ chiến lược của
cách mạng Việt Nam. Trong khi
đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng đất nước, nhân dân ta luôn
luôn nâng cao cảnh giác, củng
cố quốc phòng, bảo vệ an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ Tổ quốc và các thành quả
cách mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính
trị, tư tưởng và tổ chức ngang
tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho
Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh
đạo sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta".
Đó là những định hướng
lớn về chính sách kinh tế, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại,
những quan điểm về hệ thống
3
chính trị và vai trò lãnh đạo của
Đảng, đó là những định hướng,
con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta
Tóm lại, nắm vững quan
điểm lý luận gắn liền với thực
tiễn giúp cho chúng ta nhận thức
đúng và giải quyết hợp lý mối
quan hệ biện chứng tác động
qua lại của lý luận và thực tiễn,
dùng lý luận làm kim chỉ nam cho
hoạt động thực tiễn, tổng kết
thực tiễn để phát triển lý luận,
thực tiễn phải là cơ sở, động lực
của nhận thức và tiêu chuẩn của
chân lý để không rơi vào chủ
nghĩa giáo điều, kinh viện và chủ
nghĩa kinh nghiệm hoặc chủ
quan duy ý chí, khắc phục bệnh
sách vở, thói lý luận suông và
điều kiện để đảm bảo thành công
sự nghiệp đổi mới và xây dựng
CN XH của đất nước.
4