1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Tăng huyết áp (THA) là một bệnh lý mạn tính, tăng dần và nguy hiểm. Đây
là một bệnh phổ biến, thường gặp xu hướng tăng nhanh, từ lâu đã trở thành mối
quan tâm hàng đầu của y học thế giới, bệnh thường gặp ở các nước phát triển cũng
như các nước đang phát triển . Tổ chức Y tế thế giới ước tính tỷ lệ tăng huyết áp
trên thế giới năm 2000 là 26,4% (một tỷ người mắc) sẽ tăng lên 29,2% (1,5 tỷ người
mắc) vào năm 2025 [2] và 7,1 triệu người chết hàng năm do tăng huyết áp gây ra.
Tại Việt Nam những năm 1960 tỷ lệ tăng huyết áp mới chỉ 1%, năm 1976 là 1,9%,
người trưởng thành ở Miền Bắc nhưng đến năm 2001-2002 là 16,32% [29]. Riêng
khu vực nội thành Hà Nội năm 2002 là 23,2% [2], thành phố Hồ Chí Minh năm
2004 là 21,89% [ 40].
Bệnh tăng huyết áp tiến triển âm thầm, hủy hoại cơ thể từ từ và liên tục,
bệnh gây chết người đột ngột hoặc từ từ thông qua tổn thương các cơ quan đích như
tim, não, thận, mắt, động mạch ngoại vi [8] và rút ngắn tuổi thọ từ 10 năm đến 20
năm nếu không được điều trị. Các thử nghiệm lâm sàng lớn đều chứng minh 2 biện
pháp điều trị dùng thuốc và thay đổi lối sống sẽ cải thiện ngoạn mục tình trạng bệnh
ở người tăng huyết áp. Tăng huyết áp vô căn chiếm tỷ lệ 92-94% [94] và tăng huyết
áp là bệnh lý mạn tính nên việc chữa trị gần như là suốt đời, trừ tỷ lệ còn lại là tăng
huyết áp thứ phát sau khi triệt căn được nguyên nhân sinh bệnh không phải điều trị.
Trên thực tế giữa nhận thức và xử lý của cộng đồng về tăng huyết áp còn
chưa tốt, theo nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh năm 1992 trên 1.716 người tăng huyết
áp thì có 67,5% là khơng biết bệnh, 15% biết bệnh nhưng không điều trị, 13,5%
điều trị nhưng thất thường khơng đúng cách, chỉ có 4% là điều trị đúng. Nghiên cứu
của Phạm Gia Khải và cộng sự năm 2002 cho biết trong 818 người được phát hiện
tăng huyết áp có điều trị tăng huyết áp là 27,09%, không điều trị tăng huyết áp là
72,9% [26] và huyết áp được khống chế là 19,1% [29]. Qua các nghiên cứu về bệnh
tăng huyết áp đều phản ánh tình trạng nhận thức của người bệnh tăng huyết áp và
cộng đồng cịn chưa tốt, có nhiều hành vi bất lợi trong chữa trị. Trong khi đó bệnh
2
tăng huyết áp hầu hết khơng có triệu chứng cơ năng, số người biết mình bị tăng
huyết áp cịn q thấp dẫn đến việc không điều trị hoặc điều trị không đầy đủ, bệnh
nhân chưa phối hợp cùng thầy thuốc chữa bệnh cho mình. Do đó bệnh nhân tăng
huyết áp khi vào viện thường đã có biến chứng, chi phí rất cao khi điều trị mà hiệu
quả lại không được như mong muốn, gây tốn kém cho gia đình và xã hội.
Tại Bình Định, bệnh tăng huyết áp chưa được quan tâm đúng mức, để nâng
cao kiến thức, thái độ, thực hành về bệnh tăng huyết áp, phát hiện sớm, quản lý,
theo dõi, hướng dẫn và điều trị có kiểm soát bệnh chặt chẽ trong mọi độ tuổi đặc
biệt là độ tuổi cịn lao động từ 18-60 tuổi, để khơng xảy ra biến chứng do tăng
huyết áp là một nhiệm vụ quan trọng của ngành Y tế Bình Định. Chính vì vậy
chúng tơi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu tình hình quản lý bệnh nhân tăng huyết
áp tại Khoa khám Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định năm 2007-2008” nhằm
mục tiêu sau:
1. Khảo sát kiến thức, thái độ, thực hành phòng chống tăng huyết áp ở
bệnh nhân từ 18 đến 60 tuổi tăng huyết áp tại Khoa khám Bệnh viện
Đa khoa tỉnh Bình Định.
2. Đánh giá hiệu quả quản lý bệnh nhân tăng huyết áp và tỷ lệ các biến
chứng của bệnh tăng huyết áp sau khi đã được quản lý tại Khoa khám
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Bình Định.
3
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN, TÌNH HÌNH KINH TẾ XÃ HỘI TỈNH
BÌNH ĐỊNH VÀ KHÁI QT VỀ BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH
BÌNH ĐỊNH
Bình Định là một tỉnh Duyên Hải Miền Trung diện tích 6.027km2 với dân số
hơn 1,5 triệu người. Cùng với sự phát triển của cả nước tỉnh Bình Định đã có nhiều
bước phát triển về kinh tế, xã hội, đời sống nhân dân đã tăng lên rõ rệt, thu nhập
bình quân đầu người năm sau cao hơn năm trước, người dân đã có ý thức quan tâm
đến việc chăm sóc và bảo vệ sức khỏe của mình. Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định
là bệnh viện hạng I với quy mơ 800 giường bệnh và 1.076 cán bộ viên chức, 27
khoa và 6 phịng chức năng, có đầy đủ các trang thiết bị y tế hiện đại đảm bảo việc
phục vụ cho nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân trong tỉnh.
Khoa khám Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định hàng ngày khám từ 1.500 đến
2.000 bệnh nhân, trong số bệnh nhân đến khám thì THA là bệnh hay gặp nhất trong
các bệnh mạn tính.
1.2. TÌNH HÌNH TĂNG HUYẾT ÁP TRÊN THẾ GIỚI, TRONG NƢỚC VÀ
NHẬN THỨC VỀ TĂNG HUYẾT ÁP
1.2.1. Tình hình tăng huyết áp trên thế giới
Có thể nói THA nguyên phát là bệnh của thời đại văn minh, biến chứng của nó
gây tàn phế và tử vong hàng đầu trong các nguyên nhân gây tử vong và bệnh tật .
Dân số các nước cơng nghiệp THA 25%, bệnh có sự liên quan đến sự phát triển
công nghiệp, đô thị và nhịp sống căng thẳng, bệnh cũng thường gặp ở các nước phát
triển có mức sống cao, việc tiêu thụ nhiều muối cũng là nguyên nhân quan trọng
gây THA [31, 45]. Hiện nay THA đã và đang là vấn đề thời sự của nhiều quốc gia
nói chung và của Việt Nam nói riêng.
4
Với tiêu chuẩn chẩn đóan THA của JNC VI-1997 thì tỷ lệ THA trong dân số
nói chung là khoảng 20%, còn theo JNC VII-2003 là 22% , số liệu này thay đổi tùy
từng quốc gia:
Bảng 1.1: Tỷ lệ THA ở một số nước
Tên quốc gia
Tỷ lệ mắc bệnh THA
Số người > 18 tuổi được nghiên cứu
43.186.000
Mỹ
[45]
24%
Anh
[60]
20% (1994)
37% (1998)
Trung Quốc [60]
15.908.000
27,2%
129.824.000
Canađa
[60]
20%
Liên Xô
[45]
10 -12%
Cu Ba [45], [82]
44%
Tây Ban Nha [9]
30%
Indonesia
[9]
15 - 20%
Malaysia
[9]
22,2%
Pháp
[9]
41%
CHLB Đức [9]
17%
Ấn Độ
[9]
23,7%
Nhật
[9]
27%
Ba Lan
[70]
29%
1.2.2. Tình hình tăng huyết áp trong nƣớc
Ở Việt Nam tần suất THA ngày càng gia tăng khi nền kinh tế phát triển, theo
các số liệu thống kê điều tra THA ở Việt Nam năm 1960 chiếm 1,6% dân số, 1982
là 1,9% và 1992 tăng lên 11,79% dân số. Ở Miền Bắc Việt Nam năm 2002 16,35%,
5
tỷ lệ THA ở người dân tộc thiểu số thị xã Kom Tum năm 2002 là 12,54% [1], tỷ lệ
THA ở người Nùng tỉnh ĐakLak 15,4% [35], tại Thái Nguyên tỷ lệ THA là 13,88%
[28], tại đồng bằng Thái Bình tỷ lệ THA là 12,39% [27].
1.2.3. Sự hiểu biết về THA
1.2.3.1. Sự hiểu biết về THA trên thế giới
Năm 1972 chương trình giáo dục THA quốc gia của Hoa Kỳ được sáng lập,
chương trình đã thành cơng trong việc làm gia tăng nhận thức của cộng đồng về
ngăn ngừa , điều trị và kiểm sốt THA. Chương trình điều tra về sức khỏe và dinh
dưỡng quốc gia tính từ năm 1976 đến năm 1980 (NHANES II) cho đến chương
trình điều tra 1988- 1991 (NHANES III, giai đọan I) cho thấy số người Mỹ biết
mình bị THA tăng từ 51% lên 73%. Trong số những người THA, số được điều trị
tăng từ 31% lên 55%, số người được điều trị đạt huyết áp mục tiêu (dưới
140/90mmHg) tăng từ 10% lên 29% [60 ] và kết quả của NHASES III tỷ lệ THA
giảm từ 36,3% xuống còn 20,4% [84].
1.2.4. Tỷ lệ nhận biết, điều trị và huyết áp đƣợc kiểm soát
Bảng 1.2: Tỷ lệ nhận biết, điều trị và huyết áp được kiểm soát ở người lớn
tuổi từ 18-74 [44], [60]
Tỷ lệ nhận biết, điều trị và huyết áp được kiểm soát
ở người lớn tuổi từ 18-74 (NHANES)
Tỷ lệ %
1976- 1980
1988- 1991
1991– 1994
1999- 2000
Nhận biết
51%
73%
68%
70%
Có điều trị
31%
55%
63,6%
59%
Kiểm sốt được
10%
29%
27,4%
34%
HA<140/90mmHg
6
1.2.5. Tỷ lệ huyết áp đƣợc điều trị và kiểm soát ở một số nƣớc
Bảng 1.3: Tỷ lệ huyết áp được điều trị và kiểm soát ở một số nước [60]
Tên nước
Được điều trị
Được kiểm soát
Mỹ (NHANES 1999 - 2000)
59%
34%
Pháp
24%
Vùng Caribean
44,9% (nữ)
<13,3%
30,4% (nam)
Anh
6% (1994)
32% (1998)
Trung Quốc
26% (1994)
9% (1998)
28,2%
8,1%
Các nước Châu Âu
8%
Sự hiểu biết về THA của người Việt Nam [2]:
Trần Đỗ Trinh và cộng sự 1992 điều tra cộng đồng từ 15 tuổi trở lên, trong số
1.716 người bị THA thì 67,5% khơng biết bệnh, 15% biết bệnh nhưng khơng điều
trị, 13,5% điều trị nhưng thất thường và không đúng cách, chỉ có 4% điều trị đúng.
Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Thị Trúc khảo sát 1.582 người từ 18 tuổi trở lên
tại tỉnh Tiền Giang năm 2001 cho thấy 16,1% chưa từng được đo huyết áp, 58,7%
có đo huyết áp nhưng khơng nhớ con số huyết áp của mình, 10,3% biết con số huyết
áp của mình nhưng khơng kiểm tra thường xuyên và chỉ 14,9% có ý thức kiểm tra
huyết áp định kỳ chủ yếu là ở những người bị THA, 63% khơng biết một biện pháp
phịng ngừa THA, 48% biết mình bị THA, 13,9% có điều trị thường xun và kiểm
soát được huyết áp 0%.
Phạm Gia Khải và cộng sự điều tra 7.610 người từ 16 tuổi trở lên tại Hà Nội
năm 1999, tỷ lệ nhận biết bệnh và ý thức điều trị của người bệnh cịn rất thấp, có
80,8% ngừng thuốc, năm 2002 Phạm Gia Khải và cộng sự tiếp tục khảo sát 5.012
người từ 25 tuổi trở lên ở 4 tỉnh Miền Bắc Việt Nam (Nghệ An, Hà Nội, Thái Bình
và Thái Nguyên) và kết quả là 23% hiểu đúng các yếu tố nguy cơ của bệnh THA.
7
Viên Văn Đoan và Đồng Văn Thành [17] tại Hà Nội nghiên cứu trên 300
người bệnh THA từ 25 tuổi trở lên điều trị ngoại trú cho thấy 47,6% người bệnh
khơng biết mình bị THA và chỉ có 9,5% hiểu biết về bệnh và điều trị đúng. Hai tác
giả bình luận “Đa số bệnh nhân của chúng ta nhận thức về bệnh còn chưa cao, nên
ngay cả khi được phát hiện bệnh, mặc dù đã được hướng dẫn, song do nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan của người bệnh và cả y tế cơ sở , do vậy họ không điều trị
đúng, không liên tục và không tái khám. Chính vì vậy mà hậu quả của bệnh gây ra
ngày một tăng”.
Đào Duy An [3] điều tra 113 người bệnh THA điều trị nội trú và ngoại trú từ
34 tuổi trở lên tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Kon Tum năm 2004 thấy rằng 17,8%
người bệnh biết THA nhờ khám định kỳ: 7,1% biết chính xác ngưỡng THA; 64,6%
biết THA; 47,8% tuân thủ y lệnh ; 38,9% điều trị thường xuyên ; 35,6% ngừng
thuốc ; 17,6% tự mua thuốc uống và 13,3% mua thuốc theo toa cũ.
Hoàng Viết Thắng và Hoàng Bùi Bảo [2] điều tra 63 người đã bị THA tại một
xã của thành phố Huế thấy: Hiểu biết của người bệnh: chỉ có 14,29% người biết khá
rõ, cịn lại biết sơ sài hoặc khơng biết gì; Tình trạng tuân thủ điều trị: 23,8% tuân
thủ tốt ; 46% tuân thủ sơ sài và 30,2% hồn tồn khơng điều trị và lý do bỏ điều trị
vì khơng hiểu biết về bệnh là 52,6% .
Những nghiên cứu này tiến hành dù tại một phòng khám hay ở một bệnh viện,
ở miền núi hay đồng bằng, vùng nông thôn hay thành thị, tuy phương pháp chọn
mẫu có khác nhau nhưng kết quả đều phản ảnh tình trạng nhận thức của người bệnh
THA của cộng đồng cịn kém cỏi, có nhiều hành vi bất lợi trong chữa trị, đòi hỏi
phải nâng cao kiến thức về bệnh cho người THA, phát hiện bệnh sớm, quản lý, theo
dõi, hướng dẫn và điều trị có kiểm soát bệnh chặt chẽ là quan trọng và cần thiết.
1.3. CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP
Theo giáo sư tiến sĩ Phạm Gia Khải, viện trưởng viện tim mạch Việt Nam
muốn phòng bệnh THA quan trọng nhất là phải hạn chế tối đa các yếu tố nguy cơ:
Để dự phòng và điều trị tốt người ta thường sắp xếp các yếu tố nguy cơ thành
từng nhóm, tuỳ theo mức độ tăng huyết áp mà đề ra cách xử lý cụ thể thích hợp
[47], [48], [55].
8
- Nhóm nguy cơ A: Bao gồm bệnh nhân huyết áp bình thường-cao, tăng huyết
áp độ I, II hoặc độ III khơng có bệnh tim mạch trên lâm sàng, khơng có tổn thương
cơ quan đích và yếu tố nguy cơ .
- Nhóm nguy cơ B: Tăng huyết áp khơng có bệnh tim mạch lâm sàng, khơng
tổn thương cơ quan đích nhưng có lớn hơn một yếu tố nguy cơ nêu trên mà khơng
phải tiểu đường .
- Nhóm nguy cơ C: gồm tăng huyết áp có biểu hiện tim mạch trên lâm sàng
hoặc tổn thương cơ quan đích [48].
* Các yếu tố nguy cơ đó là:
1.3.1. Béo phì
Béo phì là yếu tố nguy cơ THA [66], [69], béo phì song song với THA [73].
Thừa cân và béo phì có tỷ lệ mắc bệnh càng ngày càng gia tăng trên thế giới.
Ở Mỹ và một số nước khác, thừa cân và béo phì gia tăng đáng kể trong 20 năm qua.
Theo nghiên cứu gần đây nhất của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh cho
thấy tăng cân lên đến 60% và hậu quả của béo phì là THA, rối lọan lipid máu, rối
lọan chuyển hóa, bệnh mạch vành…
- Béo phì thừa cân đang là vấn đề sức khỏe toàn cầu. Tại Mỹ với tỷ lệ người
dư thừa cân nặng chiếm khoảng 15% dân chúng và là nguyên nhân của 20-30%
trường hợp THA. BMI liên quan THA [72], BMI > 25 có tương quan chặt chẽ với
THA. Nghiên cứu của Gupta R tỷ lệ vịng bụng, vịng mơng liên quan đến THA
[71], vòng thắt lưng >85cm ở nữ và >98cm ở nam cũng có nguy cơ THA. Người bị
hội chứng chuyển hố có nguy cơ THA cao gấp 3,86 lần người bình thường [4].
Bệnh nhân THA hội chứng chuyển hoá chiếm 38,2% [37]. Bệnh nhân THA sẽ có
rối loạn lipid máu [92], trong số các bệnh nhân rối loạn lipid máu thì THA nguyên
phát chiếm tỷ lệ 49,21% [14]. Ngày nay, đối với sự phát triển của xã hội trên mọi
lĩnh vực đời, sống, năng lượng cung cấp ở nhóm thừa cân đều vượt quá nhu cầu của
cơ thể , nền kinh tế không ngừng được nâng cao nên những bệnh lý liên quan đến sự
thừa năng lượng cần được quan tâm nhiều hơn.
9
Chỉ số khối cơ thể (BMI):
Các nghiên cứu cho thấy nếu giảm 10% BMI, huyết áp sẽ giảm trung bình từ
8-12mmHg. Năm 1986, nhóm chuyên viên về nhu cầu năng lượng của Liên hợp
quốc đã đề nghị sử dụng BMI để đánh giá tình trạng dinh dưỡng ở người trưởng
thành. Năm 1998, James, Ferro và Watelow đã đưa ra chỉ số BMI bình thường là
18,5-24,9 , BMI tăng từ 21-26 sẽ dẫn đến nguy cơ THA gấp 3 lần .
Nghiên cứu dịch tể học THA của quần thể người trưởng thành ở thành phố
Maracaibo-Venezuela thấy rằng người có BMI > 25 có tỷ lệ mắc THA gấp hai lần
người có BMI < 22 .Theo Phạm Gia Khải và cộng sự điều tra 7.610 người tại Hà Nội
từ tháng 4/1998 đến 1999 thấy chỉ số BMI từ 22 trở lên đã có nguy cơ THA [48].
1.3.2. Đái tháo đƣờng
THA thường phối hợp với đái tháo đường, tần suất gặp nhiều ở đái tháo đường
type 2.
Tỷ lệ THA ở người đái tháo đường thường cao gấp 1,5-2 lần so với người bình
thường [7], [36], có tới 35% nam và 46% nữ bị bệnh đái tháo đường có kèm THA,
THA và tăng đường máu là các yếu tố nguy cơ độc lập đối với các vấn đề về bệnh
lý mạch máu. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng can thiệp tích cực nhờ kiểm soát
huyết áp sẽ làm giảm đáng kể các nguy cơ thậm chí có hiệu quả hơn việc kiểm soát
đường huyết .
Bệnh tiểu đường thường đồng hành với bệnh THA. Theo Tổ chức Y tế thế giới
năm 1985 tỷ lệ THA ở bệnh nhân đái tháo đường là 50-70% [52] . Tại Bệnh viện
Nguyễn Tri Phương Thành phố Hồ Chí Minh (1991-1992) ghi nhận tỷ lệ THA là
39,55% trong số 255 bệnh nhân đái tháo đường nội trú, Nguyễn Hải Thủy, Hùynh
Văn Minh và cộng sự ở Huế (2000-2002) khảo sát ở 490 bệnh nhân đái tháo đường
ghi nhận THA chiếm tỷ lệ 23,5%. Trong đó đái tháo đường có THA là 38,1% cao
gấp 6,4 lần ở bệnh nhân đái tháo đường khơng có THA (6,01%) [51]. Và nhóm
nghiên cứu đã đưa ra kết luận bệnh mạch vành thường gặp là nguyên nhân gây ra
suy tim ở bệnh nhân đái tháo đường có THA [52].
10
Theo Elisa và cộng sự ghi nhận sự gia tăng huyết áp tâm thu ở bệnh nhân đái
tháo đường type 2 thật sự là một yếu tố nguy cơ đặc biệt đối với biến chứng tim
mạch nhất là có thời gian phát bệnh kéo dài và rối lọan lipid máu. Theo R. Turrer
nếu kiểm soát huyết áp chặt chẽ ở bệnh nhân đái tháo đường type II sẽ giảm đáng
kể các nguy cơ tử vong .
Theo Taffet và cộng sự (1992) ghi nhận suy tim do nhồi máu cơ tim chiếm
65%, do THA chiếm 63%, đái tháo đường chiếm 11%. Dó đó sự kết hợp giữa 2
bệnh cảnh THA và đái tháo đường sẽ làm tăng tần suất suy tim.
Theo nghiên cứu của Cohort (1994) ghi nhận tỷ lệ suy tim ở bệnh nhân đái
tháo đường có THA là 68,1% [52].
1.3.3. Hút thuốc lá
- Thuốc lá: Hút thuốc lá cũng làm tăng nguy cơ THA, số lượng thuốc hút càng
nhiều thì nguy cơ THA càng cao vì trong thuốc lá có hàng ngàn chất hố học khác
nhau, có các chất gây nghiện như Nicotine, hắc ín, các hỗn hợp chất màu nâu như
Benzen, Benzopyren, các chất độc dạng khí như CO, Amoniac, Hydrogen …[54].
Đặc biệt hoạt chất Nicotine có khả năng làm co mạch và kích thích tăng tiết
Catecholamine, carbonoxyt và các chất khác sẽ làm tổn thương nội mạc thành
mạch. Thực nghiệm của Maslova năm 1958 trên súc vật thấy Nicotine trong thuốc
lá làm THA.
Nghiên cứu công nhân viên của nhà máy thuốc lá, nơi tiếp cận khói bụi thuốc lá
hàng ngày thì thấy tỷ lệ THA cao hơn rõ rệt. Tuy nhiên cho tới hiện nay các tác giả
chưa thống nhất cơ chế hút thuốc là làm THA như thế nào, nhưng đa số đều cho rằng
đối với những người đã THA thì hút thuốc lá làm tăng tỷ lệ này lên đáng kể [48].
Hút thuốc lá, mặc dù khơng phải là ngun nhân chính gây THA, nhưng là
một yếu tố rất thuận lợi có hại đến sức khỏe và tính mạng của mọi người, khơng chỉ
ở người trực tiếp sử dụng mà còn ảnh hưởng đến những người xung quanh (gián
tiếp). Nguy cơ bệnh lý mạch vành ở những người THA hút thuốc lá cao hơn những
người THA không hút thuốc là khỏang 50-60% so với những người THA không hút
thuốc lá [48].
11
Nghiên cứu của Trần Đỗ Trinh về dịch tễ học bệnh THA ở Việt Nam (1989 1992) cho thấy: Ở nhóm người có THA, tỷ lệ hút nhiều (trên 8 điếu/ ngày) cao hơn
ở những người bình thường.
1.3.4. Uống rƣợu
Theo Hồng Viết Thắng khi uống rượu có một hiệu quả là giãn mạch ngay tức
thì, biểu hiện là phừng đỏ da mặt, nhưng thơng thường nó làm gia tăng huyết áp, sự
lạm dụng rượu mãn tính là một yếu tố xác định THA với sự liên quan của liều uống
này và một tỷ lệ tử vong tim mạch. Nguy cơ THA tăng gấp 02 lần khi uống rượu
vượt quá 3-4 cốc trong 01 ngày. Cơ chế tác dụng THA do lạm dụng rượu là phức
tạp, sự bất thường của cơ quan nhận cảm áp lực, sự gia tăng của trương lực giao
cảm và sự tiết Cortisone, sự bất thường của Natri và Calci nội bào. Trong thực tế
cần phải khuyên những người uống rượu có THA, giảm liều dùng rượu tối đa 30ml
rượu đơn thuần hoặc 60ml Whisky, 240ml rượu nho, 620ml bia. Cũng cần ghi nhận
rằng kiêng hoàn toàn rượu sẽ là tăng nguy cơ mạch vành và tai biến mạch máu não
so với việc tiêu thụ hàng ngày với lượng nhỏ đến vừa phải (xác định bởi các nhà
dịch tễ học từ 16g Ethanol (rượu ) đối với phụ nữ và 24g cho đàn ông). Sự tiêu thụ
vừa phải đồ uống có cồn có thể được khuyên để giảm tần suất mắc bệnh [50].
Đã có một số nghiên cứu dịch tễ được báo cáo về sự liên quan của uống nhiều
rượu và THA, nhưng cơ chế của liên quan này vẫn cịn chưa rõ ràng. Có những ý
kiến chưa thống nhất nhưng đa số thừa nhận rượu làm THA . AL. Klatsky (1996) và
Trường Đại học Y Hoàng Gia Luân Đôn (1995) đã đưa ra kết luận tần suất THA và
nguy cơ xuất huyết não tăng lên với sự gia tăng uống rượu [50].
1.3.5 Ăn mặn
Trong các nguyên nhân gây THA trước hết người ta thường kể đến lượng muối
ăn . Bình thường một người khỏe mạnh chỉ cần 4g muối/ ngày, song thói quen ăn
các món ăn tương đối mặn sẽ có cảm giác ngon miệng hơn nên lượng muối trong
khẩu phần ăn hàng ngày thường hơn nhu cầu của cơ thể, có thể là 10g hoặc hơn kết
quả là vượt quá khả năng điều chỉnh của các hormon và thận, dẫn đến ứ Natri (Na+),
cơ thể giữ muối nhiều hơn và làm tăng lưu lượng máu tuần hoàn lâu dài sẽ dẫn đến
12
tăng cung lượng tim và làm THA. Ăn mặn còn gây ứ đọng Ion Natri (Na+), làm tăng
độ thấm của Calci (Ca+) qua màng tế bào, dẫn đến làm tăng khả năng co thắt các
tiểu động mạch và làm THA. Ăn mặn với người THA càng nhiều bất lợi hơn.
Các cơng trình nghiên cứu cho thấy tác dụng rõ rệt của chế độ ăn giảm muối
trong việc làm hạ huyết áp. Theo W.N Berkinhager và P.W Lơewn (1985) cứ ăn
giảm 1g muối sẽ làm huyết áp giảm được 1mmHg. Theo Phan Thị Kim và cộng sự
ở Viện Dinh dưỡng (1988) với chế độ ăn giảm muối 4-6g muối / ngày sau 01 tháng
huyết áp đối đa của người bệnh giảm trung bình 30mmHg, huyết áp tối thiểu giảm
trung bình 20mmHg.
- Ăn mặn: lượng muối ăn (NaCl) trong khẩu phần ăn hàng ngày có liên quan tỷ
lệ thuận giữa lượng muối ăn và mức huyết áp, ăn mặn kéo dài thì nguy cơ THA
nhiều hơn. Với việc tiêu thụ muối quá nhiều còn dẫn đến một số bất lợi khác:
- Các thử nghiệm cho thấy rằng ăn muối nhiều Natri (trên 14g/ ngày) sẽ gây
THA; trong khi ăn ít muối <1g ngày gây giảm huyết áp động mạch. Hạn chế ăn
muối là một trong một những biện pháp dễ nhất để phòng ngừa THA.
- Nước ta ở vùng nhiệt đới, bờ biển dài, nhân dân nhiều vùng có thói quen ăn
mặn (ăn dưa muối, tương, cà …) tác động gây THA có thể là tác nhân có ý nghĩa.
1.3.6 Tiền sử gia đình có ngƣời bị THA
Nghiên cứu của Saito T THA liên quan đến tiền sử gia đình [88], của Tạ Tiến
Dũng tại Long An THA liên quan đến yếu tố gia đình là 18,72% [13]. Một số gia
đình có khuynh hướng dễ mắc THA, nếu cha mẹ bị THA thì nguy cơ con cái có thể
mắc bệnh 50% [18]. Các nghiên cứu dịch tễ cho thấy không phải ai cũng bị cao
huyết áp mà chỉ có những người có yếu tố di truyền (Genotype) bị mắc mà thơi. Có
nghiên cứu cho thấy những người đề kháng insulin có các gene gây THA [63]. Các
nghiên cứu khác cũng cho thấy một số người với một sự bất thường nào đó của
Genotype mà hiện nay chưa xác định, khi tiếp xúc với chế độ ăn có lượng Natri cao
thêm với những thay đổi lối sống như Stress, uống rượu, mập phì dẫn đến THA.
Năm 1989 Trần Đỗ Trinh điều tra dịch tể học về THA ở Việt Nam. Khi so
sánh giữa 909 cặp giữa 2 nhóm THA và người bình thường thấy tỷ lệ ở người THA
13
có người trong gia đình bị THA cao hơn ở nhóm đối chứng đặc biệt là đối với cha
mẹ và anh chị em.
Năm 1999 Phạm Gia Khải nghiên cứu 1.221 trường hợp THA có 188 trường
hợp có người trong gia đình bị THA. Bố bị THA 80/188 (42,55%), mẹ bị THA
71/188 (37,76%), anh chị em ruột, cơ, dì, chú, bác bị THA 37/188 (18,685%). Kết
quả này cho thấy khơng có mối quan hệ chặt chẽ giữa yếu tố tiền sử gia đình và
THA. Một nghiên cứu khác năm 2001- 2002 của Phạm Gia Khải ở các tỉnh phía
Bắc THA liên quan đến tiền sử gia đình là 10,1% [29].
1.3.7. THA ở phụ nữ mãn kinh
Người ta thấy rằng nguy cơ bệnh mạch vành tăng theo tuổi và tỷ lệ mắc bệnh ở
phụ nữ và nam giới như nhau. Nhưng sau mãn kinh, tỷ lệ này tăng nhanh ở phụ nữ
do biến động về hormon. Ngày càng có nhiều hiểu biết về các yếu tố nguy cơ bệnh
ở phụ nữ mãn kinh có liên quan mật thiết với chứng béo phì và rối lọan lipid máu.
Béo phì gây nên nhiều nguy cơ bệnh tật như: bệnh tim mạch, rối lọan lipid máu.
1.3.8. Microalbumin - niệu
Sự vận chuyển albumin xuyên qua màng vi cầu thận tùy thuộc một số yếu tố:
điện tích và kích thước của phân tử, trạng thái màng và huyết động học riêng của
thận. Thanh thải xuất của albumin (được định nghĩa là tỷ lệ thanh thải albumin trên
độ lọc) bình thường rất thấp (<0,1%) vì có điện tích âm và kích thước phân tử tương
đối lớn của albumin. Tuy vậy sự bài tiết albumin có thể thay đổi trong mọi tình
huống sinh lý và bệnh lý bao gồm THA và đái tháo đường. Trong THA điều kiện
huyết động học đặc biệt có thể dẫn đến tăng thất thốt albumin qua màng. Ví dụ,
bệnh nhân THA có lưu lượng máu thận thấp và tăng kháng lực mạch máu thận, với
tốc độ được giữ nguyên, gợi ý một sự gia tăng phân suất lọc. Điều này có thể do sự
dẫn truyền huyết áp tồn thân khơng bị cản trở trong vi cầu thận, hoặc do tăng co
mạch sau vi cầu (của tiểu động mạch đi).
1.4 TỔN THƢƠNG CƠ QUAN ĐÍCH
THA là bệnh diễn biến thầm lặng, vô cùng nguy hiểm và dai dẳng nhất, mỗi
năm gây chết 7,1 triệu người tương đương 4,5% gánh nặng bệnh tật toàn cầu, THA
14
tác hại cơ thể thông qua 2 cơ chế là tổn thương do chính huyết áp gây ra và thơng
qua thúc đẩy bệnh lý xơ vữa động mạch xuất hiện sớm và nhanh ảnh hưởng trên
nhiều cơ quan đích nhất là tim, não, thận, mắt [8]. Tỷ lệ tổn thương cơ quan đích ở
bệnh nhân THA cao hơn nhóm bệnh nhân không THA , “THA là kẻ thù của trái tim
và khối óc của bạn và của tơi”.
1.4.1. Tim
Phì đại tâm thất trái một trong những biểu hiện sớm nhất của THA lên hệ tim
mạch là dày thất trái, nhất là ở những bệnh nhân THA không được điều trị một cách
thường quy, dày thất trái là một hiện tượng thích nghi trước sự biến đổi của các yếu
tố như: tăng sức cản ngoại biên, giảm độ dãn thành mạch, dày thất trái mang lại một
ý nghĩa tiên lượng không tốt đối với bệnh nhân, gây tăng khối lượng cơ thất trái, từ
đó dẫn đến lọan nhịp: gây ngoại tâm thu thất, nhanh thất, rung thất … thiếu máu cục
bộ, nhồi máu cơ tim, cuối cùng dẫn đến suy tim như là một hậu quả tất yếu và
thường xuyên của THA.
+ Đau ngực hoặc nhồi máu cơ tim: thiếu máu cục bộ cơ tim là một biến chứng
nguy hiểm, tình trạng này xảy ra khi mạch vành bị xơ vữa và tắc hẹp, nếu nghẽn
bệnh nhân sẽ bị nhồi máu cơ tim. Dấu hiệu để biết thiếu máu cục bộ cơ tim là đau
thắt ngực, với các đặc điểm:
- Thường xảy ra khi gắng sức, làm việc nặng, xúc động mạnh, sau bữa ăn thịnh
soạn, sau khi giao hợp hoặc khi thời tiết quá lạnh, cơn đau thắt ngực xuất hiện khi
nghỉ ngơi là dấu hiện báo động tình trạng nguy hiểm, bệnh nhân cần được theo dõi
và điều trị tích cực để phịng nhồi máu cơ tim.
- Có cảm giác đau ngực trái, vùng trước địn, đơi khi chỉ thấy khó chịu. Hậu
quả của huyết áp gây suy tim là 70% [12].
+ Suy tim: Huyết áp tăng cao thường xuyên sẽ làm cho thất trái to ra, về lâu
dài sẽ bị suy tim, lúc đầu suy tim trái rồi suy tim phải và trở thành suy tim toàn bộ.
1.4.2. Não
- Cơn thiếu máu não thoáng qua: bệnh nhân đột ngột hoặc từ từ liệt nửa người
nhưng phục hồi hoàn toàn rất nhanh 1 đến 2 ngày sau. Bệnh nhân khỏi không phải
do bác sĩ mà do bệnh diễn biến tự khỏi.
15
- Nhũn não: Bệnh nhân đột ngột té, liệt nửa người, tỉnh hoặc mê, điều trị tích
cực 15 ngày đầu bệnh nhân có hy vọng phục hồi tốt, nếu điều trị chậm tổn thương
thành sẹo, khó đi lại bình thường.
- Xuất huyết não: Cơn xuất huyết não thường xảy ra đột ngột sau khi ăn tiệc, đi
tiểu nơi gió lùa… bệnh nhân đột ngột té ngã, hôn mê sâu, thở phì phị, liệt nửa
người trong những trường hợp này tử vong rất cao. Tiên lượng của chảy máu não do
THA thường nặng, phụ thuộc vào lượng máu chảy, vị trí não bị tổn thương. Nếu
máu chảy tràn ngập não thất thì thường hơn mê, trụy tim mạch, suy hơ hấp và rất dễ
tử vong.
1.4.3. Thận
Bệnh thận cấp gây tiểu máu, tăng urê máu.
Bệnh thận mạn creatinin huyết thanh > 1,5 mg/dl, protein niệu tăng.
1.4.4. Bệnh mạch máu
Giãn do phình, xơ vữa động mạch, đau khập khễnh cách hồi.
1.4.5. Bệnh lý võng mạc
Cấp: Phù gai thị, xuất huyết.
Mạn: Xuất tiết, xuất huyết, bắt chéo động mạch, mù [11].
1.5. TIẾN TRIẾN CỦA BỆNH THA [15], [47], [55]
Bệnh THA thường đi theo suốt cuộc đời còn lại kể từ khi mắc bệnh và ở giai
đoạn này bệnh thường tiến triển kéo dài trong nhiều năm nếu không được điều trị
trong một thời gian dài, bệnh khơng có triệu chứng lâm sàng, bệnh nhân phát hiện
tăng huyết áp dựa vào chỉ số huyết áp tình cờ khi đi khám một bệnh lý nào đó hoặc
đi khám sức khỏe định kỳ mới phát hiện bệnh, ở giai đoạn này rất có ý nghĩa trong
việc điều trị và dự phịng tăng huyết áp, có thể tạm thời ổn định hoặc tăng dần, có
khi chỉ tăng tạm thời nhưng rồi sẽ tăng vĩnh viễn. Nếu được điều trị và theo dõi tốt
thì HA sẽ được điều chỉnh để trở lại bình thường hay làm chậm sự diễn tiến xấu của
bệnh, hạn chế bớt những biến chứng.
Theo Tổ chức Y tế thế giới THA có 3 giai đoạn, giai đoạn I bệnh nhân khơng
có dấu hiệu khách quan về tổn thương thực thể, giai đoạn II với các tổn thương ở cơ
16
quan đích, nếu được điều trị tốt bệnh có thể phục hồi nhưng khơng hồn tồn. Sang
giai đoạn III, khi bệnh đã có nhiều biến chứng, tiên lượng trở nên nặng khó hồi
phục, dễ gây tàn phế và nguy cơ tử vong cao, phát hiện bệnh trong giai đoạn này
thường là q muộn và ít có ý nghĩa trong dự phịng THA [25], [31].
Theo một số tài liệu thì bệnh THA có thể làm giảm tuổi thọ từ 10-20 năm và
nguy cơ xảy ra biến chứng từ 7-10 năm nếu không được điều trị kịp thời hoặc điều
trị đúng phương pháp, bên cạnh đó THA cũng làm ảnh hưởng nhiều đến những sinh
hoạt hàng này, làm giảm khả năng lao động. Cho đến nay phần lớn THA chưa rõ
nguyên nhân cho nên việc điều trị THA nguyên phát là sự kết hợp chặt chẽ giữa dự
phòng bệnh tật và điều trị thuốc tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể ở từng bệnh nhân,
sự nguy hiểm ở bệnh THA không chỉ có sự liên quan tới mức độ và giai đoạn THA
mà có sự liên quan đến nhiều yếu tố khác. Một trong số đó là sự tự nhận thức về
THA của mỗi bản thân bệnh nhân là hết sức cần thiết vì điều này địi hỏi người
bệnh thường xun quan tâm đến sức khỏe của mình, hiện trạng của bệnh THA,
hồn cảnh của bản thân mình qua đó kết hợp cùng thầy thuốc để có một kế hoạch cụ
thể thích hợp nhất nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong việc dự phòng và điều trị THA
để ngăn ngừa các biến chứng, hạn chế mức độ tàn phế, cải thiện sinh hoạt và nâng
cao tuổi thọ.
1.6. ĐIỀU CHỈNH LỐI SỐNG ĐỂ LÀM GIẢM CÁC YẾU TỐ NGUY CƠ Ở
NGƢỜI BỆNH TĂNG HUYẾT ÁP
Đây là những kiến thức hết sức cần thiết và bổ ích cho tất cả những bệnh nhân
đã bị THA và có nguy cơ THA cần phải biết để có những biện pháp thay đổi lối
sống phù hợp bao gồm [19], [44]:
- Luyện tập thể dục đều đặn với cường độ trung bình.
- Giảm muối trong chế độ ăn.
- Kiểm soát cân nặng.
- Giảm uống rượu và tránh uống say.
- Ngừng hút thuốc lá.
17
1.6.1. Luyện tập thể dục đều đặn với cƣờng độ trung bình
Người bị THA nên tập thể dục, thể thao, nó làm cho người ta ăn khoẻ, ngủ
ngon, thở được nhiều oxy và tinh thần ln sảng khối. Hoạt động thể lực là nhân tố
quan trọng để sống lâu. Khoa học đã chứng minh rằng người THA không phải
kiêng thể dục thể thao mà còn phải tập luyện đều đặn hơn. Những hoạt động thể lực
tác dụng làm cho động mạch mềm mại, đàn hồi dẻo dai hơn, làm cho các tĩnh mạch
đưa máu về tim nhanh chóng và đều đặn hơn, đẩy máu nhiều hơn đến các cơ quan
quan trọng như não, phổi, thận, gan và các cơ bắp. Nhưng người THA nên chú ý
những điểm sau đây:
- Tập vừa sức mình, vừa sức chịu đựng của hệ tim mạch nghĩa là khi thấy mệt,
khó thở hoặc đau ngực thì nên ngừng, khơng được thi đấu vì khi tham gia vào cuộc
tranh tài khó lịng tự kiềm chế và phải cố gắng hết mình ngay cả khi đã mệt.
- Nhưng cũng khơng nên tập q ít, q nhẹ, thì lợi ích khơng nhiều.
- Mỗi buổi tập nên bắt đầu từ từ, ví dụ: trước khi xuống nước bơi nên làm một
vài cử động chân tay trên bờ đã. Khi tập xong cũng không nên ngồi nghỉ ngay mà
nên đi ít bước hoặc chạy chầm chậm trước khi dừng hẳn. Khởi động từ từ và kết
thúc cũng từ từ là điều quan trọng để bảo đảm hiệu quả và an toàn cho cơ thể.
- Phải tập đều đặn nếu ngày nào cũng tập là tốt nhất, nếu không cũng phải tập
ít nhất mỗi tuần 3 lần, mỗi lần khoảng 30-40 phút, tốt hơn so với tập nặng và bất
thường.
- Ngày nay các nhà khoa học còn thấy rằng vận động thân thể trong sinh hoạt
hàng ngày như lên thang gác, đi bộ, đứng lên rót nước hoặc đi lại vươn vai, tự làm
các việc vặt trong nhà cũng rất tốt cho sức khoẻ.
- Nên có bạn bè cùng tập, vừa vui, vừa động viên nhau vừa theo dõi để tập vừa
sức. Các câu lạc bộ sức khoẻ ngoài trời là một hoạt động thể lực bổ ích [20].
1.6.1.1. Đi bộ
Là cách tập nhẹ nhưng đảm bảo an toàn, muốn đạt lợi ích thực sự cho tim
mạch thì nên đi hơi nhanh, hơi rảo bước để cho tim mạch nhanh lên. Nếu thấy ra
chút mồ hôi và hơi thở gấp một chút là tốt. Có thể đi bộ nhiều lần trong ngày, mỗi
18
ngày đi rảo bước độ 30 phút là đủ, trời lạnh nên mặc đủ ấm lúc mới đi sau đó nóng
người lên thì cởi dần áo ra, chân nên đi giày vải [20].
1.6.1.2. Phương pháp đi bộ nhanh và chạy sức khoẻ
Chương trình luyện tập ở bệnh nhân cao huyết áp mang tính cá nhân và phụ
thuộc vào mức độ tăng huyết áp và các yếu tố khác. Đi bộ nhanh và chạy sức khoẻ
là phương pháp hữu hiệu làm giảm huyết áp ở những bệnh nhân có biểu hiện tăng
huyết áp độ I, II. Tuỳ theo tình trạng sức khoẻ mà người bệnh tập đi bộ nhanh, chạy
bước nhỏ hay tập luân phiên giữa đi bộ nhanh và chạy bước nhỏ, nguyên tắc tập
luyện chung là thường xuyên, liên tục và nâng dần tốc độ luyện tập.
- Phương pháp đi bộ nhanh: Tuỳ theo tình trạng sức khoẻ, người bệnh tập đi
bộ nhanh với tốc độ khác nhau, đạt 5-6 km/giờ (tốc độ của bộ đội hành quân
khoảng 4,5km/giờ). Nếu đạt được tốc độ 5-6 km/giờ tần số mạch tập luyện khoảng
100-110 lần/phút. Do cường độ vận động trong đi bộ nhanh thấp hơn so với chạy
nên số buổi tập là 5-7 buổi/tuần nghĩa là tập hằng ngày, tập mỗi buổi 40-60 phút là
đạt hiệu quả tốt. Khi đi bộ nhanh đã trở thành quen thuộc và không cịn khó nhọc
nữa thì cần tăng cường dần cường độ vận động bằng cách chuyển sang chạy nước
nhỏ để đạt được sức căng nhất định về thể lực và duy trì được hiệu quả tập luyện.
- Phương pháp chạy sức khoẻ: Đối với những người bệnh bước đầu tập chạy,
những buổi đầu tiên cần chạy với cường độ (tốc độ) thấp để cơ thể có thời gian
thích ứng dần với lượng vận động(giai đoạn này thường kéo dài khoảng 8-12 tuần).
- Trong thời gian này cần áp dụng phương pháp tập luân phiên giữa đi bộ
nhanh và chạy sức khoẻ cho đến khi cơ thể cần duy trì chạy liên tục (Chú ý những
bệnh nhân có tăng huyếp áp quá 160/90 mmHg thì tập luyện phải kết hợp với dùng
thuốc hạ huyết áp uống thuốc trước khi tập 15-30 phút) [20].
1.6.1.3. Phương pháp chạy: là cách tập luyện rất tốt cho người tăng huyết áp cũng
như cho mọi người. Mỗi buổi tập nên bắt đầu chạy chậm sau đó nhanh dần lên và
khi thấy mệt thì chạy chậm dần lại trước khi ngừng hẳn.
- Những buổi tập đầu tiên nên chạy những quãng đường ngắn vài trăm mét
hoặc người yếu thì vài chục mét cũng được, nhưng sau đó sẽ tăng dần lên đến vài
Km. Người cao huyết áp nhẹ nếu luyện tập tốt có thể chạy thong thả 10 Km hoặc
19
hơn nữa. Nên theo dõi mạch xem có quá mức không, nếu thấy mệt cũng nên nghỉ,
tuyệt đối không nên chạy thi dù quãng đường ngắn.
- Phương pháp tập trên xe đạp lực kế: Rất phù hợp cho những bệnh nhân tuổi
<45, tăng huyết áp độ I (140/90-160/95mmHg) với khả năng huyết áp cần trở về
trung gian mà không phải dùng thuốc [20].
1.6.1.4. Đi xe đạp
Đi xe đạp hàng ngày giảm huyết áp tốt hơn đi bộ.
Các nhà tim mạch hàng đầu thế giới khẳng định rằng đi xe đạp tập luyện rèn
luyện sức bền là một trong những phương pháp chữa bệnh hữu hiệu, cơ sở sinh lý
của rèn luyện sức bền ở bệnh nhân tăng huyết áp là điều hồ lượng cholesterol
máu, kìm hãm xơ vữa động mạch, làm tính đàn hồi của các mạch máu trong các cơ
hoạt động và giảm sức cản của máu ngoại biên kết quả là huyết áp giảm nhưng cần
phải nhớ rằng phải qua 2-3 tháng tập luyện thường xuyên huyết áp mới giảm nên
người bệnh cần phải có tính kiên trì khi tập luyện. Chú ý tránh đường phố nhiều xe
cộ [20].
1.6.1.5. Bơi
Là một mơn thể thao thích hợp với người THA. Chỉ cần tránh 3 điều, một là
không được thi đấu vì phải gắng sức khi đã mệt, hai là khơng được lặn vì nín hơi
lâu có thể hại cho người tăng huyết áp, ba là trời rét không nên bơi trong nước lạnh,
sợ co mạch làm huyết áp tăng. Cũng như đối với chạy cũng cần khởi động từ từ và
kết thúc từ từ, tăng dần mức bơi.
1.6.1.6 Bóng bàn, cầu lông
Là những môn thể thao nhẹ, rất an tồn cho người tăng huyết áp. Ngồi những
lợi ích đối với bơi và chạy các mơn này cịn luyện cho nhanh mắt, nhanh tay. Cười
đùa trong khi chơi có lợi lớn về tâm lý cho người bệnh THA.
1.6.1.7 Quần vợt (tennis), bóng chuyền, bóng rổ
Tuy hơi nặng hơn nhưng người THA vẫn chơi được. Tuy nhiên, phải tránh thi
đấu, nhớ theo dõi mạch để tránh quá sức, nếu cảm thấy mệt thì nên nghỉ ngay.
20
1.6.1.8 Phương pháp Yoga và luyện tập dưỡng sinh
Tập luyện Yoga và luyện tập dưỡng sinh có tác dụng làm giảm huyết áp ở
người bệnh có THA, sẽ phát triển sức khoẻ cho cơ thể, tâm thần và tinh thần, Yoga
khiến các phản xạ và phản ứng sinh lý học nhanh, nhạy hơn, thông qua rèn luyện,
hệ thống tim mạch hoạt động ổn định. Do đó yoga có vai trị quan trọng với sức
khoẻ và trường thọ. Yoga giúp phòng bệnh THA .
1.6.1.9 Những môn thể thao người tăng huyết áp khơng được tập vì dễ bất lợi là
- Tập tạ, vì cơ bắp căng thẳng kéo dài, máu khó lưu thông và huyết áp tăng lên.
- Lặn dưới nước lâu như đã nói ở trên, bắt phải nín thở, có hại cho tim.
- Leo núi .
1.6.2. Giảm muối trong chế độ ăn ở bệnh nhân bị THA
Bên cạnh việc dùng thuốc theo chỉ định của Bác sĩ, thì vấn đề ăn uống và tập
luyện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chữa trị bệnh và phòng ngừa các
biến chứng của bệnh. Trong nhiều trường hợp chỉ cần điều chỉnh chế độ ăn và tăng
cường tập luyện đã cải thiện đáng kể tình trạng bệnh.
Bệnh nhân THA cần ăn nhạt, khơng q 5-6g muối ăn/ngày. Vì ăn mặn sẽ gây
giữ nước trong máu, gây THA. Cần tránh các thức ăn chế biến sẵn như giị, chả, đồ
xơng khói, các món muối tẩm ướp, vì trong q trình chế biến thường có nhiều
muối. Khơng ăn da các loại gia súc, gia cầm. Khơng nên ăn mặn tới 15-20g
NaCl/ngày có thể làm mất hiệu quả hạ huyết áp của thuốc lợi tiểu.
1.6.3. Kiểm soát cân nặng
- Kiêng mỡ: rối loạn lipid huyết là yếu tố nguy cơ độc lập chính của bệnh
mạch vành; do đó chế độ ăn kiêng mỡ quan trọng ở bệnh nhân THA. Trong nghiên
cứu ngẫu nhiên có kiểm sốt, chế độ ăn có thay đổi tồn bộ mỡ và tỷ lệ mỡ bão hồ
và khơng bão hồ ảnh hưởng ít đến huyết áp. Lượng lớn axit béo omega-3 có thể hạ
thấp huyết áp; tuy nhiên một số bệnh nhân có cảm giác khó chịu ở bụng. Khi thấy
mình có nguy cơ thừa cân, béo phì thì cần hạn chế ăn uống, kiêng đồng thời thịt mỡ,
bánh ngọt và tinh bột . Mỗi chúng ta cần tránh mắc bệnh hội chứng chuyển hóa vì
khi có hội chứng chuyển hóa nguy cơ THA cao gấp 3,6 lần người bình thường .
21
Phải ln kiểm sốt được chỉ số khối cơ thể (BMI) chỉ nên có 18,5-22. Giảm
cân nếu có thừa cân bằng cách giảm cung cấp năng lượng bằng các chế độ ăn phù
hợp như ăn thịt nạc bỏ da, ăn các món luộc, hấp khơng ăn các món chiên, quay, xào,
uống sữa khơng có chất béo, ăn nhiều rau và trái cây… khơng ăn thức ăn ngọt, giảm
kích cỡ các bữa ăn, ăn nhiều vào buổi sáng tránh ăn nhiều vào buổi tối.
Giảm các yếu tố bất lợi trong thực phẩm như: rượu, bia, chất béo bão hòa.
Tăng cường các yếu tố thực phẩm bảo vệ các chất chống oxy hóa, chất xơ,
w-3, w6 và những thực phẩm có tính chất an thần lợi tiểu nhẹ: rau cải, cà chua, bầu,
bí, cam, khoai tây, khoai lang, đậu xanh, đậu đen…. Người THA nên thực hiện theo
chế độ ăn của DASH.
Bảng 1.4: Chế độ ăn DASH [44], [60]
Nhóm thức ăn
Hạt và các chế
Số lần
Ví dụ
ăn/ngày
7-8
phẩm từ hạt
Tầm quan trọng
Bánh mì, bánh nướng xốp, Nguồn cung cấp chất xơ
bánh mì dài, ngũ cốc, bột chủ yếu
lúa mạch.
Rau
4-5
Cà chua, khoai tây, đậu cà Giàu Kali, Magie và chất
rốt, cải xanh, rau bí, bắp xơ.
cải.
Trái cây
4-5
Táo, chuối, nho, cam, dưa Giàu Kali, magie và chất
tây, đào
Chế phẩm từ sữa
2-3
ít béo/khơng béo
Thịt gia cầm và
Váng sữa, sữa chua ít béo, Nguồn Canxi và Protein
pho mát không béo
2
Chọn phần nạc của thịt đỏ, Nguồn cung cấp Protein
gà, cá …
cá
Quả
hạch,
quả đậu
hạt
xơ
4-5
và Magie
Quả hạnh, đậu phộng, quả Nguồn cung cấp Protein
óc chó, hạt hướng dương, và Magie
đậu tây, đậu lăng
22
Thừa cân khi chỉ số khối cơ thể >27 có tương quan chặt chẽ với THA . Ở bệnh
nhân THA thừa cân thì người bệnh phải có biện pháp giảm cân, giảm cân làm tăng
hiệu quả của thuốc chống THA đang dùng và giảm đáng kể yếu tố nguy cơ tim
mạch cùng lúc như tiểu đường và rối loạn lipid huyết. Do đó, bệnh nhân THA thừa
cân cần có chương trình giảm cân có theo dõi riêng liên quan đến hạn chế calo và
tăng hoạt động thể lực. Thường thì bệnh nhân khó tuân thủ và thiếu nghị lực để thực
hiện nhưng nếu kiên trì thực hiện sẽ giảm nhiều yếu tố nguy cơ tim mạch và có hiệu
quả hơn trong điều trị THA.
1.6.4. Giảm uống rƣợu và tránh uống say
Uống nhiều rượu là yếu tố nguy cơ quan trọng của THA, có thể gây đề kháng
với điều trị tăng huyết áp, và là một yếu tố nguy cơ của tai biến mạch máu não. Nên
hỏi cặn kẽ bệnh nhân về lượng rượu tiêu thụ hàng ngày. Khuyên bệnh nhân uống
hàng ngày những thức uống chứa rượu không hơn 30ml ethanol đối với nam, 15ml
ethanol đối với nữ . Với số lượng rượu như vậy khơng làm THA mà cịn giảm nguy
cơ tim mạch. Gia THA đáng kể có thể xảy ra ở người uống nhiều rượu, huyết áp sẽ
trở lại bình thường sau vài ngày giảm rượu. Tránh uống say vì có thể xảy ra tai nạn,
đánh nhau, nơn mữa, … huyết áp có thể tăng vọt, tai biến mạch máu não, suy tim
cấp.
1.6.5. Ngừng hút thuốc lá
Để giảm tất cả nguy cơ tim mạch: ngưng hút thuốc lá là một trong các biện
pháp hiệu quả nhất để giảm các yếu tố nguy cơ tim mạch. Hút thuốc lá hoặc khói
thuốc lá do người khác hút làm tăng huyết áp, ngưng thuốc lá là giảm THA, giảm
bệnh động mạch vành và đột quỵ. Tất cả bệnh nhân THA cần được nhắc bỏ thuốc lá
ở mỗi lần khám.
1.6.6. Giảm stress - giữ vững tinh thần lạc quan
Stress gây THA [77], là yếu tố quan trọng gây ra và duy trì tình trạng THA
những liệu pháp làm giảm stress trong điều trị THA: Cần thực hiện một nếp sống
điều độ giờ giấc, mọi việc chừng mực, cân đối hài hòa, phù hợp với nhịp điệu của
thiên nhiên, cơ thể, xã hội, phù hợp tình hình động học để hình thành mỗi người giờ
23
nào việc nấy, ngày làm đêm nghỉ, tôn trọng giải lao giữa giờ hoặc các buổi nghỉ
trong tuần, năm [18].
Giáo sư Vũ Đình Hải cịn khun “Ở đời khơng ai có thể tránh hết các va
chạm căng thẳng nhưng người THA cần hơn ai hết, giảm các xúc cảm như buồn
bực, tức giận, lo lắng, sợ hãi, cần vui vẻ phấn khởi nên xen kẽ cơng việc trí óc với
chân tay, dành thì giờ cho giải trí, văn nghệ, âm nhạc, thể thao, đặc biệt là các hoạt
động ngòai trời rất có ích cho sức khỏe”.
1.7. ĐIỀU TRỊ BỆNH THA
1.7.1. Nguyên tắc điều trị
- Thay đổi lối sống (như đã nêu ở trên).
- Loại trừ các yếu tố nguy cơ.
- Dùng thuốc đơn độc hoặc kết hợp .
1.7.2. Mục tiêu điều trị THA
Bảng 1.5: Mục tiêu điều trị THA [60]
,
Các mục tiêu huyết áp được khuyến cáo
Nhóm bệnh nhân
Tổ chức
THA không biến + ĐTĐ hoặc bệnh + Suy thận với tiểu
chứng (mmHg)
đạm >1g/24h
<130/80
Hội Thận-Mỹ (2001)
thận (mmHg)
<125/75
Hội THA Anh (1999)
<140/85
<140/80
<125/75
Hội THA Châu Âu
<140/90
<130/80
<125/75
JNC VII (2003)
<140/90
<130/80
<125/75
WHO-ISH (1999)
<140/90
<130/80
<125/75
(2003)
24
Chú ý:
+ Đạt được con số HA mục tiêu <140/90mmHg. Đối với bệnh nhân đã THA
lâu năm thì mục tiêu điều trị là đưa huyết áp xuống tới mức huyết áp tối ưu hoặc
huyết áp thích nghi [18].
+ Giữ cho huyết áp khơng có những dao động lớn: Trong hồn cảnh những thay
đổi điều kiện sinh hoạt thường ngày. Đó là một mục tiêu điều trị cực kỳ quan trọng,
mục tiêu này cũng chính là làm sao cho thưa dần các cơn THA kịch phát, nói cách
khác làm sao ngưng bệnh càng dài càng tốt [18]. Điều trị bệnh THA có lợi ích [57]:
+ Tăng chất lượng cuộc sống của bệnh nhân THA.
+ Tăng sự hiểu biết về bệnh của bệnh nhân THA.
+ Điều trị THA còn nhằm vào các yếu tố nguy cơ: tim mạch, xơ vữa động
mạch… có mặt ở từng bệnh nhân THA.
+ Điều trị THA nhằm giảm sự tiến triển của bệnh, ngăn ngừa các biến chứng
và di chứng dài hạn của bệnh nhân THA ở các cơ quan đích của nó là não, tim,
thận, đáy mắt.
1.7.3. Những quy tắc trong điều trị
1.7.3.1. Khi mới phát hiện THA
Khi mới phát hiện THA ở mức nhẹ thì có thể chưa dùng thuốc hạ huyết áp
ngay. Có đề nghị để 04-06 tháng để điều chỉnh lối sống. Sau khi điều chỉnh lối sống
mà không hạ được huyết áp thì dùng biện pháp dùng thuốc.
1.7.3.2. Phương pháp điều trị THA bằng thuốc
Khi điều trị bằng thuốc cần cân nhắc mức độ THA, có hay khơng có tổn
thương cơ quan đích, có hay khơng biểu hiện lâm sàng bệnh tim và những yếu tố
liên quan khác, điều trị bằng thuốc từng bước như bậc thang, điều trị như vậy giúp
cho người bệnh không phải dùng quá nhiều thuốc cũng như không phải sử dụng liều
thuốc quá cao, hạn chế tối đa tác dụng phụ của thuốc [11]. Nghiên cứu của Nguyễn
Khánh Toàn trị số huyết áp bằng kỹ thuật đo lưu động 24h cho thấy đỉnh huyết áp
cao trong ngày vào thời điểm 9h và 20h [53] . Yếu tố này giúp người thầy thuốc sử
dụng thuốc huyết áp uống trong ngày trước khi huyết áp lên đỉnh.
25
* Nguyên tắc dùng thuốc: Theo Tổ chức Y tế thế giới [15]:
- Huyết áp nên được hạ thấp dần dần.
- Việc điều trị phải dùng theo tùy từng bệnh nhân, chú ý đến mức độ nặng của
bệnh, mức độ rối lọan huyết động và các quá trình bệnh lý quan trọng khác.
- Các thuốc kê đơn theo kiểu từng bậc bắt đầu từ bậc một thuốc trừ trường hợp
THA nặng.
- Điều trị kết hợp thuốc thích hợp hơn điều trị một thuốc với liều cao bởi vì nó
sử dụng liều lượng thấp hơn của từng thuốc riêng lẻ bởi vậy có thể ít tác dụng phụ
hơn.
- Tránh cho liều lượng không hợp lý của bất kỳ thuốc nào.
- Không nên ngừng điều trị đột ngột hoặc một loại thuốc đột ngột.
- Nên tự làm quen với một số loại thuốc nhất định và gắn bó với những thuốc
này. Thuốc mới nhất không nhất thiết là thuốc tốt nhất.
- Các thuốc khơng ảnh hưởng đến tính tình và trí tuệ là loại thích hợp hơn vì
chúng ít gây trở ngại các hoạt động hàng ngày.
- Ở hầu hết các bệnh nhân, việc điều trị phải được tiến hành liên tục lâu dài,
không hạn định. Không nên thay đổi phác đồ điều trị trừ khi thật cần thiết, việc điều
trị nên đơn giản và nếu có thể chỉ dùng một viên một ngày.
- Phải có tính kiên nhẫn và huấn luyện bệnh nhân của mình cũng như vậy.
1.7.3.3. Lợi ích của điều trị huyết áp
Những nghiên cứu lâm sàng cho thấy điều trị duy trì huyết áp ở mức bình
thường sẽ giảm tỷ lệ đột quỵ 35-40%, giảm nhồi máu cơ tim 20-25%, giảm suy tim
>50%. Ở bệnh nhân THA kèm theo đái tháo đường (HATT <130mmHg,
HATTr<80mmHg) không những giảm biến cố tim mạch mà còn giảm biến chứng
suy bệnh thận mạn của bệnh đái tháo đường [60], [61]. Ngoài ra điều trị huyết áp
tâm trương liên quan đến Cholesterol và tỷ lệ đột quỵ [86].
* Chú ý: Bệnh nhân THA khơng nên có những sai lệch thường gặp như:
+ Khơng chữa trị: Một số người bệnh thấy khỏe mạnh, sinh hoạt bình thường,
huyết áp khá ổn định thì bỏ khơng uống thuốc.