Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

SKKN một số biện pháp giáo dục đạo đức cho học sinh cá biệt ở trường THCS BA ĐÌNH bỉm sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.54 KB, 36 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỈM SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO HỌC SINH
Ở TRƯỜNG THCS
1
Người thực hiện: Trần Thị Nga
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường THCS Ba Đình
SKKN thuộc môn: Chủ nhiệm
THANH HOÁ, NĂM 2013
2
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, mục đích của giáo dục là đào tạo những con
người phát triển toàn diện mà cụ thể là đức và tài. Đến nay chúng ta
đã có rất nhiều những thành công trong công tác giáo dục. Góp phần
vào sự thành công ấy có giáo dục của bậc THCS nói riêng và ở các
cấp học nói chung. Nói về giáo dục ở bậc THCS, bên cạnh những
đóng góp không nhỏ cho nền giáo dục nước nhà và rất nhiều học sinh
của chúng ta có đạo đức tốt, có năng lực và kết quả học tập cao nhưng
bên cạnh đó trong nhà trường vẫn còn tồn tại những học sinh có kết
quả giáo dục chưa cao, đặc biệt là về giáo dục đạo đức. Đó là những
học sinh có thái độ – biểu hiện đạo đức yếu kém mà ta hay gọi là học
sinh cá biệt.
Đối với học sinh cá biệt chúng ta bỏ ngoài ư? Mặc kệ ư? Không!
Không thể được. Nếu chúng ta có biện pháp giáo dục phù hợp với đối
tượng này thì tôi tin rằng công sức mà chúng ta bỏ ra là không hề lảng
phí. Như chúng ta đã biết, những em học sinh cá biệt là những em
thường hay có cá tính, hoặc có lí do đặc biệt. Nếu ta phát huy được cá
3


tính tốt, hiểu rõ nguyên nhân và có biện pháp khắc phục hợp lí thì tất
sẽ thành công, còn nếu chưa được những gì tốt đẹp nhất thì việc làm
đó cũng giúp cho học sinh cá biệt chậm lại quá trình vi phạm để rồi
dần thức tỉnh ra.
Chính vì thế mà đã có nhiều nhà giáo dục, nhà khoa học, nhà sư
phạm nghiên cứu, chỉ ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt.
Kết quả ấy cũng đã được áp dụng rộng rãi và phong phú trên các
trường học ở nước ta.
1. Tình hình nghiên cứu.
Để đưa ra các phương pháp giáo dục học sinh cá biệt và vận dụng
các phương pháp này, chúng ta không thể không nhắc đến tên nhà
giáo học người Liên Xô (cũ) Macarenkô, nhà giáo dục người Tiệp
Khắc(cũ)- Ông tổ của nền sư phạm cận đại Cômenxki đã nghiên cứu
và áp dụng thành công vào việc giáo dục học sinh cá biệt. Đồng thời
làm phong phú và hình thành các lí luận về dạy học áp dụng rộng rãi
trên thế giới. ở Việt Nam chúng ta cũng đã có rất nhiều nhà nghiên
cứu về lĩnh vực này và đã đưa ra nhiều phương pháp giáo dục học sinh
cá biệt. Đó là những nghiên cứu của các giáo sư : Phạm Minh Hạc, Hồ
Ngọc Đại, Phạm Tất Dong, vv…Đặc biệt Bác Hồ đã từng nói:
4
“Hiền dữ đâu phải là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Câu nói đó của Bác đã thể hiện vai trò quan trọng của giáo dục
đối với sự phát triển nhân cách nói chung và trong việc giáo dục học
sinh cá biệt nói riêng.
Hiện nay cùng với sự phát triễn của xã hội, bên cạnh những
mặt tốt của cơ
chế thị trường, những vấn đề tiêu cực, mặt xấu của xã hội cũng đang
là mối lo ngại cho toàn xã hội, bởi nó có thể len lỏi vào từng cá nhân.
Với học sinh, đặc biệt là học sinh THCS, lứa tuổi được coi là phát

triển nhanh, mạnh về mặt tâm sinh lí, cái tốt, cái xấu các em chưa dễ
dàng phân biệt. Vì vậy sự xuống cấp về mặt đạo đức của một bộ phận
học sinh đang làm nhức nhối xã hội và nhà trường, hiện tượng đó có
nơi có lúc đang ngày một gia tăng, khiến cho các nhà giáo dục và các
cấp quản lý, phụ huynh và xã hội đang rất quan tâm, đặc biệt là
những người thầy giáo, cô giáo đang trực tiếp giảng dạy các em. Học
sinh trường THCS Ba Đỡnh cũng không tránh khỏi tình trạng đó.
3. Mục đích của đề tài.
5
- Khi nghiên đề tài: “Một số biện pháp giáo dục học sinh cá biệt ở
trường THCS Ba Đình” tôi nhằm tìm ra các biện pháp giáo dục học
sinh cá biệt và vận dụng các biện pháp đó vào việc giáo dục học sinh
cá biệt ở trường THCS Ba Đình.
II. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
- Sau khi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục học sinh
cá biệt ở trường THCS Ba Đình” tôi muốn được góp một phần kinh
nghiệm của mình vào việc giáo dục học sinh cá biệt ở trường THCS
Ba Đình nói riêng và ở các trường THCS nói chung. Đồng thời góp
phần vào việc kết hợp giữa “ Gia đình – nhà trường và xã hội” trong
việc giáo dục học sinh nhằm hướng con em mình trở thành con ngoan
– trò giỏi, người có ích cho xã hội.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1. Đối tượng: Khi nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục
học sinh cá biệt ở trường THCS ”thì đối tượng nghiên cứu là học
sinh lớp 9c trường THCS Ba Đình có những biểu hiện vi phạm đạo
đức và vận dụng các biện pháp giáo dục những đối tượng học sinh
này.
6
2.Phạm vi nghiên cứu : học sinh lớp 9c trường THCS Ba Đình, Bỉm
Sơn, Thanh Hóa.

IV. Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện được đề tài này, tôi đã quan sát, tìm hiểu thực tế,
phân tích và tổng hợp từ đó rút ra kết luận và áp dụng các biện pháp
thích hợp cho từng nội dung.
B. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN
I. Cơ sở khoa học và thực trạng học sinh cá biệt
1. Cơ sở lý luận: Thực trạng học sinh cá biệt ở trường THCS
hiện nay
Lâu nay, khi đề cập đến nguyên nhân và trách nhiệm đối với học
sinh cá biệt, mọi người đều cho rằng cả ba môi trường: gia đình, nhà
trường và xã hội đều là nguyên nhân của tình trạng học sinh cá biệt và
7
đều phải chịu trách nhiệm. Nhưng khi đặt vấn đề đâu là nguyên nhân
trực tiếp và chủ yếu đối với học sinh cá biệt thì lại có nhiều ý kiến
khác nhau.
Một số bậc cha mẹ than phiền về sự giáo dục của nhà trường,
cho rằng nơi đây không chú ý nhiều tới giáo dục đạo lí làm người, bảo
vệ thuần phong mĩ tục…
Nhà trường có khi lại đổ lỗi cho phụ huynh học sinh thiếu trách
nhiệm với con cái vì theo nhà trường, ngoài nhà trường, phần giáo dục
thuộc về gia đình đặc biệt là những người làm cha làm mẹ.
Một số khác lại đổ lỗi cho môi trường xã hội có nhiều phim ảnh,
sách báo đồi truỵ, khiêu dâm, người lớn sống thiếu gương mẫu…
Và cũng có một nguyên nhân nữa mà ít người để ý đến, đó là
đặc điểm sinh lí lứa tuổi ( từ 11 đến 18 tuổi ). Sau đây tôi xin đưa ra
một số nguyên nhân cơ bản
Thứ nhất: Đời sống tâm lý, sinh lí của lứa tuổi học sinh THCS
Học sinh THCS nằm trong độ từ 11 đến 15 tuổi. Đây là độ tuổi
có sự phát triển nhanh, mạnh cả về thể chất lẫn tinh thần, tuổi mà các
em giã từ một thời ấu thơ non nớt, ngây thơ, tươi sáng để bước vào

một tuổi lớn hơn, bắt đầu nhìn đời bằng những tò mò, có nhiều hứa
8
hẹn, thậm chí là rất thích thể hiện mình là người lớn…Nhưng nhìn lại
thì các em vẫn còn là lứa tuổi thơ dại, dễ bị cám dỗ, sa ngã.
Học sinh THCS tuy là lứa tuổi phát triển nhanh, mạnh nhưng lại
không đồng đều về mặt cơ thể. Tầm vóc của các em lớn lên trông
thấy, trung bình mỗi năm cao lên được từ 5 đến 6cm. Trọng lượng cơ
thể mỗi năm tăng từ 2,5 đến 6kg. ở lứa tuổi này các em thường không
mập béo mà cao gầy, thiếu cân đối. Các em có vẻ lóng ngóng vụng về,
không khéo khi làm việc, thiếu thận trọng, hay làm đổ vỡ….Điều đó
gây cho các em một tâm lí khó chịu. Các em ý thức được sự lóng
ngóng vụng về của mình và cố gắng che dấu nó bằng một điệu bộ
không tự nhiên, cầu kì, tỏ ra vẻ mạnh bạo, can đảm để người khác
không chú ý đến vẻ bề ngoài của mình. Vì vậy chỉ một một sự mỉa
mai, chế giễu nhẹ nhàng về hình thể, tư thế đi đứng của các em thì có
thể gây cho các em những phản ứng mạnh mẽ.
Hệ thần kinh của các em còn chưa có khả năng chịu đựng những
kích thích
mạnh, đơn điệu, kéo dài…Do tác động của những kích thích như thế
thường xuyên sẽ gây cho các em tình trạng ức chế, hay xảy ra tình
trạng bi kịch, bị kích động mạnh. Vì vậy, sự phong phú của các ấn
9
tượng, sự chấn động thần kinh mạnh hoặc sự chờ đợi kéo dài vì những
biến cố gây xúc động đều có thể tác động mạnh đến tuổi vị thành niên,
có thể làm cho một số em bị ức chế, uể oải, thờ ơ, lơ đãng, tản mạn,…
số khác lại làm những hành vi xấu, không đúng với bản chất của các
em.
Sự thay đổi về thể chất và tinh thần chưa ổn định ấy của lứa tuổi
vị thành niên làm cho các em có đặc điểm nhân cách khác với các em
khi ở lứa tuổi trước đó. Nhận thức của người vị thành niên cho thấy

còn thiếu kinh nghiệm về cuộc sống, dễ có hành động không đúng, có
khi mang yếu tố cảm tính, dễ bị động, bị lôi kéo vào những việc làm
sai trái.
Từ sự phân tích trên, ta có thể kết luận: đời sống tâm lí lứa tuổi
là một nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh cá biệt ở trường
THCS.
Thứ hai: Nguyên nhân từ phía gia đình
Một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến số học
sinh cá biệt ở trường THCS đó là sự tác động từ phía gia đình. Có rất
nhiều người cho đây là nguyên nhân cơ bản nhất.
10
Trong nhiều gia đình, cha mẹ mãi lo làm ăn, xây dựng kinh tế,
thiếu thời gian quan tâm đến việc giáo dục con cái, việc học hành của
con thì phó mặc cho nhà trường, đoàn thể. Nên việc phối hợp giáo dục
chưa được quan tâm đúng mức
Mặt khác, năng lực giáo dục, những hiểu biết về mặt phát triễn
của sinh lí, tâm lí đối với con cái của các bậc cha mẹ còn rất hạn chế,
nên chưa sử dụng được các biện pháp giáo dục cho phù hợp khi có
tình huống xảy ra với trẻ. Ta thấy rất nhiều gia đình chiều chuộng con
cái từ khi còn nhỏ vì chỉ có một cậu “ấm”. Thói quen vòi vĩnh, đòi gì
được nấy, không vâng lời, việc gì cũng ỷ lại cho bố mẹ…đã trở thành
thói quen khó sửa cho các em. Hoặc nhiều cha mẹ lại quá khắt khe,
bảo thủ gây cho trẻ những phản ứng gay gắt. Cũng có những gia đình
ít quan tâm, buông lỏng cho trẻ tự do hành động khiến cho trẻ hư hỏng
lúc nào không hay.
Bên cạnh đó lại những gia đình mà cha mẹ lại là người rượu chè,
thiếu gương mẫu không làm tròn nhiệm vụ của người làm cha làm mẹ,
người công dân… Điều đó cũng khiến cho tâm lí vốn chưa ổn định và
chưa có sự chọn lọc ở các em trở nên buồn chán và dẫn đến lơ là,
chán nản trong học tập, dễ bị bắt trước và bị kẻ xấu lôi kéo và dẫn

11
đến những hành vi xấu ( đánh bài, đánh “chát”, chơi bi ăn tiền, tụ tập
chơi điện tử và nhiều thứ khác…)
Hoặc có nhiều gia đình kinh doanh làm ăn bất chính để kiếm
tiền như buôn bán văn hoá phẩm đồi trụy, mua bán ma túy, tổ chức
đánh bạc, chứa gái mại dâm…
….cũng là môi trường gây độc cho trẻ.
Còn một lí do mà ta không thể bỏ qua, đó là nhiều trẻ em sinh ra
trong gia đình quá nghèo túng, nên chúng mặc cảm về bản thân gia
đình mình, chúng cảm thấy thua kém bạn bè, thiếu thốn. Thế rồi
chúng lơ là, bỏ bê việc học tập, thường xuyên vi phạm những nội qui,
qui định của trường, lớp. Thậm chí có em vì không có tiền thoả mãn
nhu cầu cá nhân, sở thích, những cuộc vui chơi…chúng sinh ra trộm
cắp, lừa dối.
Một số em do cha mẹ đánh cãi nhau, bất hòa, ly hôn nên em ở
với mẹ thí thiếu bố, em ở với bố thì thiếu mẹ. Thậm trí có nhiều gia
đình bố mẹ bị đi cải tạo nêm con cái không được nuôi dạy cẩn thận.
Trên đây là những nguyên nhân từ phía gia đình dẫn đến tình
trạng học sinh cá biệt. Các bậc cha mẹ cần lưa tâm chú ý để giáo dục
con cái mình. Cha mẹ phải là tấm gương đầu tiên cho con cái noi theo.
12
Thứ ba: Nguyên nhân từ nhà trường
Nhà trường là môi trường giáo dục học sinh theo hệ thống và có
phương pháp nhất. Nhưng có thể nói, hiện nay trong nhà trường còn
tồn tại một kỉ luật học đường chưa thật nghiêm.
Ta thấy rõ, thầy cô giáo và nhà trường ngoài các biện pháp nhắc
nhở, cảnh báo, đuổi học không được phép răn đe học sinh hư, học sinh
chậm tiến bằng hình phạt khác. Vì lẽ đó cũng hình thành ở học sinh
tâm lí “nhờn” với thầy cô giáo, hỗn với người trên tuổi.
Bên cạnh đó, việc giảng dạy các môn đạo đức (dạy làm người ),

dạy pháp luật lại chưa được chú trọng. Trong nhà trường, đội ngũ cán
bộ giáo viên giảng dạy môn đạo đức và pháp luật còn rất hạn chế,
không có hoặc ít giáo viên chuyên ngành được đào tạo dạy đạo đức và
pháp luật.
Mặt khác, trong nhà trường có một số giáo viên chủ nhiệm hoặc
giáo viên bộ môn đã không thực sự quan tâm đến học sinh, đặc biệt là
học sinh cá biệt. Với học sinh cá biệt, giáo viên cần quan tâm nhiều
hơn để giúp đỡ, khuyến khích động viên các em tu dưỡng, rèn luyện
nhân cách đạo đức của mình. Đôi khi giáo viên thiếu kinh nghiệm, lại
không được chuẩn bị đầy đủ chu đáo về kiến thức, kĩ năng nên dễ
13
giải quyết các tình huống gay cấn bằng thói quen, bằng kinh nghiệm,
bằng trực giác. Vì thế khó tránh khỏi những sai lầm. Ví dụ thiên về
trừng phạt nặng, có thái độ cứng rắn đến mức độ thờ ơ, lạnh nhạt trái
với lòng tin và mong đợi của học sinh. Trong tình thế này , người ta
còn lẫn lộn giữa tâm lí học tội phạm với tâm lí trẻ khó giáo dục.Thầy
cô ra lệnh, cấm đoán nhiều điều càng kích thích trí tò mò của học sinh
và lại bị vi phạm. Thế là cái vòng luẩn quẩn xuất hiện: thầy cô, cha
mẹ liên tục giao việc, nêu yêu cầu để trẻ làm. Không hoàn thành được,
thế là ở nhà trẻ bị cha mẹ quở mắng, đến trường lại cũng bị thầy cô
khiển trách. Hệ quả là chúng chán nản, rã rời, hết có phản ứng
này đến phản ứng khác. Các nhà sư phạm non tay lại không thông
cảm, mà lại dùng kỉ luật cứng nhắc bắt trẻ vào khuôn phép. Thế là mọi
sự giáo dục lại không có hiệu quả.
Cái sai lầm về nghệ thuật giáo dục dẫn đến hình thành ở học sinh
thói xấu như sợ sệt, nói dối, ác cảm với thầy cô giáo…
Thái độ thờ ơ, ác cảm với học sinh cá biệt ở một số nhà giáo dục
cũng do họ không hiểu được tâm lí của lứa tuổi này. Thái độ quá tự
tin, chủ quan vào tài năng giáo dục cũng tạo nên tình trạng mạnh ai
nấy làm, thậm chí trở thành tình trạng “ trống đánh xuôi, kèn thổi

14
ngược”. Điều đó cũng giống như cảnh gia đình lộn xộn, đổ vỡ, trẻ bị
bỏ rơi, thiếu sự quan tâm chăm sóc, thiếu tình thương, dần dần thoát
li khỏi ảnh hưởng giáo dục cần thiết.
Tóm lại việc nghiên cứu phát hiện đúng nguyên nhân khó giáo
dục ở học sinh là vô cùng quan trọng đối với tất cả các giáo viên và cả
các bậc cha mẹ. Nó cũng giống như việc chuẩn đoán bệnh của thầy
thuốc trước khi bắt tay vào chữa trị
Thứ tư: Nguyên nhân từ phía xã hội
Việc chuyển đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường đã gây ra
những biến đổi xã hội rất lớn, có ảnh hưởng không nhỏ đối với lứa
tuổi học sinh. Những mặt trái từ phía xã hội như buôn lậu, nghiện hút,
cờ bạc, đề đóm, mại dâm….và các hành vi phạm pháp khác của người
lớn đã ảnh hưởng tiêu cực đến các em.
Do sự quản lí không chặt chẽ của các nhà chức trách, do lợi
nhuận kinh tế của các nhà kinh doanh, buôn bán không cần để ý đến
đã ảnh hưởng đến ai. Ra đường ta thấy đầy rẫy những quán “chát”,
“Game”, quán bi-a và nhiều loại quán khác đã rất thu hút trẻ như một
“ma lực”. Bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu câu chuyện không lành mạnh
đã tiêm vào đầu trẻ như một liều thuốc rất không bổ.
15
Mặt khác do trẻ em a dua theo bạn bạn bè, bị bạn bè rủ rê lôi
kéo vào những hoạt động xấu gây tác hại cho gia đình, nhà trường và
xã hội
Hoặc cũng có thể do hoàn cảnh sống đã tác động đến trẻ. ở đâu
có tệ nạn xã hội xảy ra nhiều thì ở đó tập trung nhiều trẻ em phạm
pháp
Trên đây là những nguyên nhân cơ bản, dẫn đến tình trạng học
sinh cá biệt – khó giáo dục. Chúng ta và tất cả những người làm công
tác giáo dục cần tìm ra nguyên nhân cụ thể đối với từng học sinh cá

biệt để có biện pháp giáo dục đạt hiệu quả nhất.
2. Cơ sở thực tiễn: Thực trạng học sinh cá biệt lớp 9c trường
THCS Ba Đỡnh.
2.1 Tình hình thực tế .
Lớp 9C tôi chủ nhiệm 37 HS phần lớn là HS phường Ba Đình,
phường Lam Sơn, nhiều em có hoàn cảnh đặc biệt : cha mẹ li hôn, cha
thì nghiện ngập, đi lao động nước ngoài, 1 số gia đình cha mẹ lao
động tự do. Các em ít được sự quan tâm sống thiếu tình yêu thương
đùm bọc của người thân, thiếu sự quan tâm chăm sóc giáo dục. Vì thế
mà việc học tập của các em sa sút, rèn luyện đạo đức cũng bị hạn chế,
16
những ời nói tự do thô tục thiếu văn hóa càng được biểu hiện rất rõ
trong tâm hồn các em. Khi nhận lớp thời gian đầu tôi đã nhận ra một
số bạn nữ tâm sinh lí phát triển nên có những biểu hiện về tình cảm
khác giới tâm lí các em có độ lì , các bạn nam hiếu động nói năng tự
do, thô tục thiếu văn hóa và thường xuyên bỏ học để vui với các trò
chơi điện tử, có những em gia đình đã bất lực, phó mặc cho nhà
trường quản lí. Cái khó khăn của tôi là mới nhận lớp nên tìm hiểu đối
tượng tính cách , hoàn cảnh của mỗi em chưa được nhiều về thời
gian . Vì thế, tôi suy nghĩ, trăn trở tìm ra giải pháp đúng đắn phù hợp
với từng đối tượng tâm sinh lý HS – HS cá biệt.
THỐNG KÊ HOÀN CẢNH GIA ĐÌNH HỌC SINH
Số HS Hoàn cảnh gia đình
2 em cha mẹ công chức, điều kiện khá giả quan tâm chăm sóc
chu đáo
5 em Cha mẹ bỏ nhau sống với ông bà nội, ngoại
20 em Cha mẹ làm nghề lao động tự do, lao động nước ngoài, ít
quan tâm đến việc học tập của các em
10 em Hộ nghèo, gia đình khó khăn
Chất lượng hạnh kiểm năm học trước 2011 - 2012

Tốt (%) Khỏ (%) Trung Bỡnh
(%)
Yếu (%) Kộm (%)
20 20 40 20 0
17
2.2 Tình hình nhà trường
Như trên chúng ta đã biết, việc thay đổi cách sống, cách sinh hoạt
của cộng đồng tất sẽ dẫn đến sự thay đổi của trẻ em ( trẻ thường lấy
người lớn làm gương, các gương xấu dễ bị tiếp thu hơn). Học sinh
THCS Ba Đỡnh cũng nằm trong tình trạng chung của học sinh THCS
trên địa bàn của thị xã. Trong những năm qua, do có sự đi lại thuận
lợi, cơ sở vật chất trường lớp được khang trang hơn, chất lượng và
thành tích của nhà trường được nâng lên ( trong đề tài này tôi chưa nói
đến thành tích của học sinh và nhà trường) nên có một số học sinh ở
khác phường xin về học . Trong số các em chuyển về trường học có
nhiều em chăm ngoan học giỏi, song vẫn có một số em thuộc dạng
học sinh cá biệt. Những học sinh này kết hợp với số học sinh hư trong
trường làm tăng thêm số lượng học sinh cá biệt, một số học sinh lớp
9C là điển hình.
Mặt khác, phần lớn phụ huynh học sinh còn hạn chế về kiến thức,
kinh nghiệm giáo dục con em, sự quan tâm, quản lý con cái còn chưa
đúng mức. Nhiều gia đình chưa thực sự phối hợp với nhà trường trong
18
việc giáo dục con cái - phó mặc cho nhà trường. Nhiều phụ huynh nhà
trường cần găp thì không đến, có phụ huynh đến thì thái độ lại khó
chịu. Nhiều học sinh bố mẹ không quản lý được như để cho con em đi
chơi lêu lổng, nói dối ( ban đêm không học vẫn tụ tập để đi chơi ngoài
đường từ đó nảy sinh nhiều vấn đề về đạo đức).
Hiện nay nhà trường có 16 lớp học, mỗi khối có 4 lớp nhìn chung
các em đều chăm ngoan, học giỏi , song rải ở các lớp vẫn có những

học sinh cá biệt đạo đức yếu kém là do bố mẹ thiếu quan tâm hoặc
biện pháp giáo dục thiếu tính hợp lý. Một số do mâu thuẫn cá nhân có
tính chất phân biệt đẳng cấp giàu nghèo và bị một số thanh niên xấu
rủ rê, cổ vũ khích lệ dẫn đến đánh nhau. Một số khác do động cơ học
tập không cao dẫn đến thờ ơ với việc học tập.
II. Một số biện pháp và kết quả giáo dục học sinh cá biệt
A. Biện pháp giáo dục học sinh cá biệt
Việc giáo dục học sinh cá biệt cần có sự phối kết hợp giữa gia đình
– nhà trường – xã hội, nhất định sẽ nâng cao được chất lượng giáo
dục. Hồ Chủ Tịch đã từng căn dặn: “ Giáo dục trong nhà trường chỉ là
một phần, cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp
cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục nhà trường
19
dù có tốt đến mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội
thì kết quả cũng không hoàn toàn”. Vì vậy,
1. Đối với nhà trường.
Trường học là cơ sở chính - chủ đạo trong quá trình giáo dục với ý
nghĩa nó là nhà điêu khắc chính tạo nên tâm hồn con người. Trường
học để lại dấu ấn không phai mờ trên bộ mặt văn hoá của tất cả những
ai đã học tập ở đó. Trường học chân chính lấy làm tự hào là tất cả
những người lớn tuổi đều hãnh diện tự coi mình là học trò của các em.
Trường học là nơi hình thành và bảo vệ cái cốt lõi đạo đức của người
công dân. Những mối quan hệ lẫn nhau được hình thành trong tập thể
của trường học. Vì vậy để cho trường học giảm bớt tình trạng học sinh
cá biệt thì nhà trường nên có những biện pháp như sau:
Tăng cường những giờ giảng có hiệu quả và chất lượng về luân lí
đạo đức, pháp luật cho học sinh. ở mỗi lớp, nhà trường chọn ra số học
sinh cá biệt, tập trung lại và cho giáo viên có kinh nghiệm, có trình độ
chuyên môn về đạo đức, về pháp luật để bồi dưỡng. Những học sinh
này cần được truyền thụ kiến thức đạo đức ( bài học làm người, các

phẩm chất và bổn phận đạo đức của công dân ) và kiến thức pháp luật
để các em biết và giác ngộ, sửa chữa dần dần những việc làm, hành vi
20
không phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Vì vậy, trong trường học,
cần có giáo viên dạy pháp luật nói riêng và dạy giáo dục công dân nói
chung có trình độ và chuyên môn vững vàng để truyền đạt đến học
sinh một cách có hiệu quả. Mặt khác, giáo viên chủ nhiệm và các giáo
viên bộ môn cần có sự quan tâm chú ý đến học sinh lớp mình, đặc biệt
là học sinh cá biệt. Giáo viên chủ nhiệm là người chịu trách nhiệm
trước nhà trường, trước cha mẹ học sinh về sự phát triển nhân cách
của từng học sinh theo mục tiêu giáo dục.
Do đó, đối với học sinh cá biệt, bản thân tôi đưa ra một số biện
pháp sau đây:
Thứ nhất: Biện pháp xây dựng lại niềm tin
Bình thường, trẻ em vốn có niềm tin vào “thế giới” người lớn,
hồn nhiên và yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị em cũng như những
người xung quanh.
Vì những lí do xã hội và hoàn cảnh phức tạp của cá nhân mà
niềm tin của các em bị phai nhạt và đổ vỡ, thậm chí các em có những
tình cảm ngược lại: oán giận xã hội, căm ghét gia đình và những
người xung quanh, mặc cảm về chính bản thân, về thân phận bất hạnh
21
của mình. Vì vậy, nhà giáo dục như chúng tôi nên thực hiện theo các
yêu cầu sau:
Từ những phút đầu tiên tiếp xúc với trẻ, phải tạo cơ hội để các
em có cái nhìn đúng đắn ( không bị khúc xạ, xuyên tạc, làm méo mó
đi ) về thế giới khách quan, về các mối quan hệ giữa người với người.
Từng bước, từng bước khôi phục lại, nâng dần lên, hiểu đúng các quy
tắc xã hội và những tiêu chuẩn đạo đức nhân cách, những tiêu chuẩn
hành vi, gợi lên lòng tin của các emg với mọi người, với cuc sống

( mà trước đó do bị cuộc sống vùi dập trong nỗi bất hạnh khiến chúng
nhìn hoàn toàn ngược lại). Theo thời gian phải đồng thời gợi mở vạch
ra cho các em thấy những khía cạnh sai lầm, những ngộ nhận trong
cách nhìn người, nhìn việc, xem xét các mối quan hệ để cảm hoá và
tạo điều kiện cho các em tự cảm hóa mình.
Nên tổ chức các hoạt động ( lao động, văn nghệ, thể thao… ). Để
trẻ tiếp xúc và
giao lưu với nhau, với cộng đồng ở dạng trong sáng, dần dà trẻ sẽ
nhận ra cái đúng, phát hiện ra thái độ lệch lạc, cực đoan của mình để
từ đó tự điều chỉnh. Có như vậy chúng mới có cơ sở để tin rằng:
Người với người là bạn, nam nữ bình đẳng, giúp đỡ nhau trong lúc
22
khó khăn là điều tất nhiên, là việc làm cần thiết và phải làm trong
thực tế. Với ai cũng vậy, nhận thức được các qui tắc tối thiểu: ăn thì
phải làm, nhận được sự giúp đỡ phải cảm ơn…Có thể nói: được học
kiến thức và được thử nghiệm trong thực tế niềm tin của trẻ được khôi
phục dần dần và đó là cơ sở để ta phê phán cái sai, ủng hộ và làm theo
cái đúng trong những lần sau:
Quá trình xây dựng lại niềm tin cần vạch ra bức tranh tổng thể, vì
cuộc sống buông thả vô nguyên tắc cuối cùng sẽ gặm nhấm, làm tiêu
tan cuộc sống lành mạnh của mỗi người.
Cần chú ý là khi khôi phục lại niềm tin phải hết sức tế nhị, không
bao giờ tỏ ra nghi ngờ hoặc chế nhạo sự non nớt, sự sai lầm của trẻ, kể
cả việc bác bỏ thẳng thừng thô bạo các quan niệm sai lầm của trẻ. Thế
giới tâm hồn trẻ cực kỳ phong phú nhạy cảm, dù hế sức gần gủi với trẻ
chắc chắn chúng vẫn còn nhiều điều bí ẩn, khó lòng thấu hiểu hết. Sự
khéo léo ứng xử về sư phạm phải tinh thông, có như vậy trẻ mới tin ta
và từ đó chúng mới tin vào bản thân chúng và vào cuộc sống nói
chung.
Thứ hai: Biện pháp khuyến khích và trừng phạt.

1.1 Trừng phạt.
23
Trừng phạt phải được đối tượng nhận thức tiếp thu như là hình thức
đặc biệt của yêu cầu chung đối với hành vi sai trái của các em. Trong
nội dung trừng phạt đồng thời nên có các nội dung:
- Phê phán, chỉ trích việc làm sai trái
- Lời chỉ dẫn sửa chữa hoặc qui tụ hành vi để khắc phục sai phạm
đó.
- Cảnh báo, răn đe sự việc tái diễn để phòng ngừa về sau
- Trừng phạt được áp dụng để sửa trị những lỗi lầm của trẻ sai
phạm ở mức độ nặng nề ( như chúng đã xúc phạm thô bạo bạn bè, mọi
người, luôn luôn bộc lộ tính
hung tợn, tính chấp nhặt trả thù khiến cho trẻ khác sợ hãi) .
Nhưng trừng phạt phải chặt chẽ, thích đáng, tránh tạo cơ hội để trẻ
bộc lộ sự ranh mãnh đối phó theo kiểu đạo đức giả. Khi trừng phạt
phải vạch rõ lý do chính đáng đảm bảo cho việc trừng phạt đạt hiệu
quả mong đợi của mọi người, làm cho đối tượng chuyển biến thái độ
hành vi. Thực hiện việc trừng phạt phải được dư luận của nhóm đồng
tình ủng hộ.
Phải nhạy bén linh hoạt thay đổi hình thức phạt khi cần thiết và
cũng không nên trừng phạt một cách máy móc hình thức. Tối kị việc
24
trừng phạt hàng loạt trẻ với một hình thức sáo mòn nào đó. Khi bản
thân trẻ đã hiểu rõ tính nết và cung cách giáo dục của nhà giáo dục mà
người đó lại không chịu cải tiến hình phạt, rễ dẫn đến thái độ khinh
nhờn của trẻ, vì chúng cho rằng như vậy là tắc trách, là không khách
quan. Vì vậy đối với mỗi đối tượng, phải sâu sát với chúng và cá biệt
hoá cả cách thức trách phạt thì hiệu quả mới tốt. Ví dụ: có trẻ phải
cương quyết, có trẻ phải dùng áp lực, dư luận tập thể; có trẻ phải tâm
tình thuyết phục, thậm chí mời gia đình giáo dục. Việc thực hiện thực

hiện trừng phạt không nên hấp tấp vội vã, tránh tình trạng để trẻ có lỗi
chưa đủ thời gian tự xem xét đã phạt.
Về tâm lý khi trẻ vừa rơi vào tâm lý xung đột, sự cuồng nhiệt chưa
lắng lại, người phạm lỗi chưa có đủ thời giờ để suy ngẫm, phân tích
cảm nhận rõ ràng, nếu ta phạt ngay dễ dẫn đến sự phân tán trong dư
luận và bản thân trẻ cũng chưa có đủ điều kiện để tiếp thu.
Vậy, việc phạt trẻ phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng đối tượng, đúng
mức sẽ có tính giáo dục cao.
1.2. Khuyến khích – khen thưởng
Có nhiều người cho rằng không nên áp dụng biện pháp này đối với
học sinh cá biệt. Tuy vậy, trong giáo dục sự nâng đỡ, khuyến khích cái
25

×