Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Tài liệu môn quan hệ quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.23 KB, 2 trang )

MÔN : QUAN HỆ QUỐC TẾ

Câu hỏi : Văn kiện Đại hội lần thứ IX
của Đảng Cộng sản Việt Nam nêu rõ
: “ CNXH trên thế giới từ những bài
học thành công và thất bại cũng như
từ khát vọng và sự thức tỉnh của các
dân tộc , có điều kiện và khả năng
vượt qua sự thoái trào, tạo ra bước
phát triển mới. Theo qui luật tiến hóa
của lịch sử , loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới CNXH”
Đồng chí hãy phân tích và làm rõ
nhận định trên.
Bài làm
Cách mạng tháng 10 Nga thành
công đã mở ra trên thế giới một thời
đại mới - thời đại quá độ từ CNTB
lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là
một tất yếu lịch sử, đây là biểu hiện
sự vận động không ngừng tiến lên
phù hợp với quy luật phát triển của
lịch sử xã hội loài người, đã được
Mác-Lênin khẳng định trong lý luận
về hình thái kinh tế - XH và thực tiễn
đã chứng minh bằng sự thành công
của Cách mạng tháng 10 Nga mở ra
một thời đại mới – CNXH lần đầu
tiên xuất hiện trên thế giới, nhà nước
XHCN đầu tiên của nhân loại ra đời


mà ở đó xóa bỏ bất công, giải phóng
giai cấp vô sản, phù hợp với lợi ích,
nguyên vọng của đông đảo quần
chúng nhân dân lao động. Từ đây,
giai cấp vô sản trên thế giới đã tìm ra
cho mình một con đường mới, sứ
mệnh lịch sử đặt lên vai giai cấp vô
sản nhiệm vụ là phải làm cách
mạng lật đổ giai cấp tư sản, xây
dựng CNXH trên toàn thế giới. Đây
là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, đầy
chông gai thử thách, qua nhiều
chặng đường có lúc thành công, đôi
khi thất bại nhưng cuối cùng lòai
người cũng sẽ đi lên CNXH vì đó là
quy luật phát triển của xã hội. Nội
dung này đã được Mác chỉ rõ trong
Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản : “
Sự diệt vong của CNTB và thắng lợi
của CNCS đều tất yếu như nhau”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khẳng
định : Cách mạng tháng Mười mở
ra con đường giải phóng cho các
dân tộc và cả loài người mở đầu thời
đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ
từ CNTB lên CNXH trên toàn thế
giới” (HCM toàn tập, NXB Sự Thật,
Hà Nội, 1989, TR.594).
CNXH từ sau thắng lợi của cách
mạng tháng 10 Nga đã phát triển

qua các giai đoạn khác nhau, Giai
đoạn thứ nhất, từ năm 1917 đến
những năm sau chiến tranh thế giới
thứ II với đặc trưng chủ yếu là thiết
lập một nước XHCN, với tính chất là
một hệ thống đối lập với với thế giới
cũ; kế đến từ cuối những năm 40
đến đầu năm 1970, giai đoạn này
đặc trưng chủ yếu là hình thành hệ
thống XHCN thế giới; Giai đoạn thứ
ba, bắt đầu từ giữa những năm 1970
đến nay. Đây là quản thời gian
CNXH được thử thách tính ưu việt
trước lịch sử loài người, trong điều
kiện tồn tại hai hệ thống XH đối lập.
Đặc biệt, sau sự sụp đổ của hệ
thống XHCN ở Đông Âu và Liên Xô,
CNXH thế giới lâm vào khủng hỏang
theo quan điểm của Đảng ta là:
CNXH tạm thời lâm vào thoái trào đã
làm cho thành trì hoà bình trên thế
giới bị suy yếu, các nước độc lập
dân tộc tỏ ra mất phương hướng,
cục diện thế giới diễn biến phức tạp
nghiêng về lợi thế cho CNTB. Phong
trào cộng sản và công nhân quốc tế
đã khủng hoảng cả chính trị, tư
tưởng và tổ chức, uy tín của các
Đảng CS giảm sút, nội bộ tự phân
hoá chia rẽ. CNTB tự điều chỉnh tìm

cách thích nghi, đang đưa đến sự
phát triển mới.
Tuy nhiên, cần phải khẳng định
rằng sự sụp đổ này không thuộc về
bản chất của CNXH khoa học mà là
sự khủng hoảng của một mô hình xã
hội, cụ thể mô hình đó đã chứa đựng
những biểu hiện của xã hội không
tưởng, chủ quan duy ý chí, bất chấp
qui luật khách quan chậm được phát
hiện khắc phục trong quá trình xây
dựng CNXH cùng với sự phá họai từ
bên trong của những phần tử biến
chất nắm các vị trí chóp bu trong
Đảng mà đứng đầu là Gooc – ba -
chóp. Bởi vì bên cạnh sự sụp đổ của
Đông Âu và Liên Xô cũng đã có
những nước XHCN cải cách đổi mới
giành được những thành tựu bước
đầu quan trọng: Trung Quốc, Việt
Nam và nhiều nước trên thế giới
theo xu hướng XHCN. Ngay cả ở
các nước XHCN trước đây đã sụp
đổ nay nhân dân đã thức tỉnh, tiếc
nuối cho CNXH và ngày càng tham
gia tích cực vào cuộc đấu tranh mới,
nhiều Đảng CS trở lại vai trò lãnh
đạo: Bungari, Mông Cổ, Ba Lan …
Cả một số quan chức lãnh đạo ở Mỹ
cũng đã thừa nhận hiện nay có gần

20 quốc gia theo xu hướng XHCN
và chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn còn
sức sống cao ở nhiều trường đại
học Mỹ. Hơn nữa, ý thức đông đảo
nhân dân các nước kể cả các nước
tư bản phát triển cũng ngày càng
không thể chấp nhận những bất
công, những tệ nạn xã hội do CNTB
hiện đại gây ra.
Do vậy, quá trình CM XH với nội
dung của nó là đấu tranh cho độc lập
dân tộc, dân chủ và CNXH từ sau
Cm tháng Mười đến nay lại đang
diễn ra với qui mô và tốc độ khác
nhau, quá trình đó thực chất là quá
độ từ CNTB lên CNXH. CNXH mà ta
nói ở đây không phải là CNXH theo
mô hình cũ mà CNXH được đổi mới,
thực sự khoa học, kế thừa những
giá trị tích cực trong CNTB.
Cùng quá trình cách mạng XH này,
một quá trình cách mạng mới - CM
khoa học – công nghệ cũng đang
diễn ra mạnh mẽ tạo những bước
đột phá kỳ diệu phi thường, trên
nhiều lĩnh của đời sống xã hội mà
đặc biệt khoa học vũ trụ, công nghệ
sinh học, công nghệ thông tin. Làm
tăng lên mạnh mẽ những mối liên
hệ, sự tác động lẫn nhau của các

khu vực, các quốc gia, các dân tộc
trên toàn thế giới vế các mặt kinh
tế ,XH, VH, CT, KH-KT, công nghệ
hình thành nên quá trình toàn cầu
hóa.
Thật vậy, xu thế toàn cầu hóa ngoài
tác động tích cực tạo ra cơ hội và
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của các quộc gia, dân tộc còn có thể
gây ra những tác động tiêu cực đối
với các quộc gia dân tộc nhất là các
nước đang phát triển đòi hỏi các
nước phải nêu cao tinh thần tự lực,
tự cường đấu tranh chống lại sự can
thiệp, áp đặt của nước ngoài với xu
hướng hòa bình, ổn định, hợp tác để
phát triển. Nhìn từ chiều sâu, toàn
cầu hóa tự nó hàm chứa một cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
Đại hội IX của Đảng xác định đúng
đắn rằng : “chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế và khu vực theo tinh thần
phát huy tối đa nội lực , nâng cao
hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng
XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc giữ
vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc,bảo vệ môi
trường” (Báo cáo chính trị Đại hội
IX).

Bỡi lẽ, tính ưu việc của Chủ nghĩa
xã hội không chỉ được vạch rõ trong
cương lĩnh, đường lối xây dựng đất
nước mà nó đã được lịch sử minh
chứng, những thành tựu mà Liên Xô
đạt được thật đáng tự hào trên tất cả
các lĩnh vực : chính trị, văn hóa, kinh
tế –xã hội, khoa học xã hội và đặc
biệt đã xây dựng được một chế độ
cho người lao động, họ đã thật sự là
người làm chủ đất nước. Đó là, trong
một thời gian ngắn Liên Xô vươn lên
trở thành một cường quốc về kinh tế
và quân sự đủ sức đánh bại chủ
nghĩa phát xít trong chiến tranh thế
giới thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi
cho hàng loạt nước đi lên CNXH.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, chỉ
sau một thờI gian không dài các
nước XHCN đã xây dựng được một
nền kinh tế khá phát triển. Nếu chỉ
so sánh hai nước Liên Xô và Mỹ
đứng đầu hai khối trong cùng một
thời gian nhất định (1985) về tổng
sản lượng công nghiệp thì Liên Xô
có tốc độ tăng trưởng cao hơn. Về
kinh tế 1985 các nước xã hội chủ
nghĩa chiếm 43% kinh tế toàn thế
giới, năng suất lao động dần dần cân
bằng với các nước công nghiệp,

quân sự tạo được thế cân bằng,
mức sống của nhân dân được nâng
lên. Các nước XHCN cũng đạt được
những thành tựu rực rỡ trong một số
ngành khoa học, đặc biệt là trong
ngành nghiên cứu và chinh phục vũ
trụ.
Song bên cạnh đó CNXH mắc
phải hàng lọat những sai lầm nghiêm
trọng kéo dài về chính trị, kinh tế, xã
hội, về bước đi trong quá trình đổi
mới đã làm suy sụp cả hệ thống mà
bắt đầu từ Liên xô và các nước
Đông âu. Đó là :
Về chính trị: Vấn đề dân chủ trong
thời gian dài không thực hiện đúng,
đầy đủ bản chất nền dân chủ theo
chủ nghĩa Mac – Lênin mà thực hiện
nền dân chủ hình thức, cắt xén thậm
chí giả dối. Vai trò lãnh đạo của Đảng
còn nhiều hạn chế sai lầm chưa làm
tròn vai trò của người chiến sĩ tiên
phong, còn giáo điều, rập khuôn,
trong công tác tổ chức cán bộ còn
mắc phải nhiều sai lầm trong việc bố
trí những phần tử phá họai vào vị trí
chốp bu.
Về lý luận: Đã biểu hiện sự lạc hậu,
yếu kém, tổ chức bộ máy cồng kềnh
hoạt động kém hiệu quả, chế độ

trách nhiệm không rõ ràng, nghị
quyết ra nhiều nhưng làm ít, công tác
kiểm tra thiếu kịp thời, xử lý chưa
nghiêm minh, thậm chí cấp trên nói,
cấp dưới không nghe. Nhà nước ở
các nước XHCN vừa qua chưa thể
hiện đúng là nhà nước của dân, do
dân và vì dân. Nhà nước không điều
hành và quản lý bằng pháp luật mà
nhà nước mất dân chủ đối với nhân
dân lao động, hoạt động còn chồng
chéo trong các cơ quan giữa hành
pháp và lập pháp, lẫn lộn chức năng
quản lý nhà nước với quản lý sản
xuất kinh doanh, chưa phát huy hết
quyền tự chủ trong sản xuất kinh
doanh, tệ tham nhũng, nạn mất dân
chủ còn diễn ra ở nhiều nơi, nhiều
vấn đề gây phiền hà cho nhân dân.
Đặt biệt trong quá trình đổi mới, con
đường hướng đi không phù hợp,
giải quyết không đúng mối quan hệ
giữa kinh tế và chính trị trong quá
trình cải tổ nên cái giá mà họ trả là
rất đắt.
Về kinh tế: Sai lầm trong chế độ sở
hữu, thời gian dài không thực hiện
đúng và đầy đủ những bản chất,
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác
– Lênin về chế độ sở hữu mà dùng

biện pháp nhà nước ép buộc cưỡng
bức chạy theo chỉ tiêu pháp lệnh.
Nên nhiều vấn đề mấu chốt và thiết
yếu nhất của cuộc sống nhân dân
(ăn, mặc, ở) vẫn chưa được giải
quyết đầy đủ; chưa có những thay
đổi sâu sắc và triệt để trong phương
thức phát triển; tình trạng mất cân đối
trong nền kinh tế ngày càng trầm
trọng; nhiệt tình lao động và năng lực
sáng tạo, tài nguyên và các nguồn
lực chưa được khai thác, phát huy
đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. Nhìn
tổng quát, nền kinh tế của hệ thống
các nước XHCN thiếu năng động và
kém hiệu quả. Những mất cân đối và
nguy cơ bất ổn định tiềm tàng trong
đời sống kinh tế - xã hội bị tích nén
lại Tình trạng thiếu hụt kinh niên làm
gia tăng các căng thẳng trong đời
sống xã hội. Lòng tin của quần
chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng
và sự điều hành của Nhà nước giảm
sút.
Về sản xuất hàng hoá: Mắc phải
sai lầm là chưa nhận đúng về bản
chất nền kinh tế thị trường, nền sản
xuất hàng hoá mà chỉ lập luận giáo
điều để cho rằng trong CNXH không
tồn tại nền sản xuất hàng hoá qua đó

phủ định sạch trơn các yếu tố thị
trường, sản xuất hàng hóa làm triệt
tiêu động lực sản xuất dẫn đến nền
kinh tế chậm phát triển.
Về chế độ phân phối : cũng mắc phải
sai lầm, khuyết điểm không thực
hiện phân phối theo lao động mà
thực hiện theo phân phối cấp bậc và
kèm theo chủ nghĩa bình quân.
Về quan hệ kinh tế đối ngoại: Thì
chỉ quan hệ một chiều dựa vào sự
giúp đỡ một bên chứ không phải
quan hệ đôi bên cùng có lợi, từ đó
làm nảy sinh sự trông chờ, ỷ lại và
thực hiện nền kinh tế khép kín, cách
biệt với nền kinh tế thế giới, chỉ biết
quan hệ trong các nước XHCN mà
thôi, chứ không cần quan hệ với các
nước TBCN tức là CNXH đã ngủ
quên trên những biến động của xã
hội, say sưa với chiến thắng, thoả
mãn với chế độ XHCN. CNXH đã
mắc sai lầm biệt lập, đóng cửa với
nền kinh tế thế giới. Do vậy, không
tiếp thu được những thành tựu mới
nhất của cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Mặt khác, các
nước XHCN đóng khung các quan
hệ kinh tế giữa các nước XHCN với
nhau đi ngược lại xu thế quốc tế hoá,

toàn cầu hoá của nền kinh tế thế
giới, làm cho nền kinh tế của các
nước XHCN không thể phát triển
được.
Hơn nữa với chủ trương tiến
nhanh lên CNXH nên chỉ tập trung
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng,
công nghệ vũ trụ dẫn đến trong
thời gian dài đã không chú trọng
đúng mức tới các ngành khoa học
ứng dụng, nên sản phẩm tiêu dùng
khan hiếm hoặc chất lượng thấp khi
mở cửa thì không đủ sức cạnh tranh;
chế độ đãi ngộ không phù hợp, chưa
sử dụng đúng mức đội ngũ trí thức.
Từ đó dẫn đến tình trạng chảy máu
chất xám từ các quốc gia XHCN
sang các nước TBCN.
Chính những nguyên nhân trên
đây đã làm cho CNXH lâm vào
khủng hỏang và sụp đổ ở các nước
Đông âu và Liên xô. Kéo theo àn
sóng chống chủ nghĩa xã hội và xét
lại các giá trị của cuộc cách mạng
Tháng Mười Nga và các học thuyết
Mác-Lênin trên tòan thế giới.
Toàn bộ tình hình trên đây, ở trong
cũng như ngoài nước đã tác động
đến Việt Nam về cả hai phương
diện. Một mặt, nó đòi hỏi phải đổi

mới tư duy phát triển, đặt trọng tâm
vào phát triển kinh tế theo một
phương thức mới. Mặt khác, nó tạo
ra các cơ hội và điều kiện để sự thay
đổi đó diễn ra thuận lợi. Cùng với
tiến trình phát triển của xã hội loài
người, từ lý luận của Mác-Lênin và
tình hình cách mạng thế giới, Đảng
ta vẫn khẳng định: “ Đảng và nhân
dân ta quyết tâm xây dựng đất nước
VN theo con đường XHCN trên nền
tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh . Đó là điểm khởi
đầu cả về lịch sử lẫn lý luận của quá
trình đổi mới của chúng ta.
Đảng ta nhận định thời đại ngày
nay là thời đại quá độ lên CNXH trên
tòan thế giới, xu thế nổi bật của thời
đại là sự đan xen giữa chủ nghĩa tư
bản và chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
xã hội sẽ ngày càng mạnh hơn và
mở rộng từ một ra nhiều nước còn
chủ nghĩa tư bản thì ngày càng suy
yếu và thu hẹp . Đó là xu thế chung
có tính quy luật xuyên suốt thời đại.
Thời đại ngày nay vẫn tồn tại 04
mâu thuẫn cơ bản : Mâu thuẫn cơ
bản nhất đó là mâu thuẫn giữa chủ
nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội,
mâu thuẫn này xuyên suốt thời đại;

Mâu thuẫn thứ hai: đó là mâu thuẫn
giữa công nhân và chủ nghĩa tư bản.
Trước đây là bóc lột sức lao động,
hiện nay vẫn bóc lột nhưng tinh vi
hơn, bằng cách điều chỉnh các chính
sách xã hội, chính sách bán chịu trả
dần. Lợi dụng thành tựu khoa học kỹ
thuật, công nghệ để bóc lột cao hơn,
tinh vi hơn; Mâu thuẫn thứ ba: đó là
mâu thuẫn giữa các nước đế quốc
và các nước độc lập dân tộc chuyển
thành mâu thuẫn giữa các nước tư
bản phát triển và các nước tư bản
đang phát triển. Chúng bóc lột tinh vi
hơn, đó là chính sách siêu công
nghiệp thực dân kiêu mới, thông qua
hợp tác, đầu tư, hợp tác dây chuyền
sản xuất. Có độc lập chủ quyền
nhưng vẫn bị bóc lột. Ví dụ ở Việt
Nam trong các khu chế xuất sự bóc
lột êm dịu tinh vi, giá nhân công rẻ
mạt, nhưng so với mức sống ở Việt
Nam thì ban đầu có thể chấp nhận
được. Hiện nay Đảng và Nhà nước
ta có qui định mới về tiền lương để
đảm bảo quyền lợi cho người lao
động Việt Nam; Mâu thuẫn thứ tư:
đó là mâu thuẫn giữa các nước tư
bản là lợi ích và tranh giành, ảnh
hưởng ví dụ giữa Mỹ và Nhật Bản

tranh về thương mại, ô tô. Mỹ và các
nước Tây âu về nông sản, hải sản.
Chủ nghĩa tư bản chông chủ nghĩa
tư bản, mặc dù chúng thống nhất với
nhau về việc mâu thuẫn với chủ
nghĩa cộng sản.
Do vậy, Đổi mới là sự lựa chọn
cách mạng nhằm mục tiêu phát triển
của CNHX trên thế giới. Riêng ở Việt
Nam Nhận thức được những sai
lầm trên, từ ĐH Đảng lần VI (1986)
Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi
mới toàn diện tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trong đó có mọi
phương hướng đổi mới phải xuất
phát từ thực tiễn như Văn kiện Đại
hội VI của Đảng đã xác định “Đảng
phải luôn luôn xuất phát từ thực tế,
tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan”. Đại Hội Đảng lần IX
cũng đã nhấn mạnh “Tiến hành đổi
mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc
sống xã hội Việt Nam, tham khảo kinh
nghiệm tốt của thế giới, không sao
chép bất cứ một mô hình có sẵn
nào…” (Văn kiện Đại hội Đảng công
sản Việt Nam lần thứ IX, NXB
CTQG, HN-2001, tr 81).
Những nhận định trên của Đảng
chính là sự tiếp thu và vận dụng

đúng đắn quan điểm của Hồ Chí
Minh về cách mạng XHCN phải lấy
thực tế làm điểm xuất phát để xác
định phương hướng, mục tiêu nhiệm
vụ của cách mạng, kết hợp chặt chẽ
giữa lý luận và thực tiễn để xác định
chủ trương, chính sách. Theo quan
điểm của người, việc học tập và vận
dụng kinh nghiệm tốt, những mô
hình hiệu quả trong công cuộc xây
dựng đất nước của các nước XHCN
trên thế giới giúp chúng ta đỡ mò
mẫm, đỡ phạm những sai lầm của
người đi trước. Nói cách khác,
những tìm kiếm, phát triển lý luận về
CNXH, con đường và các giải pháp
xây dựng CNXH ở mỗi nước có thể
là kinh nghiệm tham khảo chứ không
thể áp dụng máy móc, rập khuôn.
Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh rằng
“phải có sự kết hợp biện chứng giữa
việc chú trọng đặc điểm riêng của
dân tộc với giá trị phổ biến trong kinh
nghiệm các nước”. Người chỉ rõ “đặc
điểm to nhất của ta trong thời kỳ quá
độ là từ một nước nông nghiệp lạc
hậu tiến thẳng lên CNXH, không
phải kinh qua giai đoạn phát triển
TBCN”, vì vậy Người nhắc nhở rằng
“đứng về mặt xây dựng CNXH, tuy

chúng ta đã có những kinh nghiệm
dồi dào của các nước anh em,
nhưng chúng ta cũng không thể áp
dụng những kinh nghiệm ấy một
cách máy móc, bởi vì nước ta có
những đặc điểm riêng của ta”. Xuất
phát từ thực tế nước ta và quy luật
về quan hệ sản xuất - lực lượng sản
xuất, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ trong giai
đoạn quá độ đi lên CNXH, sự tồn tại
của nhiều thành phần kinh tế với
nhiều hình thức sở hữu khác nhau là
tất yếu, do đó cần phải duy trì nhiều
hình thức quản lý, phân phối khác
nhau. Theo người, chúng ta bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa bởi đó là
chế độ áp bức, bóc lột, nô dịch con
người. Song, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa không có nghĩa là vứt bỏ
mọi thành tựu văn hoá, văn minh mà
nhân loại đã đạt được trong chủ
nghĩa tư bản; những thành tựu đó
cần được tiếp thu, khai thác vì sự
thành công của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội.
Chính những mâu thuẫn cơ bản
trên, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
những đường lối và chủ trương đổi
mới kịp thời, đáp ứng được sự phát
triển của đất nước trong tình hình

mới, chống lại những âm mưu “ diễn
biến hòa bình “ của Mỹ, đẩy lùi từng
bước và giành thắng lợi trước những
âm mưu lật đổ, âm mưu can thiệp
vào công việc nội bộ để đất nước ta
ổn định về chính trị, phát triển về kinh
tế, đạt được nhiều thành tựu to lớn
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc.
Yêu cầu nhiệm vụ đặt ra cho các
Đảng CS cầm quyền và nhà nước
XHCN là phải mở rộng và phát huy
dân chủ tạo điều kiện cho nhân dân
phát huy tích cực sáng tạo trong
công cuộc xây dựng CNXH. Muốn
vậy, phải cương quyết khắc phục
những sai lầm đã kiềm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội, xây dựng mối
quan hệ mới trong hệ thống chính trị.
Tăng cường giáo dục lối sống theo
phương châm: Sống và làm việc
theo hiến pháp và pháp luật, giữ gìn
kỷ cương và trật tự xã hội.
Về kinh tế: Vấn đề hàng đầu của
công cuộc đổi mới là sự thay đổi cơ
chế quản lý bằng mệnh lệnh, tập
trung, hành chánh bao cấp sang cơ
chế thị trường, có sự quản lý của
nhà nước theo định hướng XHCN
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nhiệm

vụ này phải tiến hành ở tất cả các
khâu của nền kinh tế, đa dạng hoá
hình thức sở hữu. Trong đó sở hữu
nhà nước và tập thể giữ vai trò nền
tảng, đổi mới quan hệ kinh tế đối
ngoại trên nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi, giữ vững độc lập, tự chủ.
Về xã hội: Phải thật sự quan tâm
đến vấn đề con người, con người
vừa là mục đích, vừa là động lực
thực hiện công cuộc đổi mới đảm
bảo công bằng và tiến bộ xã hội.
Qua những thành công và thất bại
trong cải tổ, đổi mới CNXH đã giúp
cho các Đảng CS rút ra được những
bài học kinh nghiệm để tiếp tục quá
trình cải tố, đổi mới CNXH giành
thắng lợi. ĐH VIII đã rút ra 6 bài học
kinh nghiệm :
Thứ nhất là bài học về giữ vững mục
tiêu độc lập dân tộc và CNXH trong
quá trình đổi mới, nắm vững hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, kiên trì chủ nghĩa
Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính
trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm
đồng thời từng bước đổi mới.
Thứ ba, xây dựng nền kinh tế hàng

hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, đi đôi với
tăng cường vai trò quản lý của nhà
nước theo hướng XHCN. Tăng
trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội, giữ gìn và phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái.
Thứ tư, mở rộng và tăng cường
khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy
sức mạnh của cả dân tộc.
Thứ năm, mở rộng hợp tác quốc
tế tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và
giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết
hợp với sức mạnh của cả dân tộc
với sức mạnh của thời đại.
Thứ sáu, Tăng cường vai trò lãnh
đạo của Đảng, coi xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt.
Tiếp tục khẳng định sự đúng đắn
trong lý luận và bổ sung những nét
mới nảy sinh từ thực tiển, ĐH IX của
Đảng ta đã tổng kết chặng đường
gần 20 năm đổi mới đã rút ra bài học
kinh nghiệm sau:
Một là, trong quá trình đổi mới phải
kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH trên nền tảng chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đứng trước những khó khăn thử

thách, những biến động phức tạp
của tình hình thế giới và khu vực,
Đảng ta luôn kiên định xây dựng và
thực hiện các chủ trương, chính
sách đổi mới đúng đắn, phát huy
những truyền thống quí báu của dân
tộc và những thành tựu cách mạng
đã đạt được giữ vững độc lập dân
tộc, vững bước đi lên CNXH.
Hai là, đổi mới phải dựa vào dân vì
lợi ích của dân, phù hợp với thực
tiễn luôn luôn sáng tạo. Tiến hành đổi
mới xuất phát từ thực tiễn và cuộc
sống của xã hội VN, tham khảo kinh
nghiệm tốt của thế giới, không sao
chép bất cứ một mô hình có sẵn
nào, đổi mới toàn diện đồng bộ và
triệt để với những bước đi hình thức
và cách làm phù hợp. Có những
điều chỉnh bổ sung và phát triển cần
thiết về chủ trương, phương pháp,
biện pháp linh hoạt sáng tạo, nhạy
bén nắm bắt cái mới, tận dụng thời
cơ, khắc phục sự trì trệ làm chuyển
biến tình hình.
Nhân dân tích cực thực hiện đổi
mới trên mỗi lĩnh vực tạo ra nhiều
điển hình tiên tiến, kinh nghiệm hay
và nhân tố mới, từ đó Đảng có cơ sở
để tổng kết thực tiễn và phát triển lý

luận, đẩy mạnh công cuộc đổi mới.
Đổi mới là sự nghiệp của nhân dân,
do dân và vì dân. Để công cuộc đổi
mới thành công phải động viên được
mọi tầng lớp nhân dân và các thành
phần kinh tế khác tham gia.
Ba là, đổi mới phải kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh của thời
đại. Công cuộc đổi mới diễn ra vào
lúc cách mạng khoa học công nghệ
trên thế giới phát triển như vũ bão,
toàn cầu hoá kinh tế ảnh hưởng đến
cuộc sống các dân tộc, cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội
diễn ra sôi nổi. Tiến hành đổi mới
nhân dân ta ra sức tranh thủ tối đa
cơ hội tốt do những xu thế nói trên
tạo ra.
Bốn là, đường lối đúng đắn của
Đảng là nhân tố quyết định thành
công của sự nghiệp đổi mới. Đảng
khởi xướng và lãnh đạo công cuộc
đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, hoàn thiện đường lối đổi
mới, thường xuyên xây dựng, chỉnh
đốn Đảng tạo ra sự thống nhất về
quan điểm ý chí và hành động trong
toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực
hiện xây dựng và kiện toàn bộ máy

nhà nước trong sạch vững mạnh.
Tóm lại: Con đường của CNXH
từ lý luận đến thực tiễn là con đường
chưa từng được khai phá, đầy gian
nan, thử thách, nhưng nó đã đạt
được nhiều thành tựu to lớn, trong
nhiều thập niên qua đã được coi là
thần kỳ với những thành quả quí báu
mà một phần nhân loại đã được
hưởng, song CNXH cũng đã trải qua
những vấp váp, thất bại, thậm chí đổ
vỡ ngay chính quê hương của Cách
mạng tháng Mười. Mặc dù CNXH
hiện nay đang đứng trước nhiều khó
khăn thử thách to lớn. Song CNXH
vẫn tiếp tục duy trì củng cố xây dựng
ở một số nước. Qua những năm cải
tổ, đổi mới, một số nước XHCN đã
có những chuyển biến tích cực đạt
những thành tựu quan trọng trên các
lĩnh vực của đời sống xã hội, có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các Đảng CS
và công nhân ở các nước XHCN đã
đổ vỡ. Ở các nước này hiện nay
đang có sự chuyển biến tích cực trên
con đường phục hồi về tổ chức và
hoạt động của các Đảng CS, điều
này càng chứng tỏ rằng CNXH có
sức thu hút mạnh các lực lượng tiến
bộ của thời đại với tư cách là một

chế độ xã hội văn minh nhất trong
lịch sử, đại diện cho lực lượng sản
xuất phát triển trong tương lai của xã
hội loài người.

×