Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (722.94 KB, 77 trang )

MỤC LỤC
M C L CỤ Ụ 1
DANH M C CÁC T VI T T TỤ Ừ Ế Ắ 3
DANH M C B NGỤ Ả 4
L I NÓI UỜ ĐẦ 5
CH NG 1ƯƠ 11
C S LÝ LU N V CH NH SÁCH H TR I M I CÔNG NGH CHO DOANH Ơ Ở Ậ Ề Í Ỗ ỢĐỔ Ớ Ệ
NGHI P NH VÀ V AỆ Ỏ Ừ 11
1.1 Công ngh v i m i công nghệ à đổ ớ ệ 11
1.1.1 Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ 11
1.1.2 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đến sự phát triển kinh tế -
xã hội và doanh nghiệp nhỏ và vừa 14
1.1.3 Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ của doanh nghiệp
nhỏ và vừa 20
1.2 Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ 21
1.2.1 Khái niệm và vai trò của chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ 21
1.2.2 Mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN 22
1.2.3 Nội dung chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ 23
1.2 Các tiêu chí ánh giá chính sách h tr i m i công nghđ ỗ ợ đổ ớ ệ 28
1.3 M t s kinh nghi m qu c t v h tr DNNVV i m i công nghộ ố ệ ố ế ề ỗ ợ đổ ớ ệ 30
1.3.1 Nhật Bản 30
1.3.2 Hàn Quốc 31
1.3.3 Mỹ 32
1.2.4 Trung Quốc 32
1.2.5 Philippines, Indonexia và Thái Lan 33
1.2.6 Một số bài học kinh nghiệm quốc tế về chính sách hỗ trợ DNNVV đổi
mới công nghệ 33
CH NG 2ƯƠ 37
TH C TR NG CH NH SÁCH H TR I M I CÔNG NGH CHO DNNVV VI T Ự Ạ Í Ỗ ỢĐỔ Ớ Ệ Ở Ệ
NAM 37
2.1 S hình th nh chính sách h tr i m i công ngh ự à ỗ ợ đổ ớ ệ 37


2.1.1 Chủ trương, đường lối của Đảng về hỗ trợ đổi mới công nghệ 37
2.1.2 Thể chế hóa đường lối chính sách thành pháp luật về đổi mới công nghệ
40
2.2 Th c tr ng chính sách h tr MCN cho DNNVVự ạ ỗ ợ Đ 42
2.2.1 Thực trạng ĐMCN của các doanh nghiệp Việt Nam 42
2.2.2 Thực trạng chính sách phát triển thị trường công nghệ 44
2.3 ánh giá chính sách h tr DNNVV i m i công nghĐ ỗ ợ đổ ớ ệ 47
2.3.1 Những ưu điểm của chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ 47
2.3.2 Những hạn chế, bất cập trong quá trình đổi mới công nghệ 50
2.3.3 Nguyên nhân những hạn chế của chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ52
CH NG 3ƯƠ 61
2
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CGCN Chuyển giao công nghệ
2 CIEM Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương
3 CN Công nghệ
4 ĐMCN Đổi mới công nghệ
5 DNNVV Doanh nghiệp nhỏ và vừa
6 ESCAP
Ủy ban kinh tế và xã hội khu vực Châu á Thái
Bình Dương
7 FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài
8 GSO Tổng cục thống kê
9 KH&CN Khoa học và công nghệ
10 NISTPASS
Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học và
Công nghệ
11 OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
12 R&D Nghiên cứu và triển khai

13 QLNN Quản lý nhà nước
14 TFP Năng suất yếu tố tổng hợp
15 VCCI Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
16 WEF Diễn đàn kinh tế thế giới
3
DANH MỤC BẢNG
STT Số hiệu Nội dung Trang
1 1.1 Đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng
TFP của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2008
15
2 1.2 Phân loại các hình thức lan tỏa công nghệ 16
3 1.3 Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa 18
4 2.1 Kết quả khảo sát ý kiến chuyên gia, nhà khoa học
về đầu tư nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ.
50
DANH MỤC HÌNH VẼ
STT Số hiệu Nội dung Trang
1 1.1 Tốc độ tăng GDP, vốn, lao động và TFP giai đoạn
2001-2000
14
2 2.1 Những chủ thể tham gia xây dựng, thực hiện chính
sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
39
3 2.2 Các bước cơ bản để điều chỉnh chính sách từ sáng
kiến của đối tượng chính sách
40
4 2.3 Các bước cơ bản để điều chỉnh chính sách từ sáng
kiến của đối tượng ban hành, thực hiện chính sách
40

5 2.4 Chiến lược nâng cấp của các doanh nghiệp 42
6 2.5 R&D và cải tiến công nghệ 52
7 2.6 Huy động vốn cho cải tiến công nghệ 53
4
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng, Nhà nước ta đặt mục tiêu “Phát triển mạnh mẽ khoa học và
công nghệ, làm cho khoa học và công nghệ thực sự là động lực quan trọng
nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi
trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và là nước công nghiệp hiện
đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI” [1].
Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020
cũng khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ đối với lực
lượng sản xuất “khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ đạo để tạo
được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng
trưởng, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [18].
Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của ngày 30/6/2009
về trợ giúp phát triển DNNVV trong đó có các cơ chế, chính sách nhằm hỗ
trợ phát triển DNNVV trong các lĩnh vực: tài chính, tín dụng; đổi mới, nâng
cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; phát triển nguồn lực; mặt bằng
sản xuất kinh doanh; xúc tiến mở rộng thị trường. Đặc biệt, ngày 10/5/2011,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê
duyệt chương trình ĐMCN quốc gia đến năm 2020, trong đó mục tiêu của
chương trình đến năm 2015 là số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng
trung bình 10% và đến năm 2020 số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN
tăng trung bình 15%, trong đó có 5% doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
cao. Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức hiệp hội cũng như cộng đồng các

nhà tài trợ quốc tế cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình, dự án
trợ giúp phát triển DNNVV trong các lĩnh vực tài chính, xúc tiến mở rộng
5
thị trường, phát triển nguồn nhân lực. Điều đó chứng tỏ ĐMCN đang là vấn
đề được thực tiễn quan tâm.
Vì những lý do trên, luận văn đã lựa chọn nghiên cứu về chính sách hỗ
trợ đổi mới công nghệ đối với DNNVV ở Việt Nam, phù hợp với chương
trình đào tạo thạc sỹ về quản lý kinh tế, qua đó đóng góp phần nhỏ vào việc
nghiên cứu; đề xuất, kiến nghị, giải pháp chính sách về đổi mới công nghệ
cho DNNVV.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số bài báo, chuyên đề, đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên
quan tới chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp Việt
Nam như:
- Bài báo “Về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp
vừa và nhỏ” [17] của TS Nguyễn Văn Thu đăng trên Tạp chí hoạt động khoa
học và công nghệ năm 2007. Trong bài này, tác giả đã nêu khái quát những
yếu tố cản trở đối với quá trình đổi mới công nghệ, các hình thức hỗ trợ
DNNVV, một số lưu ý trong việc hỗ trợ thực hiện quá trình đổi mới công
nghệ.
- Đề tài cấp bộ: “Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và định hướng hoạt
động đổi mới công nghệ của doanh nghiệp trong một số ngành kinh tế” [11]
của Phạm Thế Dũng. Bộ Khoa học và Công nghệ, 2009. Trong đề tài này, tác
giả đã đánh giá về thực trạng yếu kém của công tác đổi mới công nghệ trong
các ngành cơ điện tử, sinh học, thực phẩm; chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản
của các yếu kém. Nhiều nguyên nhân có liên quan tới quá trình ban hành và
thực hiện các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp
Việt Nam. Trong đó: về phía chủ quan, các doanh nghiệp Việt Nam với đa số
là các doanh nghiệp nhỏ và vừa không có đủ năng lực và nguồn lực để đổi
mới công nghệ một cách bài bản và liên tục; về phía Chính phủ, các bộ

ngành và địa phương, các chính sách vĩ mô như chính sách ưu đãi thuế nhập
khẩu, chính sách hỗ trợ nghiên cứu khoa học và công nghệ chưa hướng tới
6
các doanh nghiệp cụ thể mà chủ yếu tập trung cho các viện nghiên cứu và
các trường đại học.
- Chuyên đề nghiên cứu “Tổng quan các chính sách của Nhà nước
khuyến khích hoạt động đổi mới công nghệ trong sản xuất giai đoạn 1995-
2005” của tác giả Nghiêm Công, Viện Chiến lược và Chính sách Khoa học
và Công nghệ, 2006 [8]. Chuyên đề đã tập hợp chính sách trong giai đoạn
1995-2005, đưa ra một số đánh giá, phân tích và kiến nghị điều chỉnh chính
sách. Chuyên đề đã góp phần làm rõ các vấn đề cơ bản về chính sách khuyến
khích đổi mới công nghệ, có giá trị tham khảo.
- Sách tham khảo “Quản lý đổi mới công nghệ trong hoạt động sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa” của TS. Trần Ngọc Ca,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2000 [3]. Nội dung sách có giá trị tham
khảo các vấn đề lý luận về quản lý doanh nghiệp, đổi mới doanh nghiệp.
- “Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp nhỏ và
vừa của Hà Nội” luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị của tác giả Nguyễn Thị
Minh Thùy, 2012. Trong luận văn này, tác giả đã trình bày một số lý luận cơ
bản, khái niệm về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ; đánh giá tình hình
ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp
nhỏ và vừa của Hà Nội và đề xuất một số giải pháp. Tuy nhiên, các kiến nghị
chính sách mới chỉ dừng ở nhóm chính sách thông tin, tuyên truyền… luận
văn chưa tập trung đánh giá nhóm chính sách cơ bản như vốn, tín dụng, bảo
hộ sở hữu công nghiệp, phát triển thị trường khoa học và công nghệ.
Các nghiên cứu trên mới chỉ xem xét, đặt vấn đề về chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp đổi mới công nghệ với tư cách là một đối tượng chính sách
nghiên cứu riêng rẽ, bộ phận, có nghiên cứu chưa đề xuất được các biện pháp
cụ thể; hoặc các chính sách được nghiên cứu chưa được cập nhật; đặc biệt
chưa có công trình nghiên cứu cụ thể nào xem xét chính sách này trong mối

quan hệ tổng thể với các chính sách khác theo góc độ của chuyên ngành quản
lý kinh tế.
7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những mục đích nghiên cứu sau đây: (i) tập hợp và xem
xét nhóm chính sách hỗ trợ ĐMCN theo những tiêu chí được xây dựng; (ii)
phân tích thực trạng ĐMCN cho DNNVV, đánh giá những hạn chế, bất cập
của chính sách hỗ trợ ĐMCN; (iii) kiến nghị điều chỉnh, hoàn thiện chính
sách ĐMCN cho DNNVV.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm
vụ nghiên cứu sau đây:
- Thứ nhất, tìm hiểu, nghiên cứu các đề tài công trình nghiên cứu liên
quan tới chính sách hỗ trợ ĐMCN cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ ĐMCN cho
DNNVV. Rút ra những bài học từ kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam.
- Thứ ba, phân tích thực trạng ĐMCN của các DNNVV, từ đó chỉ ra
những thành tựu, những nhược điểm và nguyên nhân hạn chế hoạt động
ĐMCN của DNNVV. Đánh giá các chính sách hỗ trợ ĐMCN.
- Thứ tư, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách hỗ trợ
ĐMCN cho DNNVV.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chính sách hỗ trợ ĐMCN và
hoạt động ĐMCN của DNNVV.
4.2 Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các DNNVV trên lãnh thổ
Việt Nam và những chính sách có hiệu lực thi hành.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tập hợp các chính sách hỗ trợ hỗ trợ DNNVV nói riêng đang có hiệu
lực thi hành; xem xét, đánh giá các chính sách theo phạm vi riêng lẻ và tổng

thể, áp dụng các phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp nghiên cứu lý
luận với thực tiễn; phân tích chính sách. Kết hợp phương pháp nghiên cứu
8
định tính và các số liệu thu thập thứ cấp.
Nguồn thông tin, dữ liệu được lấy từ nhiều nguồn như từ các khảo sát,
báo cáo về doanh nghiệp nhỏ và vừa, bài nghiên cứu của các chuyên gia kinh
tế, thông tin trên Internet, số liệu của Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài
chính, Tổng cục Thống kê và Cục Phát triển doanh nghiệp.
6. Những đóng góp của luận văn:
Thứ nhất, Luận văn đã hệ thống, làm rõ khái niệm đổi mới công nghệ
và chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ. Thứ hai, luận văn đã đánh giá tổng
hợp các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ kết quả đạt được, ưu điểm, hạn
chế và nguyên nhân và tác động của chính sách đến hoạt động đổi mới công
nghệ của DNNVV. Thứ ba, luận văn đã đề xuất 4 giải pháp: (i) tăng cường
hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực hiện chính
sách hỗ trợ ĐMCN; (ii) Giải pháp kinh tế; (iii) Giải pháp truyền thông, nâng
cao nhận thức; (iv) Giải pháp về phía DNNVV.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bao gồm 3 Chương, kết cấu tuần tự từ cơ sở lý luận, đánh giá
thực trạng và trình bày giải pháp.
Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ đổi mới công
nghệ cho DNNVV, trong đó làm rõ các khái niệm về công nghệ, đổi mới
công nghệ, vai trò đối với sự phát triển kinh tế xã hội cũng như tìm hiểu các
yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình đổi mới công nghệ của các DNNVV.
Chương 1 cũng nêu các khái niệm về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ,
nội dung và mục tiêu của chính sách hỗ trợ ĐMCN. Trong Chương 1, một số
tiêu chí cơ bản khi xem xét đánh giá chính sách và kinh nghiệm quốc tế cũng
đã được trình bày khái quát.
Chương 2, cơ bản trình bày về thực trạng và đánh giá thực trạng của
chính sách hỗ trợ ĐMCN đối với DNNVV ở Việt Nam. Trong đó điểm lại

những kết quả của chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ, đánh giá
những hạn chế, bất cập trong quá trình đổi mới công nghệ và chỉ ra nguyên
9
nhân của những hạn chế.
Chương 3 trình bày khái quát về bối cảnh, cơ hội và thách thức đối
với DNNVV đổi mới công nghệ trong giai đoạn hiện nay, đồng thời với kinh
nghiệm quốc tế và nguyên nhân đã được nêu trong Chương 1 và Chương 2,
một số giải pháp đã được xác định bao gồm (i) tạo động lực về kinh tế đối
với DNNVV; (ii) phát triển thị trường khoa học và công nghệ; (iii) tăng
cường hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương trong việc thực
hiện chính sách hỗ trợ ĐMCN; (iv) đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận
thức; và (v) những nhiệm vụ đề xuất với hiệp hội DNNVV.
10
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ
CHO DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1 Công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.1 Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.1.1 Khái niệm về công nghệ
Thuật ngữ công nghệ hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới,
tuy nhiên việc đưa ra định nghĩa công nghệ lại chưa có sự thống nhất.
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, có sáu khái niệm về công nghệ:
(i) công nghệ là môn khoa học ứng dụng, nhằm vận dụng các quy luật tự
nhiên và các nguyên lý khoa học, đáp ứng các nhu cầu vật chất và tinh thần
của con người; (ii) công nghệ là các phương tiện kỹ thuật, là sự thể hiện vật
chất hóa các tri thức ứng dụng khoa học; (iii) công nghệ là tập hợp các cách
thức, các phương pháp dựa trên cơ sở khoa học và được ứng dụng vào sản
xuất trong các ngành sản xuất khác nhau để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ;
(iv) công nghệ gồm nhiều yếu tố hợp thành như phương tiện, máy móc, thiết
bị, các quá trình vận hành, các phương pháp tổ chức, quản lý đảm bảo cho

quá trình sản xuất và dịch vụ xã hội; (v) về mặt kinh tế học, trong mối quan
hệ với sản xuất, công nghệ được coi là phương tiện để thực hiện quá trình sản
xuất, biến đổi các đầu vào để các đầu ra cho các sản phẩm và dịch vụ mong
muốn; (vi) công nghệ là việc áp dụng các thành tựu vào sản xuất và đời sống
bằng cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật, các phương pháp sản xuất và
quản lý với tư cách là những kết quả của các hoạt động nghiên cứu, phát triển
của quá trình xử lý một cách hệ thống và có phương pháp toàn bộ những tri
thức, kinh nghiệm, kỹ năng và kỹ xảo được con người tích lũy và tạo ra trong
toàn bộ quá trình phát triển của mình [33].
Các tổ chức khác nhau cũng có cách nhìn nhận khác nhau về công
nghệ. Theo UNIDO thì công nghệ là việc áp dụng khoa học vào công nghiệp
bằng cách sử dụng các kết quả nghiên cứu và xử lý nó một cách có hệ thống
11
và có phương pháp, trong khi đó tổ chức ESCAP (1989) lại quan niệm “công
nghệ là kiến thức có hệ thống về quy trình kỹ thuật để chế biến vật liệu và
thông tin; công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương pháp và
các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hóa và cung cấp dịch vụ” [24].
Ở Việt Nam, khái niệm công nghệ cũng đã được trình bày trong Luật
Khoa học và công nghệ (ban hành năm 2000 và luật sửa đổi năm 2013)
“công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm”. Khái niệm
này gần với định nghĩa của ESCAP và phù hợp với các nước đang phát triển
và được sử dụng trong luận văn làm cơ sở phân tích về chính sách ĐMCN.
Cũng theo ESCAP, bất kỳ công nghệ nào cũng hàm chứa trong nó bốn thành
phần, có mối quan hệ tương hỗ với nhau đề thực hiện quá trình biến đổi
mong muốn; đó là phần kỹ thuật, phần con người, phần thông tin và phần tổ
chức.
- Phần kỹ thuật: công nghệ hàm chứa trong các dạng vật thể như máy
móc, thiết bị, phương tiện và cấu trúc hạ tầng.
- Phần con người: công nghệ hàm chứa trong các kỹ năng công nghệ

của con người, nó bao gồm kiến thức, kinh nghiệm do học hỏi và tích lũy
được trong quá trình sử dụng công nghệ.
- Phần thông tin: công nghệ hàm chứa trong các dạng dữ liệu đã được
tư liệu hóa để sử dụng trong các hoạt động của công nghệ.
- Phần tổ chức: công nghệ hàm chứa trong khung thể chế để xây dựng
lên cấu trúc tổ chức như quy định về quyền hạn, trách nhiệm, sự phối hợp
của các cá nhân trong hoạt động công nghệ.
Các hình thức tồn tại của công nghệ khi lưu thông trên thị trường dưới
dạng sản phẩm hàng hóa như: dây chuyền máy móc, thiết bị; bằng sáng chế,
giải pháp hữu ích được bảo hộ; các bí quyết công nghệ; các dịch vụ kỹ thuật;
các dịch vụ khác và kết quả R&D.
12
1.1.1.2 Khái niệm về đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ cũng là một khái niệm còn nhiều tranh luận, trong
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng chưa có định nghĩa
về ĐMCN. Một cách phổ biến, ĐMCN được hiểu là việc cải tiến, hiện đại
hóa hoặc thay thế công nghệ hay một vài bộ phận của công nghệ đang sử
dụng bằng công nghệ hoặc các bộ phận, yếu tố công nghệ mới; nó bao gồm
toàn bộ quá trình nghiên cứu, phát triển, thiết kế, thử nghiệm và ứng dụng
công nghệ mới có thẻ là toàn bộ hoặc từng phần [24]. Xuất phát từ các bộ
phận cấu thành công nghệ, có quan điểm cho rằng ĐMCN là việc hoàn thiện
và phát triển không ngừng các thành phần cấu thành công nghệ dựa trên các
thành tựu khoa học nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của sản xuất kinh doanh,
quản lý kinh tế và xã hội. Với quan điểm này, thì bất kỳ một sự thay đổi nào
trong thành phần công nghệ đều có thể coi là ĐMCN [25]. Tuy nhiên, trên
thực tiễn đây chỉ được coi là cải tiến công nghệ, còn ĐMCN thường được
hiểu là việc thay thế phần quan trọng trong công nghệ hay toàn bộ công nghệ
đang sử dụng bằng một loại công nghệ khác tiên tiến hơn. Tác giả Nguyễn
Xuân Bá cho rằng trong điều kiện của Việt Nam hiện nay, thì ĐMCN là hoạt
động thay đổi toàn bộ hay cải tiến công nghệ đã có của doanh nghiệp, góp

phần cải thiện chất lượng sản phẩm, hạ giá thành, tăng năng suất, chất lượng
và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trên thế giới, các nước OECD quan niệm ĐMCN là việc tạo ra sản
phẩm hoặc quy trình sản xuất mới hoặc có những cải tiến đáng kể về sản
phẩm hay quy trình sản xuất, ĐMCN diễn ra khi đưa ra thị trường sản phẩm
mới (đổi mới sản phẩm) hoặc công nghệ mới được sử dụng trong quá trình
sản xuất (đổi mới quy trình). ĐMCN gồm nhiều hoạt động khác nhau như
hoạt động khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại, qua đó một
doanh nghiệp được coi là ĐMCN nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra sản phẩm
mới hoặc có quy trình sản xuất mới hoặc có những cải tiến đáng kể về sản
phẩm hay quy trình sản xuất trong thời kỳ xem xét [26]. Quan niệm này có
13
nội hàm rất rộng, chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay do năng lực công nghệ của các doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV
còn rất hạn chế.
Quan điểm của luận văn về ĐMCN bao gồm: (i) việc thay đổi toàn bộ
hoặc một phần dây chuyền máy móc thiết bị; (ii) đổi mới quy trình và sản
phẩm để đưa sản phẩm ra thị trường.
1.1.2 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đến sự phát triển
kinh tế - xã hội và doanh nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đên sự phát
triển kinh tế xã hội
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo cách gia tăng đầu vào sản xuất –
nhân tố lao động và vốn – sẽ đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, nhưng với tốc
độ giảm dần. Do đó, để tăng trưởng bền vững đòi hỏi phải đầu tư vào tiến
bộ công nghệ, nghĩa là cách thức hàng hóa và dịch vụ được tạo ra, phương
pháp cũng như quy trình tổ chức đầu vào.
Theo số liệu và nhận định của Bộ Khoa học và công nghệ, tăng trưởng
GDP có phần đóng góp của yếu tố TFP bao gồm các hoạt động Cơ cấu lại
nền kinh tế + Kích thích tăng nhu cầu sản phẩm, hàng hóa + Tiến bộ khoa

học kỹ thuật - công nghệ, cụ thể giai đoạn 2001-2005 là 21,44%; giai đoạn
2006-2010 là 14,44% và giai đoạn 2001-2010 là 17,94% [21].
Hình 1.1. Tốc độ tăng GDP, vốn, lao động và TFP giai đoạn 2001-2000
Nguồn: Báo cáo Năng suất Việt Nam năm 2010 – Trung tâm Năng suất Việt Nam
14
Trong giai đoạn 2006-2008, bình quân đóng góp của khoa học và công
nghệ vào tăng GDP khoảng 10,2%.
Bảng 1.1 Đóng góp của khoa học và công nghệ vào tăng TFP của Việt
Nam giai đoạn 2006 – 2008
Nguồn: Kết quả đề tài nghiên cứu “Đóng góp của yếu tố khoa học và công nghệ vào TFP và tốc độ tăng
GDP” năm 2010 do Trung tâm Năng suất Việt Nam – Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng phối hợp
Viện Khoa học Thống kê và các chuyên gia kinh tế thực hiện
Như vậy, công nghệ có tác động mạnh mẽ vào sự phát triển của kinh tế
xã hội. Việc phát triển, ứng dụng công nghệ thành công sẽ mang lại sự phát
triển kinh tế và ngược lại khi kinh tế tăng trưởng thì xã hội sẽ có nguồn lực
đầu tư cho sự phát triển của công nghệ, tạo ra động lực ĐMCN. ĐMCN lại có
vai trò quan trọng trong sự thay đổi cơ cấu kinh tế của một quốc gia, là biện
pháp để đưa đất nước chuyển sang thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.1.2.2 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đối với sự phát
triển của doanh nghiệp
Công nghệ làm thay đổi hiệu quả sản xuất kinh doanh tạo ra các sản
phẩm có chất lượng tốt hơn với chi phí thấp hơn, nói cách khác tức là tạo ra
giá trị gia tăng cho doanh nghiệp cũng như đáp ứng tốt hơn nhu cầu của
khách hàng. ĐMCN tức là nâng cao trình độ công nghệ của doanh nghiệp,
làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Việc ĐMCN của một doanh nghiệp sẽ tạo ra các tác động tích cực đến
doanh nghiệp khác và cộng đồng các doanh nghiệp ở Việt Nam, tác động này
được gọi là “hiệu ứng lan tỏa”[23].
15
Bảng 1.2 Phân loại các hình thức lan tỏa công nghệ

Hình thức lan
tỏa
Mô tả
Lan tỏa theo
chiều dọc: liên kết
xuôi
Doanh nghiệp tại Việt Nam là khách hàng Công nghệ
được chuyển giao từ những nhà cung cấp là các
doanh nghiệp quốc tế hay doanh nghiệp FDI cho các
doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lan tỏa theo
chiều
dọc: liên kết
ngược
Doanh nghiệp tại Việt Nam là nhà cung cấp Công
nghệ được chuyển giao từ những khách hàng là các
doanh nghiệp quốc tế hay doanh nghiệp FDI cho các
doanh nghiệp tại Việt Nam
Lan tỏa theo
chiều
ngang: cạnh tranh
Doanh nghiệp tại Việt Nam là một đối thủ cạnh tranh
Công nghệ được chuyển giao từ doanh nghiệp nước
ngoài/ đối thủ cạnh tranh trong nước có vốn đầu tư
nước ngoài cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Nguồn: Báo cáo “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp (DN)
tại Việt Nam: Kết quả điều tra năm 2012”
Hiệu ứng lan tỏa theo chiều dọc xảy ra khi doanh nghiệp trong nước là
đối tác của các doanh nghiệp FDI. Qua hợp đồng hợp tác, chuyển giao công
nghệ, doanh nghiệp quốc tế chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực cho

doanh nghiệp trong nước. Lan tỏa theo chiều ngang xảy ra khi các doanh
nghiệp trong nước cạnh tranh trong cùng ngành hoặc những trong những
ngành có liên quan chặt chẽ với nhau hoặc cạnh tranh với các doanh nghiệp
FDI gia nhập thị trường trong nước, buộc phải học hỏi, tiếp thu những công
nghệ mới, quy trình mới mà các doanh nghiệp khác đang áp dụng, khi đó một
doanh nghiệp bắt đầu ĐMCN thì những đối thủ cạnh tranh khác cũng sẽ làm
theo. Ngoài ra, hiệu ứng lan tỏa theo chiều ngang còn xảy ra qua việc di
chuyển lao động từ các doanh nghiệp có trình độ công nghệ cao hơn, khi
nhân lực đó được doanh nghiệp trong nước tuyển dụng.
Điều kiện cần để tạo hiệu ứng lan tỏa nêu trên chính là một thị trường
16
cạnh tranh lành mạnh. Thực tế, hiệu ứng lan tỏa đang diễn ra ở Việt Nam, khi
tiến hành chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, tạo sự hợp tác, cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp trong nước và quốc tế để thu hút và duy trì thị trường
xuất khẩu.
Như vậy, ĐMCN cũng chính là hướng phát triển bền vững của doanh
nghiệp cũng như tác động tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc
gia.
1.1.2.3 Doanh nghiệp nhỏ và vừa với đổi mới công nghệ
Để xác định quy mô doanh nghiệp, nhìn chung các quốc gia căn cứ
vào các tiêu chuẩn khác nhau như số lao động, vốn sản xuất, doanh thu, lợi
nhuận, giá trị gia tăng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hay SMEs (Small and
Medium Enterprises) là những doanh nghiệp có số lao động hay doanh số ở
dưới một mức giới hạn nào đó.
Từ viết tắt SMEs được dùng phổ biến ở Cộng đồng các nước Châu Âu
và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng thế giới (World Bank), Liên Hiệp Quốc
(United Nation), Tổ chức thương mại thế giới (WTO). SMEs được sử dụng
nhiều nhất là ở Mỹ.
Các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu có cách định nghĩa về SMEs của
riêng họ, như ở Đức, SMEs được định nghĩa là những doanh nghiệp có số lao

động dưới 500 người, trong khi đó ở Bỉ là 100 người. Tuy nhiên, hiện nay
Liên minh Châu Âu (EU) đã có khái niệm về SMEs được chuẩn hóa hơn. Cụ
thể: những doanh nghiệp có dưới 50 lao động được gọi là doanh nghiệp nhỏ
còn những doanh nghiệp có trên 250 lao động được gọi là những doanh
nghiệp vừa. Ngược lại, ở Mỹ những doanh nghiệp có số lao động dưới 100
người được gọi là doanh nghiệp nhỏ, dưới 500 người là doanh nghiệp vừa.
Theo cách thức phân loại như trên, trong hầu hết các nền kinh tế,
DNNVV đều chiếm đa số. Ở EU, DNNVV chiếm khoảng 99% với số lao
động lên đến 65 triệu người. Trong một số khu vực kinh tế, DNNVV giữ vai
trò chủ đạo trong công cuộc cải tạo và là động lực phát triển kinh tế. Trên
17
phạm vi thế giới, DNNVV chiếm 99% tổng số doanh nghiệp và đóng góp đến
40%-50% tổng thu nhập quốc dân (GDP).
Tại Việt Nam, căn cứ theo Khoản 1, Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-
CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ, khái niệm DNNVV được trình bày như
sau:
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh
theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo
quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác
định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình
quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)[4].
Bảng 1.3: Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Như vậy, các khái niệm về DNNVV thống nhất với nhau về các tiêu
chí xác định DNNVV, phù hợp điều kiện thực tiễn của Việt Nam (là một
nước có trình độ phát triển kinh tế còn thấp, năng lực quản lý còn hạn chế,
thị trường chưa phát triển, chưa có chuẩn mực đo quy mô doanh nghiệp một
cách chính thức) và khung khổ pháp luật hiện hành nhằm hỗ trợ các doanh
nghiệp này phát triển phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nước
ta. Hai tiêu chí lao động bình quân và vốn đăng ký được lựa chọn do các lý

do: (i) tất cả các doanh nghiệp ở Việt Nam đều có số liệu về hai tiêu chí này;
18
(ii) có thể xác định tiêu chí này ở mọi cấp độ: toàn bộ nền kinh tế, ngành,
doanh nghiệp; (iii) trong điều kiện thực trạng thống kê về các doanh nghiệp
còn chưa đầy đủ của Việt Nam thì tối thiểu với hai tiêu chí này chúng ta có
thể xác định chính xác số lượng của DNNVV.
DNNVV có những đặc điểm cơ bản liên quan tới ĐMCN sau đây:
Thứ nhất, DNNVV là các doanh nghiệp dễ khởi nghiệp, lúc thành lập
ban đầu không đòi hỏi nhiều gì về vốn, lao động. Một số doanh nghiệp lớn
hiện nay đều khởi nghiệp từ DNNVV. Ngay từ khi thành lập, DNNVV có khả
năng hoạt động linh hoạt, năng động, thích ứng nhanh với thị trường, có khả
năng đón đầu những biến chuyển của công nghệ quản lý; phát huy mọi tiềm
năng của địa phương và cơ sở do có ưu thế của sự gần kề với các nguồn lực
đầu vào (lao động, tài nguyên, nguồn vốn tại chỗ) và với thị trường tiêu thụ.
Đây là một lợi thế so sánh lớn để cạnh tranh ngay trong thời đại toàn cầu hoá.
Thứ hai, DNNVV có khả năng bổ sung, tham gia vào chuỗi giá trị, hợp
tác trong sự phát triển của các doanh nghiệp lớn. DNNVV là chủ thể đảm
nhiệm có hiệu quả cao những công đoạn cả ở phần đầu, phần giữa và phần
cuối của quá trình sản xuất, mà doanh nghiệp lớn không cần và không nên
làm. Về phía dịch vụ, với ưu thế của sự “gần kề”, DNNVV có những hiểu biết
sâu sắc về thị trường và khách hàng; có tính cơ động, nhanh nhạy gia nhập
vào những thị trường tốt và rút lui khỏi những thị trường xấu, từ những thị
trường nghách đến những thị trường lớn.
Thứ ba, DNNVV còn có những điểm yếu về nguồn lực để tiến hành
nghiên cứu, ứng dụng đổi mới công nghệ. Không đủ sức thực hiện những dự
án lớn về đầu tư quy mô lớn để tận dụng lợi ích của toàn cầu hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Không có ưu thế của kinh tế qui mô (ecomomy of scale), tức
là những thành quả và lợi ích đặc biệt mà chỉ từ một qui mô thích hợp
(thường là đủ lớn) thì mới là có được. DNNVV vẫn là bên yếu thế trong các
mối quan hệ với Nhà nước, với thị trường, với ngân hàng, với các trung tâm

khoa học, với truyền thông, với đối tác, đối thủ cạnh tranh, với khách hàng.
19
DNNVV thiếu sức phòng, tránh và chống các rủi ro trong môi trường kinh
doanh, thông thường có nhiều DNNVV đăng ký hoạt động, thì cũng có nhiều
DNNVV giải thể, phá sản.
Do những đặc điểm, yếu kém nội tại của DNNVV, sự phát triển của
DNNVV và hoạt động đổi mới công nghệ ở DNNVV không thực hiện một
cách tự phát mà thiếu tác động của chính sách hỗ trợ. Chính phủ các nước
không chỉ đối xử với DNNVV bình đẳng như với doanh nghiệp lớn, mà còn
dành ưu đãi rõ rệt cho DNNVV.
1.1.3 Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới đổi mới công nghệ của
doanh nghiệp nhỏ và vừa
ĐMCN của DNNVV chịu nhiều yếu tố ảnh hưởng như năng lực tài
chính, năng lực nghiên cứu và triển khai, trình độ nguồn nhân lực, áp lực cạnh
tranh, các chính sách của nhà nước. Có thể chia các yếu tố này thành các
nhóm yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.
1.1.3.1 Nhóm các yếu tố chủ quan
- Năng lực công nghệ của DNNVV: bao gồm bốn loại năng lực (i) năng
lực vận hành công nghệ, (ii) năng lực tiếp nhận công nghệ, (iii) năng lực hỗ
trợ tiếp nhận công nghệ, (iv) năng lực đổi mới công nghệ.
- Năng lực tài chính của DNNVV: thể hiện qua nguồn vốn tự có của
doanh nghiệp và năng lực huy động vốn cho ĐMCN của doanh nghiệp.
+ Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp hình thành từ lợi nhuận của doanh
nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc từ vốn của các cổ đông.
+ Năng lực huy động vốn cho ĐMCN thể hiện ở khả năng tiếp cận các
nguồn hỗ trợ cho ĐMCN từ ngân hàng, Quỹ ĐMCN quốc gia, Quỹ phát triển
KH&CN quốc gia, các Quỹ đầu tư mạo hiểm và các đối tác, cá nhân khác.
Năng lực huy động vốn này phụ thuộc nhiều vào kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp.
20

Ngoài ra, còn một số yếu tố chủ quan khác như quy mô doanh nghiệp,
ngành, lĩnh vực doanh nghiệp hoạt động, định hướng chiến lược của doanh
nghiệp, nhận thức của chủ doanh nghiệp và người lao động về ĐMCN.
1.1.3.2 Nhóm các yếu tố khách quan
- Áp lực cạnh tranh: áp lực cạnh tranh càng cao, đòi hỏi doanh nghiệp
phải tìm cách nâng cao năng lực cạnh tranh. Trong đó, ĐMCN là biện pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh hiệu quả do tạo ra sản phẩm có chất lượng cao
hơn, chi phí thấp hơn từ đó hạ giá thành sản phẩm.
- Chính sách của nhà nước về ĐMCN: chính sách phù hợp sẽ có vai trò
thúc đẩy doanh nghiệp thực hiện ĐMCN và ngược lại có thể kìm hãm doanh
nghiệp thực hiện ĐMCN. Đây chính là đối tượng nghiên cứu của luận văn và
được phân tích cụ thể tại chương 2.
1.2 Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
1.2.1 Khái niệm và vai trò của chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Thuật ngữ “chính sách” đang được sử dụng phổ biến trên báo chí, các
phương tiện truyền thông và đời sống xã hội, hiểu quan điểm phổ biến này,
chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực
hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại; còn chính sách kinh tế - xã
hội là tổng thể các quan điểm, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử
dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết những vấn
đề kinh tế - xã hội lặp đi lặp lại, thực hiện những mục tiêu nhất định theo
định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Về phía Nhà nước, chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá
trình ra quyết định; đặt ra phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết
định, nhắc nhở những nhà quản lý quyết định nào là có thể và những quyết
định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và
hành động của mọi thành viên trong bộ máy nhà nước vào việc thực hiện
các mục tiêu chung.
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới khoa học và
21

công nghệ, Luật Khoa học và công nghệ nêu vấn đề cơ bản của chính sách
đổi mới công nghệ là “khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để doanh
nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao
trình độ công nghệ” (Khoản 6 Điều 6 Luật Khoa học và công nghệ 2000).
Từ những quan điểm về chính sách nói chung và chính sách hỗ trợ đổi
mới công nghệ nói riêng, ta có thể rút ra khái niệm về chính sách hỗ trợ đổi
mới công nghệ ở Việt Nam như sau: “Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước
sử dụng để nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự đổi mới công nghệ của các
doanh nghiệp, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các
doanh nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế -
xã hội của đất nước.”
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và xu hướng hội tụ kinh tế
giữa các nước thu nhập thấp và các nước thu nhập cao, các nước có nền kinh
tế thị trường đang nổi lên không nhất thiết phải đầu tư vào nghiên cứu cơ
bản mà chỉ cần ứng dụng và cải tiến để thích ứng với công nghệ đã có sẵn.
Do đó, bên cạnh vai trò của các chính sách phát triển DNNVV nói chung, ở
cấp độ vĩ mô, chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ có vai trò tạo ra
động lực tiến tới tăng năng suất, tiền lương, mức sống và tăng trưởng GDP,
thu được một số thành tựu phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch tập trung, tự cung, tự cấp
sang vận hành theo cơ chế thị trường.
1.2.2 Mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN
Theo quan điểm của Nhà nước, mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN bao
gồm:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của quốc gia.
- Đạt được hiệu ứng lan tỏa qua việc cải tiến, ĐMCN của một doanh
nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp sẽ tăng đầu tư ĐMCN qua đó xã hội thu
22

được lợi ích, nâng cao dân trí, giảm ô nhiễm môi trường.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thể hiện qua việc
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí, giá thành sản phẩm, tăng năng
suất lao động.
- Nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp bao gồm năng lực
vận hành, tiếp nhận và làm chủ công nghệ, năng lực hỗ trợ tiếp nhận công
nghệ, khả năng cải tiến, sao chép công nghệ nhập và sáng tạo ra sản
phẩm/quy trình mới.
- Mục tiêu về quản lý nhà nước bao gồm: (i) nâng cao nhận thức của
doanh nghiệp về ĐMCN; (ii) gia tăng số lượng doanh nghiệp ĐMCN; - Nâng
cao mức đầu tư của doanh nghiệp cho hoạt động ĐMCN.
Như vậy, qua việc đạt được các mục tiêu chính sách ĐMCN, về phía
Nhà nước sẽ đảm bảo nguồn thu ngân sách do các doanh nghiệp hoạt động
hiệu quả hơn, đồng thời đạt mục tiêu quản lý nhà nước khi giảm các tác động
xấu do công nghệ cũ gây ra. Về phía doanh nghiệp, ĐMCN tạo khả năng thu
được lợi nhuận lớn hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, năng lực công nghệ,
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.3 Nội dung chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ không tồn tại một cách riêng
lẻ mà là một hệ thống các chính sách được quy định từ Luật cho đến văn bản
quy phạm pháp luật của các bộ, cơ quan ngang bộ. Để hệ thống hóa, luận văn
phân loại thành hai (02) nhóm: nhóm chính sách hỗ trợ gián tiếp và nhóm
chính sách hỗ trợ trực tiếp.
Chính sách hỗ trợ gián tiếp là việc sử dụng các biện pháp thuế, ưu đãi
sử dụng đất và những biện pháp khuyến khích khác được quy định trong văn
bản quy phạm pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, đất đai và được quy
định tại một số điều, khoản trong văn bản quy phạm chuyên ngành khác.
Chính sách hỗ trợ trực tiếp là việc nhà nước kết hợp đầu tư trực tiếp
vào một số ngành và doanh nghiệp cụ thể từ nguồn vốn ngân sách nhà nước
23

để đầu tư tài trợ các đề án, dự án, chương trình nghiên cứu đổi mới công nghệ
đối với DNNVV phần lớn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp
luật về lĩnh vực khoa học và công nghệ.
1.2.3.1 Chính sách thuế
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới nền kinh tế, chính
sách thuế luôn là một trong những vấn đề trọng tâm. Đến nay, chính sách thuế
và hệ thống thuế đã được điều chỉnh sửa đổi, bổ sung nhiều lần cho phù hợp
với sự thay đổi của nền kinh tế. Sự đầy đủ và hoàn chỉnh của hệ thống thuế có
tác động rất lớn đến các doanh nghiệp, đặc biệt là đối với các DNNVV. Hệ
thống thuế hoàn chỉnh tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc thực hiện
các nghĩa vụ của mình; tạo sự an tâm cho các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh. Đặc biệt để khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, chính sách
hỗ trợ qua hệ thống thuế ở Việt Nam có những nội dung như sau:
Thu nhập được miễn thuế:
Thu nhập từ việc thực hiện hợp đồng nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ, sản phẩm đang trong thời kỳ sản xuất thử nghiệm, sản phẩm làm
ra từ công nghệ mới lần đầu áp dụng tại Việt Nam. (Khoản 3 Điều 4 Luật thu
nhập doanh nghiệp).
Luật công nghệ cao có chính sách miễn thuế trong các trường hợp
chuyển giao công nghệ (các Khoản 2, 3, 4, 5 Điều 44 Luật Chuyển giao công
nghệ):
+ Miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu để sử dụng trực
tiếp vào hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ, đổi mới công nghệ, bao
gồm máy móc, thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong nước chưa
sản xuất được, công nghệ trong nước chưa tạo ra được; tài liệu, sách báo khoa
học.
+ Máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc loại trong
nước chưa sản xuất được phục vụ cho việc thực hiện hợp đồng chuyển giao
công nghệ không chịu thuế giá trị gia tăng.
24

+ Cơ sở sản xuất, kinh doanh đầu tư xây dựng dây chuyền sản xuất
mới, mở rộng quy mô, ĐMCN, cải thiện môi trường sinh thái, nâng cao năng
lực sản xuất được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp cho phần thu nhập tăng
thêm trong bốn năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong bảy năm tiếp theo.
+ Doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ có tiếp nhận công nghệ
thuộc Danh mục công nghệ khuyến khích chuyển giao được miễn thuế thu
nhập trong bốn năm với điều kiện tổng giá trị miễn thuế không vượt quá 50%
tổng kinh phí đầu tư cho ĐMCN.
Ưu đãi về thuế suất:
Áp dụng thuế suất 10% trong thời gian mười lăm năm đối với thu nhập
của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới, bao gồm: nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công
nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ
cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư
mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được
ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật Công nghệ cao. (Khoản 7
Điều 1 Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập doanh
nghiệp).
Theo Luật công nghệ cao thì doanh nghiệp công nghệ cao, doanh
nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao; doanh nghiệp thực hiện dự án
nghiên cứu phát triển; dự án ứng dụng công nghệ cao; dự án ươm tạo công
nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư xây dựng, kinh doanh
cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư
mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được
ưu tiên phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao được hưởng
ưu đãi ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh
nghiệp.
25

×