SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“ Nâng cao chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên”
I/ PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Để thực hiện tốt sứ mệnh "Nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và
con người Việt Nam" cùng với sự góp sức của toàn xã hội, ngành giáo dục cần đổi
mới căn bản, toàn diện, xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ
quản lý giáo dục; đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và
học ở tất cả các cấp, bậc học; đẩy mạnh thi đua "dạy tốt, học tốt"; nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục truyền thống lịch sử, đạo đức,
lối sống, ý thức trách nhiệm xã hội, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác
phong công nghiệp; xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ
giữa nhà trường với gia đình và xã hội.
Ngay từ khi thành lập nước đến nay, trong suốt quá trình đấu tranh giành độc
lập và xây dựng nước nhà, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng sự nghiệp giáo dục
nên những thành tựu mà đất nước ta đã đạt được cũng có một phần công sức không
nhỏ của ngành giáo dục, nhất là trong giai đoạn đất nước ta đang bước vào thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nền GD - ĐT cần phải đáp ứng kịp thời
nguồn nhân lực, để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Nguồn nhân lực là vốn quí giá nhất, có vai trò quyết định sự thành công của
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước nếu ta biết đào tạo bồi dưỡng và
sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả.
Dựa vào nguồn nhân lực con người để xây dựng, phát triển đất nước là một
trong những quan điểm hết sức cơ bản của Đảng ta. Đã được đề ra qua Nghị quyết
các kỳ đại hội Đảng: “Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển kinh tế xã hội.
Hội nghị lần thứ 7 BCH TW Đảng khoá VII đã chỉ rõ: “Trong công cuộc
công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, những chính sách, giải pháp đúng trong
phát triển giáo dục và đào tạo phải hướng tới đào tạo một nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong thời đại ngày nay. Đó
là một nguồn nhân lực bao gồm những người có đức, có tài, ham học hỏi, thông
minh sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc,
1
được trang bị tốt kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề
nghiệp, về năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô kinh tế và
toàn xã hội, có trình độ khoa học kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, việc bồi dưỡng giáo viên mang tính cấp thiết.Vì
đây là công việc phải làm thường xuyên, liên tục và lâu dài để xây dựng một đội
ngũ giáo viên đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Do đó, người cán bộ quản
lý cần có biện pháp để nâng cao chất lượng bồi dưỡng đội ngũ giáo viên ở trường
mình công tác. Việc nâng cao chất lượng chuyên môn trong nhà trường đã từng
từng bước nâng cao, song đối với mục đích yêu cầu hiện nay là:“ nâng cao quản lí
đội ngũ cán bộ giáo viên”, thì chất lượng chuyên môn của nhà trường có phần hạn
chế, chưa linh hoạt, nhạy bén, sáng tạo.
Xuất phát từ vị trí, yêu cầu phát triển giáo dục tiểu học, là người quản lý
trường tiểu học, tôi nhận thấy rằng: Để nâng cao chất lượng chuyên môn cho đội
ngũ Giáo viên trong nhà trường, nhằm đáp ứng được yêu cầu của Đảng và Nhà
nước, đáp ứng được yêu cầu của ngành giáo dục và đáp ứng được sự mong mỏi
của phụ huynh học sinh thì phải có đội ngũ giáo viên giỏi, đạt chuẩn trở lên theo
yêu cầu của ngành Giáo dục đã đề ra.
Tôi xác định việc tìm ra giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên là
một vấn đề mà người cán bộ quản lý cần phải nghiên cứu để vận dụng vào thực
tiễn giáo dục địa phương cho năm học này và những năm học tiếp theo đạt kết quả
cao hơn.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “ Nâng cao chất lượng giảng dạy quản lý
đội ngũ giáo viên” trường TH huyện Krông Păk với quyết tâm nâng
cao chất lượng chuyên môn của đội ngũ giáo viên nhà trường ngày càng vững
mạnh.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ:
a. Mục tiêu:
Trên cơ sở đánh giá đúng chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường
tiểu học làm căn cứ cho việc tìm kiếm mô hình giải pháp nâng cao chất lượng
giảng dạy ở trường cho những năm tới.
b. Nhiệm vụ:
Khảo sát và phân tích thực trạng về chất lượng giảng dạy của nhà trường từ
năm 2009 đến 2012 để tìm ra những ưu điểm cần tiếp tục phát huy và những tồn
2
tại, yếu kém cần khắc phục. Từ đó đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng
giảng dạy của nhà trường trong những năm tiếp theo.
3. Phạm vi nghiên cứu:
a. Đối tượng nghiên cứu:
Về chất lượng giảng dạy của đội ngũ giáo viên trường tiểu học
b. Địa điểm nghiên cứu:
- Trường tiểu học huyện Krông Pắc, tỉnh Đăk Lắk.
c. Thời gian thực hiện đề tài:
- Từ ngày 28 tháng 8 đến 08 tháng 03 năm 2013.
4. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp luận:
- Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng, Nhà nước và của ngành về vấn đề Giáo dục và đào tạo.
b. Phương pháp cụ thể:
- Khảo sát thống kê, điều tra xã hội học những số liệu về các đối tượng
nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Tiến hành phân tích, tổng hợp, so sánh về các số liệu, các vấn đề có liên
quan đến chất lượng giáo dục của nhà trường.
5. Bố cục đề tài:
Đề tài gồm ba phần: Phần mở đầu; Phần nội dung chính; Phần kết luận và
kiến nghị.
II/ PHẦN NỘI DUNG
A/ CƠ SỞ LÝ LUẬN:
1/ Một số vấn đề chung:
Trường tiểu học là cơ sở của bậc học phổ thông có nhiệm vụ thực hiện “Giáo
dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự nghiệp
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và kỹ năng cơ
bản để học sinh tiếp tục học lên trung học cơ sở ”
Trước yêu cầu đổi mới giáo dục và hội nhập quốc tế, việc bồi dưỡng giáo viên
ở các cấp, một số nguyên tắc đã được đúc kết coi như là sự vận dụng nguyên lý
giáo dục của Đảng, Nhà nước trong nhà trường. Những nguyên tắc đó là:
3
Nội dung bồi dưỡng đội ngũ giáo viên rất phong phú, đa dạng tùy theo yêu
cầu của mỗi cá nhân, đơn vị, ngành… Vì vậy những nội dung cần bồi dưỡng là:
Bồi dưỡng về tư tưởng chính trị, đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng,
đạo đức lối sống.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần VIII và nghị quyết hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ hai (khóa 8) của Đảng đã chỉ rõ “Giáo dục và đào
tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho sự công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.”
Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của sự nghiệp giáo dục là: “Đào tạo con
người có kiến thức văn hoá - Khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ
và có kỹ thuật, giàu lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp
ứng nhu cầu phát triển của đất nước và chuẩn bị cho tương lai”. Đó là những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội “vừa hồng, vừa chuyên” như lời căn dặn
của Bác Hồ.
Các Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh “ Tiền đề thực tiển tuyệt đối cần thiết,
vì không có nó thì tất cả sẽ chỉ là sự nghèo nàn trở thành phổ biến.
Nắm vững khoa học của triết học Mác- Lênin là tiền đề quan trọng không thể
thiếu để đổi mới tư duy lý luận.
Sự bổ sung phát triển lý luận Mác- Lênin phải dựa trên sơ sở thực tiển của giáo
dục trong công cuộc đổi mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Sự vận dụng sáng tạo
của chủ nghĩa Mác- Lênin là điều kiện tiên quyết để thực hiện thành công đường
lối đổi mới của Đảng.
* Nghị quyết Trung ương IV (Khóa VII), Nghị quyết Trung ương II (Khóa
VIII), Nghị quyết Trung ương VI (Khóa IX) đều khẳng định mục tiêu giáo dục cho
đất nước.
- Phải đổi mới quy mô chương trình, nội dung phương pháp giáo dục, cơ sở
vật chất kỹ thuật phục vụ, đặc biệt là nguồn lực con người để đáp ứng công cuộc
“Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa” đất nước.
- Những nhiệm vụ chủ yếu về giáo dục - đào tạo đã được Hội nghị Trung
ương VI (Khóa IX) đặc biệt nhấn mạnh: “Từ nay đến năm 2020 cần tập trung giải
quyết 3 nhiệm vụ.Trong đó nhiệm vụ hàng đầu là: Nâng cao hiệu quả giáo dục,
muốn vậy trước hết phải nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo”.
* Chỉ thị 40.CT/TW ngày 15/6/2004 có nêu: “ Để thực hiện thàng công
chiến lược phát triển giáo dục từ nay đến năm 2020 và chấn hưng đất nước”.
4
- Mục tiêu là “Xây dựng đội ngũ nhà giáo được chuẩn hóa đảm bảo chất
lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh
chíng trị, phẩm chất lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo”. Để đạt được mục
tiêu đó, “Chú trọng bồi dưỡng, nâng cao trình độ, chất lượng đội ngũ nhà giáo….”
2/. Tầm quan trọng của việc quản lý nhà trường như thế nào để có đội ngũ
giáo viên giỏi:
Có mũi nhọn giáo viên giỏi sẽ là điều kiện thuận lợi để có đội ngũ học sinh
giỏi Đào tạo đội ngũ học sinh có chất lượng ngày càng cao, trong đó tổ chức bồi
dưỡng được nhiều học sinh giỏi nhằm đáp ứng nhu cầu cho xã hội trong tình hình
hiện nay- chính là nhiệm vụ chủ yếu, là mục tiêu quan trọng đối với nhà trường.
Đồng thời đó còn là nguyện vọng tha thiết của các gia đình, cha mẹ học sinh và là
nhu cầu của xã hội.
Có đội ngũ giáo viên giỏi các cấp, có truyền thống bồi dưỡng nhiều học sinh
giỏi đạt giải cao trong các kỳ thi, các nhà trường đó có điều kiện tuyển lựa học
sinh, chọn “đầu vào” có chất lượng khá, đã “có bột” để “gột nên hồ” và cũng có
điều kiện thuật lợi trong việc xã hội hoá giáo dục, tranh thủ sự giúp đỡ có hiệu quả
của phụ huynh học sinh.
Do đó đòi hỏi người giáo viên phải tự trau dồi phẩm chất, năng lực, không
ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ, tìm ra những biện pháp tốt nhằm phát huy hết
khả năng nội lực.
Như vậy, đối với sự nghiệp giáo dục, việc xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi
là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng trong nhà trường.
Là người cán bộ quản lý, chỉ đạo mọi hoạt động, nhất là hoạt động chuyên môn
trong nhà trường, tôi thấy mình phải có trách nhiệm cao trong việc đào tạo bồi
dưỡng, nâng cao chất lượng giáo dục của giáo viên, đảm bảo trình độ giảng dạy
ngày càng cao, phấn đấu trở thành những con người mới “ mỗi thầy cô giáo là một
tấm gương sáng cho học sinh noi theo’’.
Để trở thành một giáo viên dạy giỏi, trước hết người đó phải có tâm đối với
nghề, có tư cách đạo đức, tác phong mẫu mực. Có bằng cấp ít nhất là đủ theo tiêu
chuẩn của Bộ qui định. Càng có bằng cấp cao càng tốt. Điều đó trước hết khẳng
định năng lực của người giáo viên trong việc học của mình. Từ đó mới có thể dạy
cho người, sau đó là uy tín của mình trước đồng nghiệp, trước phụ huynh học sinh.
Người giáo viên dạy giỏi phải không ngừng trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, có
ý thức học hỏi đồng nghiệp để tiến bộ. Điều quan trọng nhất của giáo viên dạy giỏi
là đạt được những thành tích cao trong quá trình dạy học: Đó là số lượng học sinh
5
giỏi, tỉ lệ học sinh hoàn thành chương trình tiểu học đạt loại khá, loại giỏi cao. Có
học sinh đạt giải trong các kỳ thi học sinh giỏi các cấp và cao hơn nữa là thành tích
đạt giáo viên dạy giỏi các cấp của chính bản thân người giáo viên.
Với một trường đã có nhiều thành tích dạy tốt và học tốt như trường Tiểu
học thì việc bồi dưỡng để có thêm nhiều giáo viên dạy giỏi, có đội ngũ học
sinh giỏi năm sau cao hơn năm trước là vấn đề rất cần thiết.
3/ Tình hình nhà trường và trình độ của đội ngũ giáo viên ở trường tiểu
học , Huyện Krông păk, Tỉnh Đăk Lăk.
a. Một số nét về trường Tiểu học :
Trường tiểu học , năm 1996 được tách từ trường tiểu học …. Trường
thuộc hệ thống giáo dục công lập, chịu sự quản lý trực tiếp của phòng giáo dục
Krông Pắc tỉnh Đắk Lắk.
Trường có diện tích 5.024m
2
, nằm trên địa bàn của thôn 7, xã , huyện
Krông Pắc.
Học sinh trong địa bàn nhà trường tuyển sinh là con em của nhân dân ở các
thôn: 7 ; 8 ; 9 ; 10. Dân cư chủ yếu là người kinh thuộc vùng Hà Tĩnh, thanh hóa ,
Thái bình vào làm ăn, sinh sống (địa bàn trường phụ trách không có dân tộc tại
chỗ). Qua điều tra có tới 95% hộ gia đình làm nông nghiệp, nhìn chung có trình độ
học vấn thấp, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế còn khó khăn. Thực tế, trong địa bàn
một bộ phận hộ có kinh tế khá giả, thì tập trung gần mặt đường giao thông. Số hộ
thuộc diện nghèo vẫn còn khá đông. Những năm học gần đây, số học sinh thuộc
diện nghèo, khó khăn đột xuất phải nhận trợ cấp của Dự án PEDC (Dự án dành cho
trẻ em có hoàn cảnh khó khăn) là khoảng 25%. Nhiều gia đình cả vợ chồng phải đi
làm nương rẫy cà phê cách nhà rất xa, khoảng 20 đến 150 cây số, phải ở lại rẫy
hàng tuần hàng tháng mới về nhà, nhất là trong các đợt vào mùa. Vì vậy việc quan
tâm chăm sóc con cái học hành, việc tiếp cận thông tin và nhận thức về giáo dục
còn nhiều hạn chế.
Mặt khác, cán bộ chính quyền địa phương và các đoàn thể mặc dù đã có
nhiều quan tâm chỉ đạo công tác giáo dục của địa phương, song cũng mới chỉ tập
trung quan tâm về xây dựng cơ sở vật chất. Kinh nghiệm chỉ đạo, lãnh đạo về giáo
dục tại địa phương còn hạn chế nhất định như công tác điều tra, vận động phối hợp
với gia đình để giáo dục học sinh Tất cả vấn đề nêu trên đã ảnh hưởng không
nhỏ đến chất lượng, hiệu quả giáo dục của nhà trường.
6
Những năm học từ 2006 đến 2008, trường số lớp vào khoảng 11- 15 lớp hàng
năm. Những năm sau đó số lớp giảm dần do nguồn trẻ giảm, đến năm học 2011-
2012 số lớp chỉ còn 11. Kéo theo là đội ngũ giáo viên dôi dư, mặc dù đã được kiến
nghị giải quyết song mỗi năm vẫn dôi dư từ một đến hai người. Vì vậy giải quyết
phân phối việc làm và quản lý số giáo viên dôi dư là việc làm gây khó khăn thêm
cho đội ngũ quản lý.
* Về tình hình học sinh:
Theo sự phân công nguồn tuyển sinh, năm học 2011- 2012 nhà trường tuyển
sinh mới vào lớp 1 và số học sinh cũ từ lớp 2 đến lớp 5 là 243 học sinh, được chia
ra 11 lớp. Cụ thể như sau:
Khối lớp 1 Khối lớp 2 Khối lớp 3 Khối lớp 4 Khối lớp 5
Số lớp Số
HS
Số
lớp
Số
HS
Số
lớp
Số
HS
Số
lớp
Số
HS
Số
lớp
Số
HS
03 62 02 46 02 40 02 46 02 49
Nhìn chung các em học sinh đều ngoan, chăm học, biết vâng lời thầy cô giáo.
Tuy nhiên do phần đông các em đều thuộc gia đình làm nông nghiệp, điều kiện gia
đình khó khăn, thiếu sự quan tâm của gia đình về việc học tập. Một số học sinh còn
phải có nhiệm vụ trông nhà, trông em, lo các công việc gia đình để bố mẹ đi làm
rẫy nên các em không có thời gian, không có điều kiện để học tập,sinh hoạt theo
chương trình học 2 buổi/ngày của nhà trường. Số các em này thường chỉ theo học
một buổi sáng, buổi chiều thường nghỉ học để phụ giúp gia đình. Những khó khăn,
trở ngại đó đã gây ảnh hưởng nhiều đến việc nâng cao chất lượng giáo dục của
trường.
b. Về tình hình đội ngũ CB-GV-NV nhà trường:
* Biên chế số lượng:
Theo biên chế của ngành, năm học 2011-2012, tống số CB-GV-NV của
trường có 31 người, đều là dân tộc Kinh, được phân công chức danh và nhiệm vụ
như sau:
Chức danh Số lượng
Trong số lượng chia ra
Nữ Đảng viên
Hiệu trưởng 1 1
Phó hiệu trưởng 2 1 2
TPT Đội TNTP 1 1
Giáo viên 21 19 7
Kế toán 1 1
Văn thư 1 1
Thư viện 1 1
7
Thiết bị 1 1
Y tế 1 1 1
Bảo vệ 1
TỔNG 31 25 12
* Về độ tuổi và các điều kiện khác:
Theo bảng số liệu trên, hiện nay nhà trường có 21 giáo viên được phân công
tham gia trực tiếp giảng dạy ở các khối lớp. Tính đến năm học 2011-2012, giáo
viên của trường có độ tuổi cao nhất là 49 tuổi, thấp nhất là 23 tuổi, tuổi đời bình
quân của CB-GV trong nhà trường là 36 tuổi (không tính tuổi của nhân viên).
+ Cụ thể về độ tuổi của giáo viên: - Dưới 30: 06 ( nữ 05 )
- Từ 31 – 49 : 19 (nữ 16)
Với độ tuổi bình quân như vậy, xét về mặt tâm lý lứa tuổi của học sinh tiểu
học thì các em ít hứng thú học hơn so với những thầy cô giáo còn trẻ. Ngoài ra còn
phải kể đến giọng nói, hình thức và các yếu tố khác của mỗi thầy cô giáo cũng có
những ảnh hưởng không nhỏ đến việc ham thích đi học, chú ý học tập của học sinh
tiểu học.
Đội ngũ giáo viên của trường phần đông đều công tác tại trường đã lâu, đều
đã lập gia đình nhưng hầu hết lại không cư trú tại địa phương nơi trường đóng.
Ngoài ra, phần đông giáo viên của trường là người miền Bắc (vùng Nghệ An, Hà
Tĩnh và một số ở Thái Bình, Hà Nam…). Bởi vậy việc am hiểu phong tục tập quán
của các em học sinh người địa phương có những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến
chất lượng giảng dạy (nhất là môn Tiếng Việt) của nhà trường.
Mặt khác, với cơ cấu biên chế số lượng theo quy định của Thông tư liên tịch
số 35 liên Bộ Giáo dục & Đào tạo, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính như vậy nên có
những công tác nhà trường không có chuyên trách mà chỉ làm kiêm nhiệm (công
đoàn, khối trưởng, khối phó, thanh tra nhân dân) vì vậy hiệu quả công tác chưa
cao.
c. Về chất lượng đội ngũ:
Chức danh
Số
lượng
Trình độ đào tạo Trình độ tay
nghề
Đại
học
Cao
đẳng
Trung
cấp
Giỏi
tỉnh
Giỏi
huyện
Hiệu trưởng 1 01
Phó hiệu trưởng 2 02
TPT Đội TNTP 1 01
Giáo viên 21 09 10 02 04
Kế toán 1 01
8
Văn thư 1 01
Thư viện 1 01
Thiết bị 1 01
Y tế 1 01
Bảo vệ 1
TỔNG 31 12 11 07 04
Qua khảo sát, tuổi nghề của đội ngũ giáo viên tương đối cao, bình quân là 15
năm. Hầu hết đội ngũ giáo viên của trường đều yêu nghề, mến trẻ, có ý thức vươn
lên trong công tác, chịu khó học hỏi, đầu tư cho soạn giảng, thường xuyên nghiên
cứu, tự học tự rèn để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó vẫn
còn một bộ phận giáo viên chưa thực sự tâm huyết với nghề, thiếu sự đầu tư cho
bài giảng trước giờ lên lớp, chưa cố gắng học hỏi, nhiệt tình tận tụy vì học sinh.
Giáo viên tổng phụ trách Đội TNTP cũng được rút từ giáo viên tiểu học để làm mà
chưa được qua lớp bồi dưỡng công tác Đội TNTP vì vậy công tác quản lý, điều
hành chung còn gặp không ít khó khăn.
d. Về cơ sở vật chất của trường:
* Về phòng học và các phòng chức năng:
Hiện nay, trường có tất cả 12 phòng học, trong đó 7 phòng cấp 4; trong đó số
phòng học đạt chuẩn là 05 phòng.
Khu nhà hiệu bộ gồm 05 phòng: 01 phòng hiệu trưởng, 02 phòng hiệu phó,
01 phòng hội đồng, 01 phòng văn thư-kế toán-thủ quỹ.
Như vậy, xết về tiêu chuẩn phòng học để đạt chuẩn thì còn tới 6 phòng học
chưa đạt chuẩn. Ngoài ra, trường còn thiếu các phòng chức năng như phòng nghe,
nhìn ,Tin học
* Về bàn ghế và các trang thiết bị dạy học khác:
Về số lượng bàn ghế để phục vụ cho giáo viên, học sinh và các bộ phận trong
nhà trường hoạt động là đủ về số lượng nhưng chưa đạt về chất lượng theo quy
định của ngành.Tổng số chỗ ngồi cho học sinh 300 chỗ trong đó đạt chuẩn là: 300
chỗ. Hiện trường đã có một phòng máy vi tính với số lượng là 14 máy phục vụ cho
dạy môn tin học. Số máy phục vụ cho công tác quản lí là 4 máy (1 máy xách tay).
Nhà trường đã có 1 bộ máy chiếu phục vụ cho công tác giảng dạy. Tuy nhiên để
đáp ứng được nhu cầu dạy và học trong tình hình mới thì số trang thiết bị dạy học
trên vẫn còn thiếu thốn nhiều.
* Về diện tích sân chơi bãi tập cho giáo viên, học sinh:
Với diện tích hiện có của trường thì sân chơi bãi tập của học sinh đã đủ điều
kiện để đạt chuẩn quốc gia. Diện tích trồng cây bóng mát tương đối lớn, có đủ độ
9
che phủ và bóng mát để học sinh vui chơi và hoạt động tập thể. Tuy nhiên hiện nay
trường chưa có công trình vệ sinh đúng quy định chuẩn. Hệ thống nước sạch phục
vụ cho giáo viên và học sinh chưa đúng quy cách .
Trường đã có tường rào bao quanh để đảm bảo an ninh trật tự, tạo điều kiện
cho công tác giảng dạy ,học tập chung của nhà trường.
e. Các tổ chức đoàn thể:
* Chi bộ Đảng:
Trường đã có chi bộ riêng với 12 đảng viên chính thức.Số quần chúng ưu tú
là 05.Tổ chức chi bộ thực sự là hạt nhân lãnh đạo toàn diện các hoạt động của nhà
trường, đặc biệt là công tác dạy- học. Nhiều năm liền chi bộ vẫn giữ vững danh
hiệu “Trong sạch vững mạnh”. Tuy nhiên, việc lãnh đạo, chỉ đạo công tác dạy và
học trong nhà trường chưa thực sự sâu sát trong việc bố trí, phân công đúng người,
đúng việc để khai thác hết tiềm năng trí tuệ của mỗi cá nhân, từ đó xây dựng các ê-
kíp làm việc ăn ý phát huy sức mạnh tập thể.
* Công đoàn cơ sở nhà trường:
Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban chấp hành công đoàn ngành giáo dục, tổ
chức công đoàn nhà trường luôn phát huy tốt vai trò tham mưu, giám sát, vận
động, xây dựng và làm tốt công tác chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp pháp
của công đoàn viên . Duy trì nề nếp sinh hoạt, động viên CB-GV-NV tham gia các
hoạt động phong trào thể dục thể thao, văn nghệ đã tham gia thi cấp huyện đạt giải
cao; phát động các phong trào thi đua “dạy tốt – học tốt”, thi giáo viên dạy giỏi, thi
an toàn giao thông, tìm hiểu Luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội; giới thiệu đoàn
viên ưu tú cho chi bộ Đảng,
* Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học:
Hội cha mẹ học sinh không chỉ có nhiệm vụ cùng nhà trường giáo dục học
sinh mà còn giúp nhà trường xây dựng cơ sở vật chất, động viên thầy cô giáo để
nâng cao chất lượng giảng dạy, thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục và thể hiện
truyền thống “ Tôn sư trọng đạo” của dân tộc ta đã có từ bao đời nay.
Nhận thức được vị trí và tầm quan trọng đó, nhà trường đã làm tốt công tác
tham mưu với chính quyền địa phương tổ chức đại hội Phụ huynh học sinh bầu
chọn các cá nhân có điều kiện và uy tín nhất vào Ban chấp hành hội của từng lớp
và của nhà trường. Những năm qua, Hội PHHS đã có vai trò lớn trong việc huy
động thu các khoản kinh phí tự nguyện để cải thiện môi trường sư phạm nhà
trường như: Làm sân, làm lối đi trong sân, tu sửa nâng cấp phòng học, xây dựng
công trình vệ sinh, xây dựng nhà bảo vệ ngoài ra còn đóng góp khen thưởng học
10
sinh nghèo vượt khó, thăm hỏi động viên các thầy cô giáo trong các dịp lễ, Tết ;
tạo điều kiện cho nhà trường, đội ngũ thầy cô giáo hoàn thành nhiệm vụ.
Bên cạnh những việc đã làm được ở trên, vì công việc của Ban chấp hành hội
nhiều, đòi hỏi phải có thời gian nhưng không có thù lao cho công tác Hội, bởi thế
người tham gia làm công tác Hội cha mẹ học sinh hoàn toàn vì con em, vì lòng
nhiệt tình với sự nghiệp giáo dục. Các phụ huynh nhận thức được vì thương con
nên tham gia giúp đỡ nhà trường vì thế mọi hoạt động của họ đều thụ động, theo
gợi ý của nhà trường mà không tự xây dựng chương trình kế hoạch thực hiện một
cách bài bản, chủ động của tổ chức Hội. Mặt khác, do điều kiện hoàn cảnh gia
đình, do nhận thức của các hội viên có chừng mực nhất định nên họ chưa thực hiện
tốt vai trò và làm công tác xã hội hoá giáo dục.
Những thực trạng trên của công tác Hội cha mẹ học sinh nên nhà trường còn
gặp nhiều khó khăn trong việc phối hợp các điều kiện hỗ trợ để nâng cao chất
lượng giảng dạy.
B. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY ĐỘI NGŨ
GIÁO VIÊN TRƯỜNG TIỂU HỌC
1. Vai trò của Ban giám hiệu trong công tác bồi dưỡng giáo viên:
Cán bộ quản lý trước hết phải là tấm gương tiêu biểu về quá trình bồi dưỡng
và tự bồi dưỡng. Quan trọng nhất là phải luôn khẳng định trình độ năng lực chuyên
môn của mình trong tập thể sư phạm. Nghị quyết TW 2 khoá VIII đã khẳng định: “
Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục - đào tạo khắc phục lối truyền thụ một
chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học……. phát triển mạnh
phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên và rộng khắp trong toàn dân…. và
trong dự thảo văn kiện trình đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX về giáo dục - đào
tạo đã nhấn mạnh: “ Đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tư duy sáng tạo
và năng lực tự đào tạo của người học, coi trọng thực hành, ngoại khoá, làm chủ
kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt, học chay…”.
Trong thực tế, chỉ có tự học mới có thể có điều kiện giúp chúng ta học tập
được thường xuyên và suốt đời. Tự học là một cách tự bồi dưỡng, tự làm giàu kiến
thức cho mình vừa đơn giản, tiết kiệm vừa hiệu quả. Vì vậy trách nhiệm của người
quản lý giáo dục là phải suy nghĩ, tìm biện pháp để thổi lên ngọn lửa của phong
trào tự học – Tự bồi dưỡng cho đội ngũ giáo viên bằng nhiều hình thức:
+ Tổ chức các hoạt động sư phạm trong nhà trường gắn với tự học. Xây
dựng một cơ chế, chính sách, đánh giá thi đua hoặc gắn lợi ích vật chất đối với việc
Tự học – Tự bồi dưỡng của giáo viên……
11
Trước hết bản thân tôi phải vững vàng về chuyên môn, không ngừng tự nâng
cao về chuyên môn, chịu đọc và chịu học hỏi anh chị em giáo viên.
Một trong những nhiệm vụ của Phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn là dự
giờ của giáo viên và đánh giá tiết dạy. Bản thân tôi trước đây là giáo viên, đã được
Ban giám hiệu dự giờ nhiều lần, tôi hiểu sâu sắc tầm quan trọng của việc đánh giá
tiết dạy của Ban giám hiệu đối với giáo viên. Đó là sự “ Tâm phục, khẩu phục” nếu
là những lời nhận xét xác đáng, giúp ích cho giáo viên rất nhiều và ngược lại nếu là
những lời nhận xét chung chung, thậm chí sai về kiến thức cơ bản thì sự nhìn nhận
của giáo viên đối với tôi sẽ giảm đi rất nhiều.
Vì vậy, mỗi khi dự giờ, bản thân tôi đều xem trước nội dung bài dạy, tìm bắt
kiến thức trọng tâm và khó dạy, đồng thời suy nghĩ để nâng cao kiến thức cho học
sinh trong tiết dạy đó.
Người cán bộ quản lý phải biết kích thích nhu cầu tự vươn lên trong tập thể
sư phạm do mình phụ trách bằng các biện pháp quản lý như: Quản lý hành chính,
quản lý về kế hoạch và thi đua, khen thưởng. Người cán bộ quản lý cần có quan
điểm nhất quán, xuyên suốt trong quá trình xây dựng đội ngũ giáo viên dạy giỏi và
bồi dưỡng học sinh giỏi.
Ban giám hiệu chúng tôi coi việc xây dựng đội ngũ giáo viên giỏi là nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của mình, bởi nó không chỉ tạo nên những học sinh giỏi
mà quan trọng hơn nhiều là nó nâng cao mặt bằng giáo viên cho tất cả các lớp
trong trường.
Theo quyết định số 3257/ GD - ĐT ngày 8 - 11 - 1994, điều 16 Điều lệ
trường học do Bộ trưởng Bộ giáo dục - Đào tạo ban hành nói về nhiệm vụ của giáo
viên tiểu học như sau: “ Thường xuyên học tập văn hoá, bồi dưỡng nghiệp vụ, rèn
luyện ý thức, đạo đức tác phong để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao theo tiêu
chuẩn qui định của người giáo viên tiểu học”.
Có thể nói, tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá giáo viên là sự tiến bộ về mọi
mặt của học sinh do mình phụ trách “ Muốn có học sinh giỏi phải có thầy giáo
giỏi”. Người cán bộ quản lý coi việc xem xét, đánh giá giáo viên theo chất lượng
giảng dạy là biện pháp cốt lõi của công tác quản lý.
2. Ban giám hiệu cần lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ giáo viên:
Kế hoạch lập ra phải dựa trên thực trạng của đội ngũ giáo viên nhà trường,
vào sự nỗ lực phấn đấu của bản thân từng giáo viên. Kế hoạch phải đạt được những
yêu cầu sau:
12
100% giáo viên trong độ tuổi phải hoàn thành bồi dưỡng thường xuyên theo
chu kỳ.
Định ra cho từng tổ chuyên môn, từng giáo viên mức danh hiệu cần đạt được.
Ban giám hiệu nhà trường luôn động viên và tạo điều kiện thuận lợi để giáo
viên theo học các lớp bồi dưỡng thường xuyên, lớp đại học, cao đẳng tại chức. Để
tạo điều kiện cho các đồng chí đi học, ban giám hiệu đã sắp xếp thời khoá biểu phù
hợp để các đồng chí giáo viên được nghỉ trong các ngày đi học, giảm bớt một số
buổi họp bằng cách ghi thông báo trên bảng giúp giáo viên nắm được và thực hiện.
Đồng chí nào đi học sáng thì dạy học buổi chiều Tất cả các đồng chí giáo viên đi
học đều được nhà trường ủng hộ một số kinh phí để mua sách, tài liệu tham khảo
phục vụ cho việc học.
Thực tế giảng dạy cho thấy, những đồng chí giáo viên có trình độ học vấn cao
đã đóng góp vai trò chủ chốt trong các khối chuyên môn, là những mũi nhọn trong
phong trào thi giáo viên dạy giỏi và được đồng nghiệp tin yêu, quý mến.
3.Tăng cường công tác hành chính, tài chính, cơ sở vật chất, trang thiết bị
dạy học của nhà trường theo yêu cầu chuẩn Quốc gia mức độ I:
Đẩy mạnh việc ứng dụng khoa học công nghệ , tin học ứng dụng vào công
tác quản lý nhân sự, học sinh. Sử dụng, phát huy hiệu quả của phần mềm quản lý
PEMIS, EMIS trong việc quản lý nhân sự, học sinh. Lập Email, xử lý thông tin qua
mạng Internet để tiết kiệm thời gian, kinh phí trong việc đi lại để chuyển tải thông
tin.
Tăng cường đầu tư cho thư viện, bổ sung thiết bị dạy học, xây dựng tủ sách
pháp luật; vận động đội ngũ CB-GV-NV và học sinh đóng góp đầu sách, phân loại
sách, thiết bị, làm thư mục và sắp xếp hệ thống sách theo quyết định 01/2003/QĐ-
BGD&ĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về các tiêu chuẩn của thư viện để phục vụ
giáo viên và học sinh.
Làm tốt công tác quản lý hồ sơ, công văn và các văn bản hướng dẫn thực
hiện nhiệm vụ năm học.
Phân công quản lý và sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất của nhà trường;
tham mưu với các cấp lãnh đạo để xây dựng công trình vệ sinh, công trình nước
sạch phục vụ cho các hoạt động giáo dục trong nhà trường; đầu tư mua sắm thêm
một số trang thiết bị: máy tính, máy chiếu để phục vụ giảng dạy.
Lập dự toán thu chi phù hợp với điều kiện của trường; nghiêm túc thực hiện đúng
nguyên tắc thu chi tài chính theo quy định. Mở đầy đủ các loại hồ sơ, sổ sách theo
13
quy định của luật tài chính hiện hành. Thực hiện đầy đủ, kịp thời các chế độ chính
sách đối với CB-GV-NV theo quy định.
4. Ban giám hiệu chỉ đạo nề nếp sinh hoạt tổ chuyên môn để nâng cao
chất lượng giảng dạy:
Để nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn, tôi phải xây dựng một nề nếp
sinh hoạt cụ thể. Ở trường tôi, Ban giám hiệu quy định tổ chuyên môn sinh hoạt: 1
tuần /1lần. Mỗi tháng Ban giám hiệu họp trước với các tổ trưởng chuyên môn để
phổ biến những nội dung cơ bản của buổi họp tổ.
Ban giám hiệu cần chọn người tổ trưởng chuyên môn là người giỏi về chuyên
môn, có uy tín với đồng nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc và có
khả năng lãnh đạo tổ của mình. Những vấn đề gì ngoài khả năng giải quyết của tổ,
tổ trưởng sẽ kiến nghị với Ban giám hiệu để tìm biện pháp giải quyết kịp thời.
Các đồng chí giáo viên thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn sẽ bàn bạc với
nhau việc thực hiện chương trình, việc giảng dạy những bài khó, cách sử dụng đồ
dùng dạy học sao cho hiệu quả nhất
Chính vì thế, từ nhiều năm nay, nhất là trong năm học vừa qua, chất lượng các
buổi sinh hoạt chuyên môn đã được nâng cao rõ rệt. Khi các tổ sinh hoạt chuyên
môn, Ban giám hiệu thường xuyên đi kiểm tra. Có khi trực tiếp dự các buổi sinh
hoạt hoặc kiểm tra buổi sinh hoạt thông qua sổ ghi chép của khối. Đặc biệt là các
buổi sinh hoạt chuyên môn không chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tiến độ chương
trình, trao đổi bài dạy khó, mà các đồng chí giáo viên còn trao đổi với nhau cách
hướng dẫn học sinh giải bài toán theo cách ngắn gọn, hợp lý.
5. Bản thân cần có kế hoạch thăm lớp, dự giờ và tổ chức tốt hội thi giáo
viên dạy giỏi cấp cơ sở hàng năm:
Thực tế cho thấy, do trình độ của giáo viên không đồng đều nên việc giảng
dạy không đều tay, chất lượng học tập của học sinh bị hạn chế. Vì vậy để nâng cao
chất lượng giảng dạy, Bản thân tôi cần có kế hoạch dự giờ thường xuyên ( báo
trước và không báo trước ).
Việc dự giờ không thể tuỳ tiện, đối với người cán bộ quản lý, trước khi dự
giờ, chúng tôi xem trước nội dung bài học của học sinh để khi dự giờ nhanh chóng
hiểu và phân tích cái đúng, cái sai,trong bài giảng của giáo viên.
Bản thân nên có kế hoạch đi dự giờ cùng với khối trưởng chuyên môn hoặc
kiểm tra chuyên môn. Sau tiết dạy, Bản thân phải có đánh giá, nhận xét chính xác,
chân tình, có tính xây dựng, khuyến khích giáo viên phát triển những mặt mạnh,
14
điều chỉnh những mặt còn hạn chế. Tổ chức cho giáo viên dự giờ các đồng chí giáo
viên dạy giỏi các cấp để giáo viên học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Hàng năm cứ vào tháng 10, 11 là nhà trường phát động “ Hội thi giáo viên
dạy giỏi cấp cơ sở”. Đó là một dịp để mọi giáo viên đều phải cố gắng thể hiện khả
năng của mình trước đồng nghiệp, trước Ban giám hiệu. Vì vậy các đồng chí giáo
viên nghiên cứu bài rất kỹ, sử dụng các phương tiện hiện đại vào bài giảng như
máy chiếu . Có đồng chí giáo viên còn tự làm đồ dùng dạy học để phục vụ cho bài
giảng của mình. Do đó chất lượng giảng dạy ngày càng được nâng lên rõ rệt.
Chính vì việc dự giờ được tiến hành có kế hoạch nên Ban giám hiệu đã phát
hiện ra những giáo viên có tài năng, cử đi thi giáo viên dạy giỏi các cấp và đạt giải
cao. Đồng thời cũng kịp thời giúp đỡ các đồng chí giáo viên còn non yếu về tay
nghề vươn lên trong chuyên môn. Nhờ thực hiện tốt các biện pháp trên mà trong
những năm gần đây, năng lực giảng dạy của đội ngũ giáo viên trong trường tôi
nâng lên rõ rệt. Số lượng các đồng chí giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi
cấp Huyện năm sau cao hơn năm trước.
6. Ban giám hiệu bồi dưỡng mũi nhọn giáo viên dạy giỏi các cấp:
Muốn đẩy mạnh phong trào dạy tốt, điểu quan trọng là phải xây dựng được
mũi nhọn về giáo viên. Muốn có giáo viên giỏi, Ban giám hiệu cần khuyến khích ,
động viên các đồng chí giáo viên trẻ đăng ký thi giáo viên dạy giỏi và có kế hoạch
bồi dưỡng để họ có hướng phấn đấu đi lên.
Việc chọn thầy cô có năng lực, trình độ, có phẩm chất, có trách nhiệm cao
để bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ học sinh giỏi là rất cần thiết. Ngạn ngữ xưa có
câu: “ Không thầy đố mày làm nên” cũng là để khẳng định tầm quan trọng của
người thầy trong sự nghiệp giáo dục.
Muốn có trò giỏi, trước hết phải có thầy giỏi. Thầy giỏi ở đây không phải chỉ
giỏi về chuyên môn mà trước hết phải là người có tâm huyết với nghề nghiệp, có
trách nhiệm cao với học sinh và mẫu mực về đạo đức, tác phong, lối sống. Có như
vậy mới được học sinh kính trọng, mới là: “ Tấm gương sáng để học sinh noi
theo.
Vào đầu năm học, khi các đồng chí giáo viên ở từng khối lớp đã đăng ký các
danh hiệu thi đua, Ban giám hiệu cần có kế hoạch giúp đỡ để đồng chí đó được bồi
dưỡng thêm về chuyên môn như: Dự giờ của giáo viên giỏi trường bạn, tổ chức các
tiết dạy ở trường để đồng nghiệp và Ban giám hiệu góp ý; hoặc cho đi dự các
chuyên đề mà Phòng giáo dục tổ chức để nâng cao tay nghề
15
Thông thường giáo viên rất ngại đăng ký giáo viên dạy giỏi nhưng Ban giám
hiệu đã động viên, giúp đỡ bằng nhiều cách như cùng soạn bài, để giáo viên dạy
thử, rút kinh nghiệm thật tỉ mỉ và trao đổi chân tình để giáo viên có bài giảng sâu
sắc, phong phú. Ban giám hiệu chúng tôi thường nói với các đồng chí giáo viên: “
Mỗi lần các đồng chí dự thi giáo viên dạy giỏi là các đồng chí lại giàu có thêm về
kinh nghiệm sư phạm”.
Kết quả là: Với sự nỗ lực hết mình của các đồng chí giáo viên dự thi, được
sự giúp đỡ tận tình của bản thân tôi, nên các đồng chí tham gia thi giáo viên dạy
giỏi của trường tiểu học năm nào cũng đạt thành tích cao.
Năm học 2011 - 2012: Trường có 4 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy
giỏi cấp Huyện.
7. Ban giám hiệu cần tích cực tổ chức các chuyên đề:
Một công việc không kém phần quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục
là: Ban giám hiệu khuyến khích, tạo điều kiện cho giáo viên đi dự các chuyên đề
về đổi mới phương pháp giảng dạy các bộ môn do Phòng giáo dục tổ chức ở các
trường trong huyện. Các đồng chí giáo viên đều nhận thức được: Đổi mới phương
pháp dạy học là vấn đề cấp thiết nhưng đổi mới như thế nào thì còn lúng túng.
Để thực hiện tốt việc đổi mới phương pháp, hàng năm Phòng giáo dục - Đào
tạo Huyện Krông Pắc cũng như Ban giám hiệu nhà trường đều có kế hoạch triển
khai một số chuyên đề cần thiết, phục vụ cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy
ở một số môn nhất định.
Ví dụ: Nếu năm học trước đã triển khai chuyên đề : Toán, Tập đọc, Tự nhiên
xã hội thì năm sau có thể chuyến sang các chuyên đề: Tập làm văn, rèn chữ viết
đẹp, cách soạn giáo án điện tử ,dạy trên máy,
Để thực hiện có hiệu quả việc tổ chức dạy chuyên đề, Ban giám hiệu cần
làm những bước sau:
Nghiên cứu thực trạng việc dạy của giáo viên và sự tiếp thu của học sinh về
bộ môn đó bằng cách dự giờ, khảo sát chất lượng học sinh cuối gìơ học.
Ví dụ: Tổ chức chuyên đề về dạy môn Toán lớp 5, Ban giám hiệu đã dự 5
tiết dạy: 2 tiết dạy của giáo viên dạy trung bình, 2 tiết dạy của giáo viên dạy khá, 1
tiết dạy của giáo viên dạy giỏi.
16
Qua tiết dạy, Ban giám hiệu nhận thấy giáo viên dạy đúng qui trình, đúng
trọng tâm bài nhưng việc tổ chức tiết học còn nặng nề, chưa kích thích được sự say
mê đối với bộ môn. Như dạy bài toán “ Thể tích hình hộp chũ nhật”: Giáo viên
nên có đồ dùng thực tế để minh họa.
Với biện pháp này, tôi muốn tìm thấy những học sinh giỏi, kích thích tư duy
của học sinh, đồng thời cũng chỉ cho giáo viên thấy bài giảng của họ đã thành công
hay vẫn còn thiếu sót trong việc chưa chú ý nhiều đến đối tượng học sinh giỏi.
Đưa ra tổ chuyên môn trao đổi về những khó khăn mà giáo viên gặp trong
từng bài của môn học.
Mỗi bài dạy có một nội dung khác, một cách truyền thụ khác nhau và có
những bài thật khó tiếp thu đối với học sinh như bài : “ Phép chia phân số”- Toán
lớp 5, bài “ Đại lượng tỉ lệ nghịch”- Toán lớp 4, bài “ Vua Lê Thánh Tông với bộ
luật Hồng Đức” - Lịch sử lớp 4 Chính việc đưa ra trao đổi như vậy đã một phần
nào giúp cho sự nâng cao chuyên môn của giáo viên.
8. Đẩy mạnh công tác viết sáng kiến kinh nghiệm và làm đồ dùng dạy
học:
Người cán bộ quản lý cần hiểu: Viết sáng kiên kinh nghiệm là hình thức tự
bồi dưỡng có hiệu quả đối với mỗi giáo viên cũng như cán bộ quản lý. Hàng năm,
Ban giám hiệu nhà trường và tất cả giáo viên trong trường đều tham gia viết sáng
kiến kinh nghiệm theo công việc hoặc chuyên môn của mình.
Để động viên các đồng chí giáo viên tham gia nhiều, Ban giám hiệu cần giải
thích để giáo viên hiểu: Viết sáng kiến kinh nghiệm là việc nên làm để tích luỹ
kinh nghiệm, góp phần nâng cao chất lượng công tác quản lý cũng như chất lượng
giảng dạy của mỗi giáo viên.
Hàng năm, trường tiểu học đều có phong trào viết sáng kiến kinh
nghiệm rất đều đặn. Năm học 2011-2012 vừa qua, toàn trường tôi đều tham gia
viết. Hội đồng xét duyệt sáng kiến kinh nghiệm của nhà trường đã chấm và gửi lên
Phòng giáo dục ,Phòng giáo dục xét duyệt đạt 2SKKN loại B,1SKKN loại C.
Kết quả:
Sau khi SKKN đã được cấp trên công nhận và xếp loại, Ban giám hiệu tổ
chức một buổi chuyên đề trao đổi một vài SKKN thiết thực nhất để giáo viên toàn
trường học tập và áp dụng vào công việc giảng dạy cũng như công tác chủ nhiệm.
Qua đó các đồng chí giáo viên càng thấy rõ tác dụng tích cực của việc viết SKKN
17
là một cách phổ biến kinh nghiệm của mình để mọi người học tập. Hiện nay,
phong trào viết SKKN đã trở thành nếp đối với mọi thành viên trong trường tôi.
Song song với việc viết SKKN là việc trang bị các thiết bị dạy học hiện đại
và vận động làm đồ dùng dạy học. Trong những năm vừa qua, trường tiểu
học đã mua được một số thiết bị hiện đại như: Máy chiếu, ti vi loại lớn… Bên
cạnh đó, trong các đợt thi giáo viên dạy giỏi các cấp, Ban giám hiệu chú trọng phát
động trong giáo viên phong trào tự làm đồ dùng dạy học để phục vụ tốt hơn cho
bài giảng của mình. Mỗi giáo viên đều phải đầu tư, suy nghĩ để sáng tạo ra đồ dùng
dạy học phù hợp với bài dạy của mình. Từ đó góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy, phù hợp với đổi mới phương pháp hiện nay.
Qua mỗi đợt phát động, nhà trường có thêm từ 6 đến 8 đồ dùng dạy học có
chất lượng, áp dụng dạy được nhiều bài và nhiều môn khác nhau. Góp phần làm
phong phú, đa dạng hơn cho phòng đồ dùng dạy học của nhà trường.
C. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA TRƯỜNGNĂM HỌC 2011 - 2012
Công tác chỉ đạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy giỏi là công việc phức
tạp, yêu cầu người cán bộ quản lý phải có biện pháp quản lý và tổ chức phù hợp.
Để nhà trường ngày càng có nhiều giáo viên dạy giỏi, học sinh giỏi là cả quá trình
chỉ đạo và phấn đấu của các đồng chí trong Ban giám hiệu nhà trường, là sự cố
gắng liên tục của tập thể giáo viên trong trường. Qua một số biện pháp về quản lý
nhà nước đối với chất lượng giảng dạy của giáo viên trong trường tiểu học đã
nêu ở trên, trường tiểu học đã từng bước đưa chất lượng giảng dạy của giáo
viên và kết quả học tập của học sinh ngày một nâng cao.
Trong năm học 2011-2012 vừa qua, trường tiểu học đã đạt được một
số thành tích sau:
* Kết quả học tập và đạo đức của học sinh năm học 2011 - 2012:
• Kết quả năm học 2011 - 2012
- Tổng số học sinh : 243 em .Dân tộc : 4.em. Trong đó:
+ Về học lực:
- Học sinh giỏi : 72 em. Đạt tỉ lệ : 29,6 %
- Học sinh khá : 102 em. Đạt tỉ lệ : 42 %
- Học sinh trung bình : 68 em. Đạt tỉ lệ : 28 %
- Học sinh yếu : 1 em. (KT) Đạt tỉ lệ : 0,4 %(HSKT)
- Học sinh lên lớp đạt thẳng : 99,6 %
18
+ Hạnh kiểm
- Thực hiện đủ : 243 Học sinh . Đạt tỉ lệ 100 %
- Thực hiện chưa đủ: 0 Học sinh Đạt tỉ lệ 0 %
- Duy trì sỉ số đến cuối năm đạt 243/243 Đạt tỉ lệ 100 %
* Thành tích của giáo viên trong năm học 2011 - 2012:
- 04 đồng chí đạt giáo viên giỏi cấp Huyện
- 02 đồng chí đạt chiến sĩ thi đua cấp cơ sở
Trong công tác Quản lý chỉ đạo, Ban giám hiệu không ngừng cải tiến nếp
quản lý khoa học, đúng nguyên tắc nhưng linh hoạt. Thực hiện nghiêm túc định kỳ
báo cáo với Phòng giáo dục đào tạo huyện Krông Pắc.
* Kết quả học sinh lên lớp
Khối 1: 62/61H/S Tỉ lệ lên lớp 98,4%
Khối II: 46/46H/s Tỉ lệ lên lớp 100%
Khối III: 40/40H/S Tỉ lệ lên lớp 100%
Khối IV: 46/46H/S Tỉ lệ lên lớp 100%
- Số học sinh hoàn thành chương trình tiểu học : 49/49 H/S đạt:100 %
* Về học sinh giỏi các cấp:
Có 4 em học sinh đạt giải cấp HUYỆN. 72 em giỏi cấp Trường
* Kết quả các phong trào thi đua và danh hiệu đạt được .
Số lớp được công nhận lớp vở sạch chữ đẹp :
o Cấp huyện : 11 lớp.
o Cấp trường : 11 lớp
Giáo viên giỏi cấp huyện : 04 đồng chí
Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở : 02 đồng chí (Trong đó có 02 CBQL )
Tổ khối chuyên môn đạt danh hiệu : Tổ lao động giỏi 2tổ :(Tổ khối 2-3; Tổ
khối 4- 5)
Kết quả phúc tra cuối năm đoàn phúc tra thi đua phòng GD &ĐT huyện
Krông Păk đề nghị công nhận năm học 2011-2012 đạt danh hiệu :Trường
tiên tiến xuất sắc cấp tỉnh .Đạt chuẩn Quốc gia mức độ I
Chi bộ đạt Chi bộ : Trong sạch ,vững mạnh
Công đoàn đạt : Công đoàn vững mạnh
Chi đoàn đạt : Chi đoàn vững mạnh
Liên đội đạt : Liên đội vững mạnh .
19
* Về Thể dục thể thao:
Tham gia đầy đủ các đợt phát động do ngành giáo dục đề ra:
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. KẾT LUẬN:
Đất nước ta đang trên đà phát triển. Sự nghiệp đổi mới đất nước mà Đảng ta
đang khởi xướng và lãnh đạo thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”. Để đạt được mục tiêu lớn đó đòi hỏi phải có con
người thực hiện. Nhân tố con người được đặt vào vị trí trung tâm của chiến lược
kinh tế - xã hội, xây dựng và phát triển đất nước. Như vậy có nghĩa là sự phát triển
nguồn lực con người quyết định sự phát triển xã hội. Đảng ta đã xác định đúng đắn
đường lối phát triển đất nước phải “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm
yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”.
Cùng với khoa học công nghệ, giáo dục và đào tạo là Quốc sách hàng đầu; là
chìa khóa mở cửa vào tương lai, là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản để đảm
bảo cho việc thực hiện những mục tiêu kinh tế-xã hội, xây dựng và bảo vệ đất
nước. Coi trọng và đầu tư cho giáo dục là một trong những hướng chính của đầu tư
phát triển đất nước. Phát triển giáo dục nhằm nâng cao trình độ dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đào tạo ra những người có kiến thức văn hóa, khoa
học, có kỹ năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo, có kỷ luật, giàu lòng nhân
ái, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; sống lành mạnh; đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nước trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai. Muốn có được những con người
như vậy, trước hết phải nói đến vai trò của đội ngũ giáo viên nói chung trong đó có
đội ngũ giáo viên tiểu học nói riêng. Họ là lực lượng quyết định chất lượng giáo
dục của mình.
Để giúp họ có điều kiện hoàn thành tốt trọng trách này, trước hết Đảng và
Nhà nước phải có những chủ trương, chính sách cụ thể, thiết thực nhằm động viên
họ cả về vật chất lẫn tinh thần để họ toàn tâm, toàn lực vì sự nghiệp giáo dục.Thực
hiện những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, ngành giáo dục cần có
kế hoạch rà soát, thanh lọc và giải quyết các chế độ chính sách phù hợp để đội ngũ
giáo viên thật sự là những người tiên phong, những tấm gương sáng, xứng đáng
với sự kính trọng của toàn xã hội, những người được cả xã hội gọi là “Thầy”.
20
Đối với nhà trường chúng tôi cần phải có kế hoạch cụ thể , phù hợp để sắp
xếp tạo mọi điều kiện cho đội ngũ thầy cô giáo được tham gia bồi dưỡng nâng cao
trình độ chuyên môn và nâng cao chất lượng giảng dạy.
“Nâng cao chất lượng quản lý đội ngũ giáo viên trong giảng dạy” hiện nay
đang là đòi hỏi bức thiết đối với trường Tiểu học nói riêng và của toàn ngành
nói chung. Mỗi cá nhân trong tập thể sư phạm nhà trường cần tập trung hơn nữa
đầu tư cho công tác giảng dạy hướng đến mục tiêu mà toàn thể đội ngũ đã đặt ra
trong những năm tiếp theo 2012 đến 2014.
2. KIẾN NGHỊ:
Mặc dù trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách đầu tư cho Giáo dục và Đào tạo cả nước, đặc biệt là chế độ tiền
lương và phụ cấp ngành nghề, khu vực. Nhưng hiện nay điều kiện của đội ngũ thầy
cô giáo nói chung và thầy cô giáo tiểu học vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu,
nhất là ở các vùng có điều kiện kinh tế khó khăn. Bởi vậy chất lượng giảng dạy tuy
có được nâng lên nhưng cũng chưa ngang tầm thời đại. Với khuôn khổ hạn hẹp của
bài viết, tôi cũng mạnh dạn có những kiến nghị sau đây với các cấp lãnh đạo Đảng,
Nhà nước, Chính quyền địa phương và ngành giáo dục nhằm nâng cao chất lượng
giảng dạy của đội ngũ giáo viên nhà trường:
- Đảng và Nhà nước cần đầu tư ngân sách nhiều hơn nữa để ngành giáo dục
có điều kiện nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Bên cạnh đó cũng cần phải
có những biện pháp cụ thể để kiểm tra việc thực hiện ngân sách được giao đối với
ngành giáo dục để việc sử dụng ngân sách mang lại hiệu quả cao nhất.
- Ngành giáo dục cần xây dựng những tiêu chuẩn để tuyển chọn đội ngũ nhà
giáo, nhất là đối với bậc tiểu học. Để đội ngũ nhà giáo thực sự là những con người
vừa “hồng” vừa “chuyên”, những người đẹp cả hình thức lẫn tâm hồn để xứng
đáng là bậc “Thầy” mà xã hội đã tôn trọng trao cho.
- Bộ giáo dục và Đào tạo cần chỉ đạo thực hiện các tiêu chí đánh giá xếp loại
giáo viên đã ban hành: Quyết định số 14/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 04/5/2007,
đồng thời đối với cán bộ quản lý tiểu học cần hoàn thiện và đưa vào áp dụng các
tiêu chuẩn đối với người cán bộ quản lý để cán bộ, giáo viên cơ sở phấn đấu thực
hiện.
- Chính quyền địa phương các cấp và Ban đại diện cha mẹ học sinh cần quan
tâm hơn nữa đến giáo dục, tuyên truyền rộng rãi đến nhân dân để họ nhận thức
đúng vị trí, vai trò của giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời lãnh đạo chỉ
21
đạo làm tốt hơn nữa công tác xã hội hóa giáo dục ở địa phương mình để giúp các
nhà trường hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
- Các tổ chức đoàn thể xã hội của xã , mỗi phụ huynh học sinh trong nhà
trường cần quan tâm chung tay, chung sức cùng nhà trường phối kết hợp nhịp
nhàng trong việc động viên, giáo dục con em mình ra sức học tập sáng tạo vì tương
lai của chính bản thân và của cả cộng đồng.
, ngày 08 tháng 3 năm 2013
Người viết:
MỤC LỤC
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 20
22
MỤC LỤC
TT NỘI DUNG TRANG
I MỞ ĐẦU 1
1 Lý do chọn đề tài 1
2 Mục tiêu và nhiệm vụ 2
3 Phạm vi nghiên cứu 2
4 Phương pháp nghiên cứu 2
5 Bố cục đề tài 2
II PHẦN NỘI DUNG 3
A CƠ SỞ LÝ LUẬN 3
1 Một số vấn đề chung 3
2 Tầm quan trọng của việc quản lý nhà trường như thế nào để
có đội ngủ giáo viên giỏi
4
3 Tình hình nhà trường và trình độ đội ngủ giáo viên ở trường 5
23
TH
B MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
GIẢNG DẠY ĐỘI NGỦ GIÁO VIÊN TRƯỜNG TH
9
1 Vai trò của ban giám hiệu trong công tác bồi dưỡng giáo viên 9
2 Ban giám hiệu cần lập kế hoạch bồi dưỡng đội ngủ giáo viên 10
3 Tăng cương công tác hành chính, tài chính, cơ sở vật chất,
trang thiết bị dạy học của nhà trường theo yêu cầu chuẩn
quốc gia mức độ I
10
4 Ban giám hiệu chỉ đạo nề nếp sinh hoạt tổ chuyên môn để
nâng cao
11
5 Bản thân cần có kế hoạch thăm lớp, dự giờ và tổ chức tốt hội
thi giáo viên dạy giỏi cấp cơ sở hàng năm
11
6 Ban giám hiệu bồi dưỡng mũi nhọn giáo viên dạy giỏi các
cấp
12
7 Ban giám hiệu cần tích cực tổ chức các chuyên đề 13
8 Đẩy mạnh công tác viết sáng kiến kinh nghiệm và lầm đồ
dùng dạy học
C KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC CỦA TRƯỜNG NĂM HỌC 2011-
2012
14
III KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1 Kết luận 16
2 Kiến nghị 16
24