BÀI SOẠN
MÔN HỌC : TRIẾT HỌC DUY VẬT LỊCH SỬ
Đề bài 3 : Học thuyết Mác xít về Nhà nước và việc đổi mới xây dựng Nhà nước ta
hiện nay.
BÀI LÀM
Theo quan điểm triết học, Nhà nước là tổ chức chính trị - xã hội, là trung tâm của
hệ thống chính trị. Vì vậy, hoạt động của Nhà nước là hoạt động chính trị, các yếu tố
xung quanh của hoạt động chính trị là yếu tố hoạt động của Nhà nước.
A. Nguồn gốc, đặc trưng, chức năng và bản chất của Nhà nước
( Nguồn gốc ra đời của Nhà nước :
- Nhà nước là một phạm trù lịch sử, sản phẩm của lịch sử. Trong lịch sử xã hội
loài người không phải lúc nào cũng có Nhà nước, mà Nhà nước chỉ ra đời vận động,
phát triển và mất đi trong những điều kiện lịch sử nhất định. Sự xuất hiện Nhà nước
không đồng nghĩa xã hội loài người xuất hiện, mà Nhà nước xuất hiện kể từ khi xã hội
có sự phân chia giai cấp.
- Nhà nước ra đời gắn liền với sự xuất hiện của giai cấp, sự xuất hiện của Nhà
nước là sản phẩm của những mâu thuẫn không thể điều hoà được. Có nghĩa là, xuất
phát từ nguyên nhân kinh tế dẫn đến tình trạng trong xã hội có một bộ phận chiếm
hữu tư liệu sản xuất làm nảy sinh những lợi ích giai cấp đối lập nhau; do mâu thuẫn
về mặt lợi ích, các giai cấp đã đấu tranh với nhau. Để cho các giai cấp không tiêu diệt
lẫn nhau trong cuộc đấu tranh giai cấp (ĐTGC), cũng như để (giữ cho xã hội trong
một vòng trật tự nhất định( thì Nhà nước xuất hiện.
Khi đề cập về Nhà nước, Lênin nhấn mạnh : (Nhà nước là sản phẩm và biểu
hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc
nào và chừng nào mà về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà được thì Nhà nước xuất hiện. Và ngược lại : sự tồn tại của Nhà nước chứng tỏ
rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được(.
Theo quy luật vận động, phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử
thì vào cuối thời kì cộng sản nguyên thủy, khi lực lượng sản xuất (LLSX) phát triển đã
dẫn đến chế độ tư hữu và sự phân hoá xã hội thành những giai cấp có lợi ích đối lập
nhau. Các cơ quan quản lí xã hội ra đời trong xã hội không có mâu thuẫn giai cấp
trước đó đã trở nên bất lực. Bộ máy quản lí mới phù hợp với xã hội có đối kháng giai
cấp và phải là một thứ quyền lực công cộng. Bộ máy đó chính là Nhà nước. Vì vậy,
Nhà nước xuất hiện và tồn tại không phải do ý muốn chủ quan của một cá nhân hay
một giai cấp nào. Trên cơ sở tất yếu nói trên, bộ máy Nhà nước phải là đại diện cho
một giai cấp có thế lực nhất, giai cấp thống trị về mặt kinh tế. Nhà nước đầu tiên trong
lịch sử là Nhà nước chiếm hữu nô lệ, tiếp đó là Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư
bản là đều xuất hiện từ mâu thuẫn đối kháng giai cấp vốn có của xã hội đó. Như vậy,
Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều
hoà được, và ở đâu có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được thì ở đó Nhà
nước xuất hiện.
( Đặc trưng của Nhà nước : Nhà nước có ba đặc trưng cơ bản sau :
Trang : 1
- Nhà nước gắn liền với sự phân chia dân cư theo theo một phạm vi lãnh thổ
nhất định. Đặc trưng này phân biệt sự khác nhau của tổ chức Nhà nước với tổ chức
thị tộc, bộ lạc trước kia. Các tổ chức thị tộc, bộ lạc trước kia được hình thành trên cơ
sở những quan hệ huyết thống; còn tổ chức Nhà nước gắn liền với việc phân chia
dân cư theo phạm vi lãnh thổ mà con người cư trú. Nói các khác, quyền lực Nhà
nước có hiệu lực đối với tất cả các thành viên ở trong một biên giới quốc gia, bất kể
thuộc quan hệ huyết thống nào.
- Nhà nước là sự thiết lập quyền công cộng phổ biến, chủ yếu, là (những đội vũ
trang đặc biệt( như quân đội nhà nghề, cảnh sát vũ trang, nhà tù và những phương
tiện khác : pháp luật, thuế khoá… để buộc những người bị trị phải phục tùng. Đây là
đặc trưng quan trọng trước tiên.
- Nhà nước có pháp quyền, chủ quyền riêng
Toàn bộ cơ quan cưỡng bức nói trên đều từ xã hội mà ra, nhưng ngày càng
thoát li và đối lập với xã hội. Khác biệt với quyền uy của những người cầm đầu các thị
tộc, bộ lạc trước kia. Quyền lực Nhà nước chủ yếu dựa vào sức mạnh cưỡng bức
của pháp luật. Bộ máy cai trị gồm lực lượng vũ trang chuyên nghiệp và bộ máy hành
chính khổng lồ sống bám vào những thần dân mà nó thống trị thông qua việc thực
hiện chính sách thuế khoá, quốc trái và các hình thức bóc lột khác. Vì vậy, Nhà nước
của giai cấp không những là công cụ trấn áp giai cấp mà còn là công cụ thực hiện sự
bóc lột các giai cấp bị áp bức.
( Bản chất của Nhà nước :
Nhà nước là cơ quan thống trị, là tổ chức quyền lực chính trị của một giai cấp.
Xét đến cùng, Nhà nước bao giờ cũng là của một giai cấp, giai cấp đó thống trị về
mặt kinh tế trong xã hội; vì thế, cho nên nó thống trị cả về mặt chính trị. Bản chất của
Nhà nước là nền chuyên chính của một giai cấp này đối với giai cấp khác và đối với
toàn xã hội. Nhờ có bộ máy Nhà nước, giai cấp thống trị chiếm số ít trong dân cư duy
trì được sự áp bức, bóc lột của mình đối với giai cấp bị trị bao giờ cũng chiếm số
đông. Bản chất đó được thể hiện ở chức năng và đặc trưng của Nhà nước.
Với tính cách là nền chuyên chính của một giai cấp đối với giai cấp khác, Nhà
nước của giai cấp bóc lột không thể là kẻ (công bằng( bảo vệ lợi lợi ích cho các giai
cấp khác trong xã hội. Theo bản chất đó, (Nhà nước là một bộ phận quan trọng nhất
của kiến trúc thượng tầng của xã hội có giai cấp. Do đó, Nhà nước nói chung chỉ là
sự phản ánh, dưới hình thức tập trung của những nhu cầu kinh tế của giai cấp thống
trị trong sản xuất(. Lênin viết : (Theo Mác - Nhà nước là một cơ quan thống trị giai
cấp, là một cơ quan áp bức của giai cấp này đối với giai cấp khác, đó là sự kiến lập
một (trật tự(, trật tự này hợp pháp hoá và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp(.
Vì vậy, dù bất kì ở chế độ nào, cộng hoà hay quân chủ cũng không thể có Nhà
nước chung chung, phúc lợi chung chung. Bản chất của Nhà nước không bao giờ
biểu hiện một cách thuần túy trực tiếp ra bên ngoài, mà nó thông qua nhiều hình thức
đa dạng, phong phú. Cho nên, khi xem xét một Nhà nước nào đó, để đánh giá đúng
bản chất của nó ta phải tìm hiểu xem Nhà nước đó có thể có nhiều giai cấp, nhiều
đảng phái, nhiều tổ chức, thậm chí có nhiều cá nhân tham gia và chi phối sức mạnh
của Nhà nước. Tránh tình trạng xem xét chung chung để đánh giá bản chất của Nhà
nước đó.
( Chức năng của Nhà nước : Nhà nước có hai chức năng cơ bản nhất là :
- Chức năng đối nội : chức năng này có hai mặt. Mặt thứ nhất : là duy trì sự
thống trị của một giai cấp đối với toàn xã hội. Đồng thời, sử dụng các phương tiện
khác như : bộ máy thông tin, tuyên truyền văn hoá, giáo dục… để xác lập và củng cố
hệ tư tưởng của giai cấp, biến nó thành hệ tư tưởng thống trị trong xã hội (chức năng
Trang : 2
giai cấp). Mặt thứ hai : tổ chức quản lí và giải quyết các nhu cầu của xã hội (chức
năng quản lí công cộng). Hai mặt này có quan hệ biện chứng. Trong đó, mặt thống trị
giai cấp là mục đích, còn mặt xã hội là cơ sở, điều kiện để thực hiện chức năng giai
cấp.
- Chức năng đối ngoại : là nhằm bảo vệ lãnh thổ quốc gia, thực hiện quan hệ về
mặt Nhà nước với các nước khác, mở rộng các quan hệ về : kinh tế, chính trị, văn
hoá, giáo dục, y tế, quốc phòng…nhằm mở rộng và tăng cường sức mạnh của Nhà
nước đối với các nước khác, vì lợi ích của giai cấp thống trị và lợi ích quốc gia.
Chức năng đối nội và đối ngoại của Nhà nước là một thể thống nhất. Chức năng
đối nội là chức năng chủ yếu, quyết định. Chức năng đối ngoại bắt nguồn một cách
hợp quy luật từ chức năng đối nội và là sự kế tục chức năng đối nội, nó ảnh hưởng
trở lại chức năng đối nội. Mối liên hệ đó càng trở nên mật thiết trong xã hội hiện đại.
B. Sự ra đời của Nhà nước vô sản - Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác-Lênin phân chia Nhà nước tương với ba hình thái kinh tế - xã hội
có đối kháng giai cấp là : Nhà nước chủ nô, Nhà nước phong kiến, Nhà nước tư sản.
Nhà nước vô sản là một kiểu Nhà nước đặc biệt, Nhà nước không nguyên nghĩa tồn
tại trong thời kì quá độ từ CNTB lên chủ nghĩa cộng sản.
( Tính tất yếu của Nhà nước XHCN :
Trong cuộc ĐTGC của giai cấp vô sản (GCVS) và xét địa vị kinh tế của giai cấp
đó trong nền sản xuất hiện đại, Mác kết luận : để đi tới một xã hội không còn giai cấp,
GCVS phải trở thành giai cấp thống trị và nắm lấy quyền lực Nhà nước để thực hiện
sự thống trị của mình. Nhưng GCVS không thể chỉ chiếm lấy và sử dụng bộ máy Nhà
nước sẵn có, trái lại phải đập tan bộ máy Nhà nước cũ, thay thế Nhà nước của giai
cấp bóc lột bằng một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của GCVS. Tính tất yếu của sự
ra đời và tồn tại Nhà nước XHCN thời kì quá độ từ xã hội CNTB lên CSCN là khách
quan của lịch sử, bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng XHCN - một cuộc cách
mạng sâu sắc và triệt để nhất trong lịch sử.
Thời kì quá độ là thời kì còn tồn tại giai cấp, còn ĐTGC. Là thời kì cải biến cách
mạng liên tục và phức tạp để xoá bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Có nghĩa là xây
dựng nền kinh tế XHCN - tiền đề vật chất xã hội có tính tất yếu đảm bảo cho nhân
dân lao động (NDLĐ) nắm được quyền lực xã hội, làm cho người lao động trở thành
người chủ xã hội. Mặt khác, không ngừng phát triển và hoàn thiện nền dân chủ
XHCN, phát huy tính tích cực sáng tạo của NDLĐ, xây dựng và củng cố quốc phòng
để chống lại các thế lực phản động bên trong và bên ngoài.
Tư tưởng của Mác cho thấy là GCVS cũng như bất cứ giai cấp cách mạng nào
khác đều cần phải có Nhà nước, công cụ mạnh mẽ để hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của giai cấp mình. Giai cấp vô sản sử dụng bộ máy Nhà nước để trấn áp giai cấp
thống trị phản động tuy đã được đánh đổ nhưng chúng vẫn hòng âm mưu khôi phục
lại cái địa vị kinh tế, chính trị đã mất. Đồng thời, mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp cận và
vận dụng những giá trị của nền văn minh nhân loại phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
CNXH và đời sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cho nên, sự ra đời và tồn tại của
Nhà nước XHCN là một tất yếu khách quan.
Mác viết : (giữa xã hội TBCN và xã hội CSCN là một thời kì cải biến cách mạng
từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kì ấy, là một thời kì quá độ chính trị,
và Nhà nước của thời kì ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách
mạng của GCVS(.
( Nhà nước XHCN thể hiện ở các đặc điểm và chức năng sau :
- Là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước XHCN là Nhà nước chuyên
chính vô sản, nhưng bản chất của chuyên chính vô sản lại là thực hiện quyền làm chủ
Trang : 3
của NDLĐ. Nhà nước XHCN có sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân.
Tính giai cấp thể hiện ở sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin
làm nền tảng. Tính nhân dân thể hiện toàn bộ quyền lực chính trị của Nhà nước là
quyền lực của NDLĐ. Nó dân chủ với đa số nhân dân và chuyên chính với thiểu số là
kẻ thù của nhân dân.
- Nhà nước XHCN vừa là một bộ máy chính trị - hành chính, một cơ quan
cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lí kinh tế - văn hoá xã hội của NDLĐ. Là sự kết
hợp giữa hai chức năng trấn áp và tổ chức xây dựng xã hội mới. Trong đó, tổ chức
xây dựng là chức năng chủ yếu; vì có tổ chức xây dựng thành công xã hội mới mới
bảo đảm thắng lợi hoàn toàn và triệt để của CNXH. Ngoài ra, Nhà nước vô sản cũng
mang chức năng trấn áp như mọi Nhà nước khác. Trấn áp giai cấp bóc lột, các lực
lượng thù địch, bọn đầu cơ, ăn bám, bọn lưu manh chuyên nghiệp và các tệ nạn tiêu
cực xã hội khác là một sự cần thiết.
- Nhà nước XHCN là sự thống nhất giữa tính chất dân tộc và tính chất quốc tế;
là Nhà nước thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình phát triển của xã hội.
Sự lãnh đạo của Đảng quyết định bản chất GCCN của bộ máy Nhà nước, là điều kiện
quyết định và thực hiện quyền làm chủ của NDLĐ, đảm bảo là Nhà nước của dân, do
dân và vì dân.
Xây dựng xã hội mới là nhiệm vụ hoàn toàn mới mẽ và khó khăn phức tạp. Do
đó, đòi hỏi tính năng động sáng tạo, mọi hiện tượng trì trệ, bảo thủ và đặc biệt là chủ
nghĩa quan liêu là hiện tượng xa lạ với bản chất Nhà nước XHCN. Song, cũng phải
nhận thấy rằng, đối với GCVS sự tồn tại của Nhà nước XHCN cũng chỉ là quá độ đi
đến thủ tiêu mọi Nhà nước, mọi giai cấp. Vì vậy, Nhà nước vô sản là Nhà nước đặc
biệt. (Nhà nước không nguyên nghĩa, Nhà nước tự tiêu vong(. Sự tiêu vong không phải là quá trình giảm vai trò
và hiệu lực của Nhà nước, mà là quá trình tăng cường và hoàn thiện không ngừng
Nhà nước, tăng cường và hoàn thiện chế độ dân chủ, là điều kiện để Nhà nước rút
khỏi vũ đài lịch sử. Đó là biện chứng của quá trình phát triển hoàn thiện Nhà nước
thời kì quá độ từ CNTB lên CNCS.
C. Những khuyết điểm, yếu kém trước đổi mới trong việc tổ chức và
phương thức hoạt động của hệ thống chính trị nói chung của Nhà nước nói
riêng và Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị của nước ta hiện nay
( Khuyết điểm, yếu kém trước đổi mới :
Hệ thống chính trị của nước ta bao gồm : Đảng cộng sản, Nhà nước, Công
đoàn, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức
chính trị - xã hội khác hoạt động trên cơ sở lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản để thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, thời gian qua, bên cạnh những việc đã
làm được trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cũng còn những thiếu sót, những nhược
điểm của một kiểu Nhà nước mới vừa chấm dứt chiến tranh. Vì vậy, trong tổ chức -
xây dựng - quản lí còn nhiều điều bất lợi, lại bị ảnh hưởng nặng nề nhiều năm đất
nước đi theo cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp. Trong đổi mới kinh tế với cơ
chế thị trường còn sơ khai, mang yếu tố tự phát; hiệu lực quản lí Nhà nước còn thấp,
chưa phát huy đầy đủ sức mạnh của cơ chế thị trường và hạn chế những mặt tiêu
cực của nó. Ngoài việc bộ máy Nhà nước kém hiệu quả, tệ độc đoán, chuyên quyền,
ức hiếp, trù dập cá nhân, quan liêu cửa quyền, xem thường pháp luật kỉ cương vẫn
còn xảy ra ở nhiều nơi. Những yếu kém trên, Đảng ta đã chỉ rõ tổ chức Nhà nước của
chúng ta phải tiếp tục nghiên cứu, đổi mới cho phù hợp lí luận, thực tiễn và bước tiến
của thời đại.
Trang : 4
Do chưa nhận thức đầy đủ thời kì quá độ lên CNXH là một quá trình lịch sử
tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường, và do tư tưởng chủ quan nóng vội,
muốn bỏ qua những bước đi cần thiết nên từ đại hội IV của Đảng chưa xác định
những mục tiêu của chặng đường đầu tiên như : chủ trương đẩy mạnh công nghiệp
hoá trong khi ta chưa đủ các tiền đề cần thiết, chậm đổi mới cơ chế quản lí kinh tế đã
lỗi thời. Đại hội V cùng với xác định hai nhiệm vụ chiến lược, có cụ thể hoá một bước
đường lối kinh tế và những mục tiêu tổng quát, các chính sách lớn về kinh tế - xã hội
nhưng về chỉ đạo và tổ chức thực hiện còn rời rạc, thiếu kiên quyết khắc phục, tư
tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ trương về cơ cấu và cơ
chế quản lí kinh tế, cải tạo XHCN. Văn kiện đại hội VI (trang 27) nêu rõ : (Những sai
lầm và khuyết điểm trong lãnh đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm
trong hoạt động tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân
của mọi nguyên nhân(.
Sự yếu kém của Đảng thể hiện là hoạt động tư tưởng và tổ chức của Đảng đã
không theo kịp yêu cầu của cách mạng. Về lĩnh vực tư tưởng là sự yếu kém, lạc hậu
về nhận thức lí luận và vận dụng các quy luật khách quan đang hoạt động trong thời
kì quá độ, do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương,
chính sách, chưa chú ý đầy đủ tổng kết thực tiễn để bổ sung về mặt lí luận.
Trong công tác tổ chức, khuyết điểm lớn nhất là sự trì trệ, chậm đổi mới công tác
cán bộ. Bố trí cán bộ theo quan niệm cũ kĩ, nặng tính hình thức, thiên về nhiệt tình
cách mạng coi nhẹ tri thức khoa học. Trong bộ máy của Đảng và Nhà nước còn thể
hiện thiếu dân chủ như chưa chú ý lắng nghe ý kiến của quần chúng, nhân dân;
phong cách và lề lối làm việc mang nặng tính quan liêu, lời nói không đi đôi với việc
làm. Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu nhất quán, nhiều Đảng bộ
và cấp uỷ vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, nhiều nơi xảy ra hiện tượng Đảng
bao biện làm thay công việc của Nhà nước.
Bộ máy Nhà nước, Đảng và các tổ chức đoàn thể phình ra quá lớn, chồng chéo
và kém hiệu quả. Công tác giáo dục quản lí cán bộ, đảng viên thiếu chặt chẽ; công
tác đào tạo bồi dưỡng trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên không
đáp ứng kịp yêu cầu nhiệm vụ mới, thậm chí có một số cán bộ, đảng viên thoái hoá,
biến chất. Sự yếu kém về hệ thống pháp luật, kỉ cương chưa nghiêm, an ninh trật tự
xã hội còn phức tạp; tệ nạn tham nhũng, tiêu cực và bất công xã hội có chiều hướng
gia tăng Đó là những nhân tố ít nhiều gây mất ổn định về kinh tế - xã hội nước ta
trong thời gian vừa qua.
Nguyên nhân của những yếu kém là hậu quả của nhiều năm trước đây để lại, là
khó khăn của quá trình đi lên của nước ta. Song, cũng cần nhấn mạnh rằng những
khuyết điểm chủ quan trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lí của Nhà nước
làm cho bộ máy Đảng và Nhà nước không được củng cố mà lại yếu đi trong sự phát
triển đi lên của xã hội.
( Vấn đề đổi mới hệ thống chính trị của nước ta hiện nay
Nghiên cứu lí luận về Nhà nước nói chung, Nhà nước vô sản nói riêng, bổ sung,
phát triển và vận dụng một cách sáng tạo lí luận đó có ý nghĩa to lớn trong việc tăng
cường Nhà nước XHCN trong đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà
nước ta hiện nay. Đổi mới hệ thống chính trị là một đòi hỏi khách quan của quá trình
phát triển xã hội XHCN. Nó xuất phát từ cơ sở và các yêu cầu sau :
- Đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới kinh tế, đổi mới cơ cấu kinh tế nhất thiết đòi
hỏi phải đổi mới tư duy chính trị, đổi mới hệ thống chính trị. Đảng ta xác định đổi mới
toàn diện, thực hiện từng bước và ngày càng đi vào chiều sâu. Trong đổi mới, Đảng
ta có rút kinh nghiệm nguyên nhân sụp đổ của các nước XHCN Đông Âu và Liên Xô
trong việc xây dựng Cương lĩnh của đất nước trong thời kì quá độ lên CNXH.
Trang : 5
- Đổi mới hệ thống chính trị là điều kiện và tiền đề cho đổi mới kinh tế nói riêng,
sự nghiệp đổi mới nói chung. Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà
nước không có nghĩa là thay đổi bản chất quyền lực của Nhà nước. Ngược lại, làm
cho bản chất của Nhà nước được thể hiện và thực hiện đầy đủ hơn, rõ rệt hơn và có
hiệu quả hơn, trên cơ sở tạo ra cơ chế dân chủ, bảo đảm quyền lực của nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Kiên quyết chống quan liêu và những hành vi xâm phạm quyền làm chủ của
nhân dân, phê phán và khắc phục những khuynh hướng lệch lạc vi phạm những
nguyên tắc của nền dân chủ XHCN. Thực tế cho thấy, hệ thống chính trị của chúng ta
còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Đó là tình trạng quan liêu,
cồng kềnh, kém hiệu lực của Nhà nước, của hệ thống chính trị. Do đó, đòi hỏi phải
đổi mới để thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Muốn vậy, nguyên tắc
tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà nước phải bảo đảm cho NDLĐ thật sự tham gia
quản lí Nhà nước, tham gia xây dựng pháp luật, tham gia những công việc trọng đại
của Nhà nước : tham gia kiểm tra, giám sát, phê bình các cán bộ và cơ quan Nhà
nước
Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của Nhà nước phải được thực hiện
gắn với đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị. Phân định rõ chức năng và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, và các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị là nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lí Nhà nước, thực
hiện quyền lực của nhân dân. Cương lĩnh đại hội VII chỉ rõ : (Đảng lãnh đạo hệ thống
chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp
luật(.
( Một số quan điểm của Đảng ta hiện nay :
- Tăng cường và đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở đổi mới phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị. Nhiệm vụ xuyên suốt là lấy Đảng
làm hạt nhân, nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, đáp ứng về trình độ, năng lực,
phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn cho cán bộ đảng viên để tăng cường sức
mạnh của Đảng, nếu không nâng cao trình độ, trí tuệ cho Đảng thì cũng đồng nghĩa là
Đảng tự đào thải mình.
- Phải xây dựng cho được Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam. Nhà
nước được xây dựng trên cơ sở thống nhất 3 quyền : lập pháp, hành pháp, tư pháp;
phân công rành mạch 3 quyền đó dưới sự lãnh đạo của Đảng CSVN. Đây chính là
thực chất đổi mới hệ thống chính trị của Nhà nước ta hiện nay. Thực hiện nguyên tắc
Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật, tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, trong đó Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất; phân biệt rõ chức
năng quản lí của Nhà nước và các chức năng của các đơn vị sản xuất, các tập thể
lao động và các tổ chức xã hội khác.
- Đổi mới phương pháp hoạt động của các tổ chức quần chúng và xã hội trong
hệ thống chính trị. Phải quán triệt quan điểm của Đảng là hạt nhân của các tổ chức
đó; có nghĩa là Đảng phải lãnh đạo, kiểm tra, định hướng trong công tác chỉ đạo
nhằm củng cố chính quyền trong sạch vững mạnh. Cương lĩnh đại hội VII nêu rõ : (Để
đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, ra sức nâng cao trình độ trí tuệ,
năng lực lãnh đạo… Đảng quan tâm bồi dưỡng, đào tạo lớp người kế tục sự nghiệp
cách mạng của Đảng và của nhân dân( để Đảng đủ mạnh, đủ sức đảm đương công
việc.
- Về cải cách bộ máy Nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước : là làm
cho Nhà nước thực sự là sự nghiệp của nhân dân, là sản phẩm của dân chủ và tự do
Trang : 6
của con người. Cương lĩnh đại hội VII nêu rõ : (xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước
của dân của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh GCCN với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỉ cương xã hội, chuyên chính với
mọi hành động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và của nhân dân(. Bản chất giai cấp của
Nhà nước ta vừa mang tính nhân dân, vừa mang tính quần chúng sâu sắc, do Đảng
ta tiếp thu lí luận, nghiên cứu thực tiễn và tinh hoa của mọi thời đại để vận dụng xây
dựng một Nhà nước đủ sức thực hiện nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ tổ
quốc. Đó là tính nguyên tắc, nếu không ta sẽ dễ bị sai lầm như các nước Đông Âu và
Liên Xô trong thời gian vừa qua.
- Cải tiến tổ chức và hoạt động Quốc hội để làm đúng thẩm quyền là cơ quan
quyền lực cao nhất; sửa đổi cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động của Chính
phủ để xứng đáng là cơ quan hành pháp cao nhất quản lí, điều hành mọi công việc
của đất nước. Song song, cần sắp xếp lại tổ chức, tinh giảm biên chế bộ máy hành
chính gọn nhẹ và hoạt động có hiệu quả, thận trọng trong công tác tổ chức, chính
sách cán bộ.
- Đảng đối mới phương thức lãnh đạo, làm cho Nhà nước chủ động tránh
chồng chéo, bao biện làm thay Nhà nước. Đảng lãnh đạo bằng trí tuệ, đường lối, tổ
chức phân công cán bộ với sự tiên phong gương mẫu của đảng viên. Đồng thời, mở
rộng dân chủ, phát huy tiềm năng của các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể
nhân dân là nhằm hướng các tổ chức này góp phần tham gia giải quyết việc làm, đời
sống cho toàn xã hội; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp đổi mới,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Tăng cường củng cố khối đoàn kết toàn dân, thể chế hoá quyền hạn và trách
nhiệm của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong việc tham gia quản lí xã hội, quản
lí kinh tế, quản lí Nhà nước. Tăng cường quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và
nhân dân, góp phần thành công vào sự nghiệp đổi mới của đất nước.
- Làm cho toàn Đảng, toàn dân, nhất là những người lãnh đạo quản lí hiểu
đúng nội dung và thực chất của nền dân chủ XHCN trên các lĩnh vực : kinh tế, chính
trị, xã hội; xây dựng các quy tắc sinh hoạt dân chủ nhằm mở rộng quyền làm chủ của
công dân, phát huy tính chủ động sáng tạo của người lao động, giải quyết đúng đắn
các mối quan hệ giữa dân chủ và chuyên chính, dân chủ và kỉ luật, dân chủ và tập
trung…
Hiện nay, xây dựng nền dân chủ XHCN là nội dung cơ bản về đổi mới hệ thống
chính trị của nước ta. Phải có cơ chế và cách làm cụ thể, đồng thời thực hiện khẩu
hiệu : (dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra( đối với các chính sách chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước.
Thực chất đổi mới, xây dựng Nhà nước ta là nhằm phát huy vai trò làm chủ của quần
chúng, tức là xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân; Nhà nước của GCNC và
NDLĐ.
Ngày nay, tệ nan tham nhũng đang là một quốc nạn liên quan đến sự sống còn
của hệ thống chính trị. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước có quan tâm nhưng hiệu
quả khắc phục còn thấp làm xói mòn lòng tin của quần chúng, nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước. Để khắc phục tình trạng trên, văn kiện đại hội VIII của Đảng có đoạn viết :
(Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết, thường xuyên và có hiệu quả chống nạn tham nhũng trong bộ máy Nhà nước,
trong các ngành, các cấp từ trung ương đến cơ sở(.
Đồng thời, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao
của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước. Cải cách thể chế hành chính,
chấn chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính các cấp; cải cách tổ chức và hoạt động
tư pháp và kiện toàn các cơ quan pháp luật, tạo điều kiện tốt để phát huy thời cơ,
khắc phục và đẩy lùi các nguy cơ tụt hậu : tụt hậu về kinh tế, chệch hướng XHCN,
Trang : 7
tham nhũng, diễn biến hoà bình… để thực hiện có hiệu quả vai trò lãnh đạo của
Đảng, chức năng quản lí của Nhà nước.
( Tóm lại : Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm xây dựng và
phát huy nền dân chủ XHCN, nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, tăng cường
hiệu lực quản lí của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của
nhân dân. Mục tiêu cơ bản nhất của đổi mới hệ thống chính trị và tăng cường dân
chủ là tạo ra một động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kì
quá độ lên CNXH của nước ta hiện nay.
Trang : 8