Tải bản đầy đủ (.doc) (115 trang)

dạy học thơ tố hữu ở trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.14 KB, 115 trang )

CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CT Chương trình
ĐC Đối chứng
GV Giáo viên
GD - ĐT Giáo dục đào tạo
HS Học sinh
PPDH Phương pháp dạy học
SGK Sách giáo khoa
SGV Sách giáo viên
THPT Trung học phổ thông
THCS Trung học cơ sở
TNCS Thanh niên cộng sản
TP Tác phẩm
TPVC Tác phẩm văn chương
TPVH Tác phẩm văn học
TN Thực nghiệm
VB Văn bản
VB Việt Bắc
1
MỤC LỤC
Lời cảm ơn i
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt ( xếp theo A B C ) ii
MỞ ĐẦU trang 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu 5
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Cấu trúc luận văn 9
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 10
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại 10


1.1.1. Thể loại văn học 10
1.1.2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại 13
1.2. Những vấn đề chung về thơ trữ tình 16
1.2.1. Khái niệm về thơ trữ tình 16
1.2.2. Đặc trưng của thơ trữ tình 17
1.2.3. Đặc trưng phong cách nghệ thuật tác giả 35
1.2.4. Đặc trưng phong cách nghệ thuật thơ Tố Hữu 39
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC THƠ TỐ
HỮU Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI
VÀ PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT 44
2.1. Thực trạng dạy học thơ Tố Hữu ở THPT 44
2.1.1. Vị trí của thơ Tố Hữu trong Chương trình Ngữ văn THPT 44
2.1.2. Những thuận lợi, khó khăn 45
2.1.3. Thực trạng dạy học thơ Tố Hữu ở THPT 48
2.2. Định hướng dạy học thơ Tố Hữu ở THPT 54
2.2.1. Tìm hiểu xuất xứ 55
2
2.2.2. Cảm nhận ý thơ là khám phá nội dung và hình thức của bài thơ 57
2.2.3. Lí giải, đánh giá 66
Chương 3: GIÁO ÁN VÀ THỰC NGHIỆM 72
3.1.Thiết kế giáo án thực nghiệm 72
3.1.1. Bài Từ ấy 72
3.1.2. Đoạn trích Việt Bắc 87
3.2. Những vấn đề chung về thực nghiệm 97
3.2.1. Mục đích thực nghiệm 98
3.2.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm 98
3.3. Nội dung thực nghiệm và tiến trình thực nghiệm 99
3.3.1. Nội dung thực nghiệm 99
3.3.2. Tiến trình thực nghiệm 99
3.4. Kết quả thực nghiệm 100

3.4.1. Tiến hành kiểm tra 100
3.4.2. Kết quả kiểm tra 101
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm 102
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO 109
PHỤ LỤC 111
3
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong bối cảnh chung của nền Giáo dục nước nhà, chất lượng dạy và học
thực sự là vấn đề được quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Chất lượng thực
trong dạy học là đào tạo ra được những con người có tri thức, kỹ năng, nhân
cách toàn diện để có thể đáp ứng những yêu cầu đổi thay không ngừng của
cuộc sống hiện đại. Trong lịch sử từ xưa tới nay thời đại nào xã hội phát triển
là thời đó có nền giáo dục phát triển và ngược lại. Ngày nay, Đảng và Nhà
nước ta luôn xác định giáo dục có vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển xã hội, giáo dục luôn được coi là quốc sách
hàng đầu. Vì vậy, câu hỏi đặt ra: làm thế nào để nâng cao được chất lượng
giáo dục là vấn đề được quan tâm đặc biệt không chỉ ở Việt Nam mà còn ở tất
cả các nước trên thế giới. Đổi mới quy trình, chương trình đào tạo và phương
pháp dạy học là những vấn đề thời sự của tất cả hệ thống giáo dục. Rất nhiều
phương pháp dạy học mới được thử nghiệm nhằm đào tạo những người lao
động có bản lĩnh, có năng lực chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, sẵn
sàng thích ứng với những đổi thay của xã hội hiện đại…Phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong hoạt động tập thể để tự phát hiện,
tự giải quyết các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, từ đó tự chiếm lĩnh
và vận dụng các kiến thức và kĩ năng cơ bản dưới sự tổ chức và hướng dẫn
của giáo viên là một nhu cầu cấp thiết.
Trong những năm gần đây, vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở
nước ta đã được Đảng, Nhà nước cũng như các cấp quản lí giáo dục rất quan

tâm. Nghị quyết Trung ương II khoá VIII đã viết trong phần định hướng phát
triển Giáo dục – Đào tạo đã chỉ rõ:“Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục
đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và các
phương tiện hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian
tự học, tự nghiên cứu cho học sinh nhất là sinh viên đại học” [1,tr.43]. Tiếp
4
tục tinh thần đó, trong Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc khoá IX khi nói về
giáo dục đào tạo, Ban chấp hành Trung ương cũng đã nhấn mạnh:“Tiếp tục
nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp dạy
và học, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh
viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề” [2, tr.108,
109].
Trong “Luật giáo dục” được Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam thông qua ngày 02/12/1998 ở chương I “Những quy định
chung” đã nhấn mạnh tới yêu cầu và đổi mới phương pháp giáo dục là “phải
phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của học sinh, bồi
dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”.
Chiến lược phát triển Giáo dục 2001- 2010 đã đề ra phương hướng:
cùng hòa nhịp vào xu hướng đổi mới phương pháp dạy học đang diễn ra sôi
nổi khắp nơi trên thế giới, việc đổi mới phương pháp dạy học ở nước ta cần
được xúc tiến mạnh mẽ hơn nữa trên cơ sở những quan điểm đầy đủ và thống
nhất về đổi mới phương pháp dạy và học cũng như những giải pháp phù hợp,
khả thi. Như vậy, trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm xây
dựng nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, văn minh, vấn đề được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm là nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Để
thực hiện được mục tiêu đó, trước hết phải đổi mới nội dung chương trình và
phương pháp giảng dạy.
1.2. Cùng với các môn học khác, môn Ngữ Văn có một vị trí vô cùng quan
trọng trong hệ thống giáo dục. Môn Ngữ Văn là môn học về khoa học xã hội

và nhân văn, có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh những kiến thức về tiếng
Việt, văn học và làm văn, hình thành và phát triển ở học sinh năng lực sử
dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận tác phẩm văn học. Qua môn học này, học
sinh có thêm những hiểu biết về văn hoá, xã hội, lịch sử, đời sống nội tâm của
con người và bản thân. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao
chất lượng giảng dạy, nâng cao khả năng tiếp nhận, cảm thụ tác phẩm văn
5
học cho học sinh luôn được người làm công tác dạy Ngữ Văn quan tâm.
Muốn đạt được hiệu quả giáo dục cao nhất, việc giảng dạy văn học phải tiến
hành sao cho phù hợp với đặc trưng bộ môn, vừa mang bản chất xã hội, vừa
là một hiện tượng thẩm mỹ, hiện tượng nghệ thuật. Loại thể văn học là một
vấn đề thuộc hình thức nghệ thuật của văn học, có liên quan khăng khít đến
nội dung. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất
định, đòi hỏi một phương pháp, một cách thức phân tích giảng dạy phù hợp
với nó.Vì vậy, vấn đề loại thể văn học trong thực tế giảng dạy ở trường phổ
thông đặt ra không những như một vấn đề tri thức mà chủ yếu còn là vấn đề
về phương pháp. Nói đến vấn đề loại thể trong văn học là nói đến tính chính
thể trong một tác phẩm với sự thống nhất của một nội dung nhất định trong
một hình thức nhất định.Việc tìm hiểu đặc trưng loại thể văn học càng trở nên
quan trọng hơn bao giờ hết. Đó là chìa khoá để khám phá những giá trị đích
thực của từng tác phẩm, cùng với sự vận động và phát triển của nền văn học.
Song song với dạy học văn học theo đặc trưng thể loại thì mỗi tác phẩm văn
chương còn mang phong cách riêng của từng tác giả. Nói đến phong cách
nghệ thuật tác giả là nói đến đặc điểm riêng trong cách thức thể hiện nội dung
cũng như nghệ thuật tác phẩm. Muốn nghiên cứu, giảng dạy thành công một
tác phẩm văn chương thì vấn đề thể loại và phong cách nghệ thuật tác giả cần
quan tâm hàng đầu. Điều đó nhất thiết đòi hỏi phải có phương pháp và biện
pháp dạy học phù hợp để đạt hiệu quả.
Thực tiễn sư phạm chỉ ra rằng việc dạy học văn ở nhà trường Việt
Nam chúng ta hiện nay đã bộc lộ không ít những hạn chế về nhiều mặt. Dạy

và học văn đã không theo kịp công tác nghiên cứu và cũng vì thế mà không
đảm nhiệm tốt nhiệm vụ của nó. Thực trạng các giờ dạy văn hiện nay còn đơn
điệu, tẻ nhạt, khiến học sinh không hứng thú học văn dẫn đến chất lượng các
giờ học văn ngày càng giảm sút. Một trong những nguyên nhân quan trọng
dẫn đến thực trạng trên là khi phân tích tác phẩm văn học chúng ta không xác
định đúng “chất của loại” trong thể, coi nhẹ phong cách nghệ thuật tác giả
6
trong từng tác phẩm. Xa rời bản chất loại thể tác phẩm, xa rời phong cách
nghệ thuật tác giả thực chất là xa rời tác phẩm cả về “linh hồn” lẫn “thể xác”.
Vì vậy khi khai thác tác phẩm văn học không những không làm cho tác phẩm
trở nên sống động, giàu sức gợi mà trái lại làm cho tác phẩm khô khan, tác
phẩm chết cứng. Bên cạnh đó, bệnh công thức, dập khuôn máy móc, bệnh xã
hội dung tục cũng đều sinh ra từ đó. Ngay cả giáo trình phương pháp dạy học
văn cũng ít đi vào đặc trưng loại thể tác phẩm và chưa nghiên cứu sâu phong
cách nghệ thuật tác giả. Điều đó dẫn tới hiện tượng cứ thấy truyện là dạy theo
tự sự, thấy thơ là dạy theo hướng trữ tình. Quan điểm dạy học văn máy móc
và thiếu khoa học như vậy đã làm giảm đi cái hay vốn có của đặc trưng bộ
môn, của từng tác phẩm.
1.3. Văn học Việt Nam từ cổ điển đến hiện đại, qua từng giai đoạn, từng thời
kỳ, hoà trong dòng chảy chung của quy luật phát triển vẫn ghi đậm dấu ấn
riêng của từng tác giả. Có thể nói, chính họ với tài năng thể hiện qua thực tiễn
sáng tác của mình đã tạo cho nền văn học dân tộc một diện mạo độc đáo, đa
dạng về phong cách, phong phú về thể tài. Trong số những tác giả đó nhà thơ
Tố Hữu có một vai trò quan trọng trên thi đàn cũng như trong nền văn học sử
nước nhà. Ông vừa là nhà thơ đầu tiên của giai cấp vô sản – Người văn nghệ
binh thứ nhất, theo cách nói của Nguyễn Đình Thi – vừa là con chim đầu đàn
của nền thơ ca cách mạng Việt Nam hiện đại. Suốt nửa thế kỷ qua, thơ Tố
Hữu không chỉ là đối tượng nghiên cứu của giới văn học nghệ thuật, mà còn
là đối tượng để dạy và học trong các nhà trường phổ thông và đại học. Trong
chương trình môn Ngữ Văn THPT, Tố Hữu là một tác gia có vị trí quan trọng

và là lá cờ đầu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. Là một nhà thơ lớn, Tố Hữu
không chỉ là người thể hiện sâu sắc tinh thần thời đại, mà còn là người đánh
dấu một bước phát triển mới của thơ ca dân tộc. Thơ Tố Hữu đã thực sự trở
thành một bộ phận không thể tách rời của đời sống tâm hồn Việt Nam. Từ già
đến trẻ, người Việt Nam hầu như chẳng có ai là không thuộc, không yêu ít
nhiều thơ Tố Hữu. Mỗi tác phẩm thơ Tố Hữu đều mang đậm đặc trưng thể
7
loại và phong cách riêng của nhà thơ. Tuy nhiên việc dạy tác phẩm thơ Tố
Hữu ở trường THPT hiện nay còn đơn điệu, tẻ nhạt, chưa xác định đúng “chất
của loại” trong thể và chưa bám vào phong cách nghệ thuật của tác giả nên
chưa tạo được hứng thú cho học sinh. Mặt khác thành tựu thơ ca mà nhà thơ
Tố Hữu để lại cho nền văn học nước nhà chưa có được chỗ đứng xứng đáng
trong lòng những người yêu văn chương.
Với những trăn trở về hiệu quả tiếp nhận tác phẩm thơ Tố Hữu của học
sinh THPT cùng với mong muốn tha thiết khám phá cái hay, cái đẹp của mỗi
tác phẩm, tôi quyết định chọn đề tài: “Dạy học thơ Tố Hữu ở Trung học phổ
thông theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật”. Hi vọng, sự thành
công của đề tài này sẽ góp một tiếng nói vào việc dạy học văn học theo đặc
trưng thể loại và phong cách nghệ thuật cũng như tìm ra một hướng đi mới
cho việc dạy học thơ Tố Hữu trong nhà trường phổ thông.
2. Lịch sử vấn đề
2.1.Tình hình nghiên cứu dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại và phong cách nghệ thuật.
Những năm gần đây do yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, GV
Ngữ Văn các cấp đã được bồi dưỡng nhiều tri thức các thể loại văn học và
dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại. Bên cạnh đó cũng có
nhiều công trình nghiên cứu, các tài liệu hướng dẫn phân tích tác phẩm văn
chương theo loại thể. Trên cơ sở những thành tựu về loại thể văn học và thi
pháp học, nhiều nhà nghiên cứu, nhà sư phạm tâm huyết đã đề xuất cách
thức, con đường dạy học sinh cảm thụ, tiếp nhận tác phẩm văn chương nói

chung; thơ trữ tình nói riêng theo đặc trưng thể loại. Các tác giả trong chuyên
luận của mình khi nói về vấn đề giảng dạy và phân tích tác phẩm văn chương
đều không bỏ qua đặc thù thẩm mĩ của thể loại tác phẩm cần phân tích. Tiêu
biểu là các công trình của các tác giả:
Trần Thanh Đạm: Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể
(NXB Giáo dục, 1971)
8
Lê Huy Bắc, Phan Huy Dũng, Nguyễn Văn Hiếu: Những vấn đề thể
loại và lịch sử văn học (NXB Giáo dục, 2008)
Phan Trọng Luận: Xã hội - Văn học - Nhà trường (1996), Văn học
trong nhà trường nhận diện, tiếp cận đổi mới (Nxb Đại học Sư phạm, 2007),
Cảm thụ văn học - giảng dạy văn học (1983), Phương pháp dạy học văn (Nxb
Đại học Sư phạm, 2008)
Nhóm tác giả trường ĐHSP Hà Nội I: Nhà văn và tác phẩm trong
trường phổ thông, Nxb Đại học Sư phạm, 2001.
Nguyễn Viết Chữ: Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo
loại thể (NXB Đại học Sư phạm, 2006)
Hoàng Ngọc Hiến: Năm bài giảng về thể loại (Trường viết văn Nguyễn
Du, Hà Nội, 1992),…
Trong cuốn Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc
nhìn thể loại, tác giả Lã Nhâm Thìn cũng khẳng định việc phân tích tác phẩm
văn học từ góc nhìn thể loại là một trong những hướng khoa học nhất, hiệu
quả nhất, vừa có ý nghĩa về khoa học cơ bản, vừa thiết thực về khoa học sư
phạm, là “một công đôi việc”, là “mũi tên đạt được hai đích”, là cần thiết với
nhà nghiên cứu đồng thời cần thiết với người giảng dạy.
Ngoài ra, trong cuốn Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể,
tác giả Trần Thanh Đạm đã giải đáp phần nào những thắc mắc, băn khoăn của
giáo viên trong vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể. Vì thế trong
công trình nghiên cứu này, một mặt tác giả giới thiệu một số kiến thức cơ bản
nhất về các loại, thể văn học chủ yếu có liên quan đến chương trình văn học

THPT nhất là phần văn học Việt Nam xưa và nay. Mặt khác, tác giả cũng đưa
ra phương pháp vận dụng đặc trưng các loại thể vào việc giảng dạy các tác
phẩm trong chương trình Ngữ Văn THPT, có kết hợp phân tích một số bài
tiêu biểu thuộc các thể loại khác nhau…
9
2.2. Tình hình nghiên cứu của chuyên ngành phương pháp dạy học văn về thơ
Tố Hữu và dạy học thơ Tố Hữu.
Tố Hữu là một nhà thơ lớn của nền thơ ca Việt Nam. Ông đã để lại cho
đời một sự nghiệp văn chương có giá trị cao. Đời thơ của ông được tập hợp
trong 7 tập thơ, ra đời cùng với chiều dài lịch sử của dân tộc: Từ ấy, Việt
Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa, Một tiếng đờn, Ta với ta. Từ Từ ấy đến
Ta với ta là cả một cuộc hành trình dài của đời thơ Tố Hữu.
Mỗi tập thơ Tố Hữu ra đời là một hiện tượng văn học lớn và đã thu hút
giới phê bình nghiên cứu một cách đông đảo. Có đến hàng chục công trình
nghiên cứu văn học về thơ ông. Đáng chú ý hơn cả là những công trình của
các nhà thơ nổi tiếng như: Xuân Diệu, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng
Lư,…; của các nhà nghiên cứu phê bình văn học có tên tuổi như: Hoài Thanh,
Đặng Thai Mai, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Đình Sử, vv… và
một số bài viết của chính tác giả về đời mình và thơ mình. Các công trình
nghiên cứu, các bài viết tập trung vào một số vấn đề sau trong đời và thơ Tố
Hữu:
Con đường thơ của Tố Hữu: gồm các bài viết về các tập thơ của ông,
khuynh hướng vận động của thơ Tố Hữu.
Phong cách nghệ thuật: là các công trình nghiên cứu các bài viết tập
trung khai thác, khám phá những giá trị đặc sắc trong thơ Tố Hữu cả về nội
dung lẫn hình thức nghệ thuật.
Luận đề về Tố Hữu: tác phẩm tiếp nhận và thưởng thức là những bài
viết đi sâu vào tìm hiểu, phân tích, thẩm bình một số bài thơ tiêu biểu của Tố
Hữu qua các chặng đường thơ của ông.
Hồi ức và kỷ niệm: gồm những kỷ niệm về một đời người và đời thơ

của Tố Hữu được tập trung trong Hồi ký của ông, các kỷ niệm đẹp về Tố Hữu
trong kí ức của bạn bè, đồng nghiệp, người thân.
Nhìn lại những chặng đường đã qua, những mốc lớn trong đời thơ Tố
Hữu ta dễ dàng nhận ra: giới phê bình, nghiên cứu dành nhiều trang viết về
10
các chặng đường thơ Tố Hữu trước 1975 và đều thống nhất khẳng định Tố
Hữu là đỉnh cao thơ trữ tình chính trị Việt Nam thế kỷ XX.
Về dạy học thơ Tố Hữu trong chương trình phổ thông cũng có khá
nhiều đề tài, luận văn, luận án thuộc các chuyên ngành nghiên cứu.
Về dạy học thơ Tố Hữu nói chung và thơ Tố Hữu ở THPT nói riêng
theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật là một hướng nghiên cứu
mới. Dẫu chưa có một công trình nào bàn về vấn đề dạy học thơ Tố Hữu theo
đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật nhưng các công trình nghiên cứu
về dạy học nói chung và nhất là dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng
thể loại và phong cách nghệ thuật, cùng với những công trình nghiên cứu về
thơ Tố Hữu là những tài liệu tham khảo quý giá đối với chúng tôi trong quá
trình thực hiện đề tài này.
Trên cơ sở kế thừa và tiếp thu những thành tựu của những người đi
trước, tôi đề xuất đề tài dạy học thơ Tố Hữu ở THPT theo đặc trưng thể loại
và phong cách nghệ thuật.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Vận dụng lý luận về tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm văn chương, về đặc
trưng thi pháp thể loại thơ trữ tình và phong cách nghệ thuật tác giả đề xuất
các phương pháp cụ thể của việc dạy tác phẩm thơ Tố Hữu trong chương
trình THPT theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật nhằm nâng cao
chất lượng dạy học tác phẩm văn học, góp phần khẳng định ưu điểm và tính
khả thi của hướng dạy tác phẩm theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ
thuật.
Khái quát những kiến thức về thể loại và phong cách nghệ thuật.
Khảo nghiệm dạy học tác phẩm thơ Tố Hữu trong chương trình THPT

ở một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Xác định phương hướng dạy học hợp lí và hiệu quả cho việc dạy học
thơ Tố Hữu ở THPT theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật.
11
Thiết kế bài dạy tác phẩm thơ Tố Hữu trong chương trình THPT theo đặc
trưng thể loại và phong cách nghệ thuật. Thực nghiệm sư phạm để kiểm chứng kết
quả nghiên cứu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Dạy học thơ Tố Hữu cho học sinh THPT.
4.2. Khách thể nghiên cứu: Học sinh lớp 11,12, GV dạy Ngữ Văn 11, 12, ở
một số trường THPT trên địa bàn tỉnh Nam Định.
4.3. Phạm vi nghiên cứu:
Đặc trưng thi pháp thể loại và phong cách nghệ thuật tác giả, cách tổ
chức hoạt động dạy học thơ Tố Hữu trong chương trình Ngữ Văn THPT theo
đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật.
Tại trường THPT Xuân Trường B, huyện Xuân Trường và một số
trường THPT thuộc địa bàn tỉnh Nam Định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tham khảo các tài liệu, giáo trình có
nội dung liên quan.
Phương pháp khảo sát, thực nghiệm, thống kê, phân tích.
Phương pháp nghiên cứu theo quan điểm liên ngành: vận dụng kiến
thức về Văn học Việt Nam, Lí luận dạy học hiện đại vào giải quyết đề tài.
Phương pháp quy nạp, tổng hợp, khái quát.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu; Kết luận; Khuyến nghị; Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng và định hướng dạy học thơ Tố Hữu ở THPT
theo đặc trưng thể loại và phong cách nghệ thuật

Chương 3: Thiết kế giáo án và thực nghiệm.
12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thể loại và dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại
1.1.1. Thể loại văn học
Để việc tiếp nhận đúng hướng, chính xác và dạy học đạt hiệu quả một
tác phẩm văn chương thì sự hiểu biết những kiến thức về đặc trưng thể loại là
rất cần thiết. Bởi lẽ khi có những hiểu biết đúng đắn về loại thể chúng ta mới
có căn cứ để xác định được những tính chất của loại ở trong một thể nào đó
và khai thác đúng trọng tâm nội dung tác phẩm và tư tưởng mà nhà văn gửi
gắm trong tác phẩm đó.
Từ điển thuật ngữ văn học, do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (đồng chủ biên) xác định thể loại văn học như sau: “Thể loại văn học là
dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định
trong quá trình phát triển lịch sử văn học, thể hiện ở sự giống nhau về cách
thức tổ chức tác phẩm, về đặc điểm của các loại hiện tượng đời sống được
miêu tả và về tính chất của mối quan hệ của nhà văn đối với các hiện tượng
đời sống ấy”.
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thường sử dụng những phương
pháp chiếm lĩnh đời sống khác nhau, thể hiện những quan hệ thẩm mĩ khác
nhau đối với hiện thực, có những cách thức xây dựng hình tượng khác nhau.
Các phương thức ấy ứng với những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau
của con người - hoặc trầm tư, chiêm nghiệm, hoặc qua biến cố liên tục, hoặc
qua xung đột,… làm cho tác phẩm văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy
định lẫn nhau về các loại đề tài, cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết
cấu và hình thức lời văn. Ví dụ: nhân vật kịch, kết cấu kịch, hành động kịch
với lời văn kịch; hoặc nhân vật trữ tình, kết cấu thơ trữ tình với lời thơ, luật
thơ,… Người ta có thể tập hợp thành từng nhóm những tác phẩm văn học
giống nhau về phương thức miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh thể ấy. Đó là

13
cơ sở khách quan tồn tại thể loại văn học và cũng là điểm xuất phát để xây
dựng nguyên tắc phân chia thể loại văn học.
Lí luận văn học dựa vào yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học
thành các loại và thể (hoặc thể loại, thể tài). Loại rộng hơn thể, thể nằm trong
loại. Bất kì tác phẩm nào cũng thuộc một loại nhất định và quan trọng hơn là
có một hình thức thể nào đó. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại: tự sự,
trữ tình, kịch. Mỗi loại lại bao gồm một số thể.
Thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể của tác phẩm. Cùng một loại
nhưng các thể khác nhau rất sâu sắc. Ngoài đặc trưng của loại, các thể còn
phân biệt nhau bởi hình thức lời văn (thơ và văn xuôi), dung lượng (truyện
dài, truyện ngắn,…), loại nội dung cảm hứng (bi kịch, hài kịch, thơ trào
phúng, thơ ca ngợi,…). Một số nhà nghiên cứu còn đề xuất cách chia thể theo
loại đề tài, chủ đề, chẳng hạn: thơ tình, thơ điền viên, truyện lịch sử, truyện
tâm lí xã hội, truyện phong tục,… Điều này cho thấy thể loại văn học là sự
thống nhất giữa một loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và phương
thức chiếm lĩnh đời sống. Các thể loại văn học “là một phạm trù lịch sử. Nó
chỉ xuất hiện vào một giai đoạn phát triển nhất định của văn học và sau đó
biến đổi và được thay thế” (D.Li-kha-chốp), vì vậy khi tiếp cận với các thể
loại văn học cần tính đến thời đại lịch sử của văn học và những biến đối, thay
thế của chúng.
Bất kì tác phẩm văn học nào cũng đều tồn tại trong một dạng thức nhất
định. Đó là sự thống nhất mang tính chỉnh thể của một loại nội dung với
những phương thức biểu đạt và hình thức tổ chức tác phẩm, tổ chức lời văn.
Thể loại văn học chính là sự phân chia loại hình tác phẩm theo những căn cứ
nêu trên. Thể loại văn học là sự thống nhất giữa một loại nội dung với một
dạng hình thức văn bản và phương thức tái hiện đời sống.
Thể loại vừa có tính ổn định lại vừa có sự vận động, biến đổi trong tiến
trình văn học. Mỗi thể loại được sinh ra ở một thời kì nhất định, rồi được duy
trì, biến đổi hoặc mất đi trong các thời đại văn học khác, được thay thế bằng

14
những thể loại khác. Thể loại cũng gắn liền với đặc thù của từng nền văn học
dân tộc hoặc khu vực. Nhưng trong quá trình giao lưu giữa các nền văn học,
nhiều thể loại từ một nền văn học hoặc một khu vực đã được du nhập vào các
nền văn học khác, để trở thành những thể loại mang tính quốc tế, tuy vẫn có ít
nhiều nét riêng ở mỗi nền văn học.
Đọc và phân tích một tác phẩm văn học không thể không quan tâm
đến đặc điểm thể loại của tác phẩm ấy. Bởi vì thể loại chính là cơ sở tạo nên
tính thống nhất chỉnh thể của một tác phẩm, tổ chức liên kết các yếu tố nội
dung và hình thức, từ đề tài, chủ đề, cảm hứng đến hệ thống nhân vật, kết cấu
và lời văn nghệ thuật. Thể loại không những quy định cách thức tổ chức tác
phẩm mà còn định hướng cho việc tiếp nhận của độc giả, tạo nên kênh giao
tiếp giữa tác phẩm và người đọc. Thể loại của tác phẩm vừa có tính kế thừa,
tính liên tục, lại vừa có tính độc đáo, tính biến đổi do sự sáng tạo của tác giả.
Vì thế, phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại không thể chỉ dừng lại ở
những đặc điểm chung của một thể loại thể hiện trong tác phẩm, mà còn cần
phải chỉ ra nét riêng biệt, độc đáo, thể hiện sự sáng tạo không lặp lại của tác giả.
Các tác giả trong cuốn Lý luận văn học (tập 2): Phương Lựu, Trần
Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam quan niệm: “Thể loại tác phẩm văn học là khái
niệm chỉ quy luật, loại hình của tác phẩm, trong đó ứng với một nội dung
nhất định có một hình thức nhất định, tạo cho tác phẩm một hình thức tồn tại
chỉnh thể”.
Từ những điều trên, chúng tôi cùng thống nhất cách hiểu về khái niệm
thể loại văn học như sau:
Thể loại văn học là phương thức tái hiện đời sống và thể thức cấu tạo văn
bản.
Tên gọi thể loại của tác phẩm cho ta biết: phạm vi và phương thức tiếp xúc,
tái hiện đời sống; hệ thống các phương tiện, phương pháp thể hiện tương ứng.
Phân loại tác phẩm văn chương chủ yếu dựa vào phương thức tái hiện
đời sống; cấu tạo tác phẩm; loại đề tài; chủ đề; thể văn: Tác phẩm văn học

15
được chia ra làm ba loại chính: loại tác phẩm tự sự, loại tác phẩm trữ tình, loại tác
phẩm kịch.
Tác phẩm tự sự (nghĩa đen là kể việc) là loại tác phẩm dùng lời kể tái
hiện lại những việc làm biến cố nhằm dựng lại một dòng đời như đang diễn ra
một cách khách quan, qua đó bày tỏ một cách hiểu và một thái độ nhất định.
Tác phẩm tự sự bao giờ cũng có lời kể, lời miêu tả (của người kể chuyện
đang chứng kiến, kể ra theo một điểm nhìn) với một giọng điệu nhất định; có
cốt truyện chính là cái biến cố xảy ra liên tiếp, sau cái này là cái kia hoặc là
cái này làm nảy sinh cái kia, xô đẩy nhau tới một đỉnh cao buộc phải giải
quyết, giải quyết xong thì truyện dừng lại; có nhân vật và có rất nhiều loại
hình thức ngôn ngữ như trần thuật, đối thoại, độc thoại…
Tác phẩm trữ tình (nghĩa đen là chứa đựng tình cảm) là loại tác phẩm
qua lời lẽ thể hiện nỗi niềm tâm trạng, những ảnh tượng trông thấy mà thể
hiện các cảm xúc, thái độ chủ quan của con người với thế giới.
Tác phẩm kịch (nghĩa đen là biểu hiện những căng thẳng đột ngột khác
thường) là loại tác phẩm qua việc tái hiện những hành động xung đột kịch để
làm tái hiện lên bản chất đời sống và bảy tỏ thái độ.
Nói tóm lại, mỗi loại tác phẩm văn học lại có một phương thức kết cấu
hình tượng văn học để phản ánh cuộc sống và biểu hiện tư tưởng của nhà văn.
Nếu hình tượng thiên nhiều về phản ánh cuộc sống, với con người, sự việc, sự
vật trong tính khách quan ta sẽ có những tác phẩm tự sự, nếu hình tượng thiên
nhiều về biểu hiện tư tưởng, tình cảm… của con người, hiện thực trực tiếp
biểu hiện ý nghĩ chủ quan của tác giả ta sẽ có tác phẩm trữ tình. Khi tác phẩm
tự sự tập trung, cô đọng đến mức bản thân các sự vật, sự việc có thể tự bộc lộ
độc lập trên sân khấu hoặc trong trang sách… khi đó ta có tác phẩm kịch.
1.1.2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại
Từ lâu, vấn đề dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại đã
được các nhà lí luận nghiên cứu phương pháp quan tâm. Giáo sư Nguyễn
Thanh Hùng đã đi sâu vào giải quyết vấn đề giảng dạy tác phẩm trữ tình và

16
phương pháp giảng dạy thơ. Tác giả viết “khi giảng dạy tác phẩm văn học trữ
tình cần chú ý những đặc trưng thể loại”, phải giúp HS lĩnh hội “hiện thực
nghệ thuật của tác phẩm” và “hiện thực riêng”. Còn Phó giáo sư Nguyễn Thị
Thanh Hương khẳng định đặc trưng thể loại quy định phương thức lĩnh hội và
việc lựa chọn những hoạt động chính của HS. Tác giả chỉ rõ: với tác phẩm tự
sự, GV hướng dẫn HS đi sâu vào phân tích các nhân vật chính phụ, lý giải số
phận nhân vật chính thông qua hành động và xung đột. Còn với tác phẩm thơ
phải định hướng cho HS tập trung phân tích nhịp điệu, luật thơ, nhạc tính,
hình tượng thơ (nếu có), nhân vật trữ tình trong thơ trữ tình. Tác giả còn có
một chuyên luận về dạy học truyện ngắn trong nhà trường THPT. Từ đặc
trưng thi pháp thể loại tác giả chỉ ra các bước phân tích một truyện ngắn: đọc
dựng chân dung tác phẩm, xác định nhân vật chính phụ; tiếp cận đồng bộ tác
phẩm; phân tích nhân vật; bình giá các chi tiết đặc sắc…
Trong cuốn Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể,
tác giả Nguyễn Viết Chữ đã xuất phát từ quan niệm văn học là “trò diễn bằng
ngôn từ”, ngôn từ trong văn học là một thứ ngôn ngữ đặc biệt được chưng cất
từ hiện thực ngôn ngữ toàn dân nên ngôn ngữ văn học có tính hình tượng, có
tính chính xác, tính hệ thống, tính biểu cảm sinh động, tính hàm súc đa nghĩa,
tính cá thể hóa cao, tác giả đã nhấn mạnh bằng ngôn ngữ, mỗi thể loại lại xây
dựng hình tượng theo đặc trưng riêng và như vậy ngôn ngữ trong văn học vừa
được sử dụng như những tín hiệu thẩm mỹ và đến lượt mình tác phẩm văn
chương cũng chính là một tín hiệu thẩm mỹ. Tác giả kết luận: Một tác phẩm
văn chương đích thực không phải chỉ đem đến thông tin mà phải là một hệ
thống tín hiệu kích thích để “bùng nổ” thông tin. Ở đây, “cái thật”, “cái ảo”,
“cái thực” trong thế giới hình tượng nghệ thuật gợi mở ra bao điều thú vị
trong trường liên tưởng của người đọc. Về cấu trúc, tác phẩm văn học thường
có nhiều tầng nghĩa, tầng ngữ nghĩa do ngôn ngữ trực tiếp đưa lại, tầng hình
dung tưởng tượng từ hình ảnh, hình tượng tác phẩm tạo ra sự lung linh trong
tưởng tượng của người đọc, tầng ý được suy ra từ hai tầng trên. Theo tác giả,

17
tác phẩm là đối tượng thẩm mỹ của quá trình dạy học vì thế người thầy giáo
ngữ văn phải là người đọc đặc biệt, phải là sự hiện hữu nghệ thuật của nghệ
thuật, phương pháp của phương pháp. Dạy học văn để nhận thức cái đẹp. Mọi
phương pháp dạy học phải xuất phát từ đặc điểm cảm thụ văn học của các lứa
tuổi của HS. Trên cơ sở nhận thức lại về bộ môn văn trong nhà trường đã nêu,
tác giả đã đưa ra phương pháp, biện pháp chung và những vấn đề chung có
tính phương pháp khi tiến hành dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể.
Một trong những phạm trù hàng đầu của Thi pháp học là thể loại, nó
chi phối tất cả các yếu tố còn lại của hình thức tác phẩm. Không phải ngẫu
nhiên mà sách giáo khoa hiện hành sắp xếp tác phẩm theo thể loại và mỗi khi
dạy - học tới một thể loại nào đó sách giáo khoa thường nêu chú thích về đặc
trưng thể loại đó. Có một số thể loại có thể nói lướt qua nhưng cũng có một
số thể loại cần phải được học thật kỹ trên lớp.
Vấn đề dạy học theo đặc trưng thể loại đã được các nhà lý luận nghiên
cứu phương pháp quan tâm. Không thể có chung một loại phương pháp, cách
thức dạy và học cho tất cả các loại tác phẩm nói chung và từng tác phẩm nói
riêng. Tác phẩm thuộc thể loại nào đòi hỏi cách dạy theo đặc trưng của thể
loại ấy. Thực tế giảng dạy tác phẩm khó khăn, phức tạp như vậy đòi hỏi GV
và HS cần trang bị những kiến thức về loại thể, đặc biệt là thi pháp loại thể để
hiểu sâu sắc về thơ trữ tình hơn. Khi xác định đúng đặc trưng thể loại của tác
phẩm cần phân tích GV sẽ lựa chọn được cách thức tổ chức, hướng dẫn định
hướng phù hợp để giúp HS nắm được chiều sâu của tác phẩm để quá trình dạy
học thực sự đạt kết quả.
Tuy nhiên cũng cần lưu ý là:
Tìm hiểu thi pháp thể loại là cơ sở để phát hiện nét độc đáo của thi
pháp tác giả, thi pháp tác phẩm.
Tiếp cận thi pháp thể loại không tách rời với việc tiếp cận đồng bộ tác
phẩm văn chương trong nhà trường. Thi pháp thể loại là vấn đề có tính
nguyên tắc chi phối quá trình đến với tác phẩm, giải mã tác phẩm nhưng

18
những hiểu biết về hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, tư tưởng thời đại và cá nhân
con người, tiểu sử nhà văn thì có thể lý giải được các yếu tố mờ ẩn trong tác
phẩm.
Vận dụng thi pháp vào giảng dạy tác phẩm văn chương phải gắn liền
với lý luận dạy học hiện đại: phải đọc kỹ văn bản, xác định được “chất của
loại” của tác phẩm; phải nắm được những đặc điểm của hoạt động tiếp nhận
tác phẩm văn chương; giáo viên Văn vừa là nhà khoa học, nhà sư phạm vừa
là người nghệ sỹ.
Có thể nói, đặc trưng thể loại của tác phẩm là điều kiện đầu tiên quyết
định hiệu quả của quá trình tiếp nhận của HS. Người GV khi định hướng dạy
học tác phẩm văn chương phải biết xuất phát từ đặc trưng thể loại của tác
phẩm, đối tượng tác động, đối tượng tiếp nhận để tổ chức hướng dẫn học sinh
phân tích, cảm thụ tác phẩm, từ đó tìm ra khả năng tác động đặc biệt của tác
phẩm đó đối với HS trong lớp, đề ra yêu cầu về hoạt động của HS và GV
soạn giáo án và lập kế hoạch giảng dạy, tránh lối dạy rập khuôn, đơn điệu.
1.2. Những vấn đề chung về thơ trữ tình
1.2.1. Khái niệm về thơ trữ tình
Thơ trữ tình là một thể loại chiếm số lượng lớn nhất trong nền thơ ca
nói chung. Thơ trữ tình tồn tại cùng với con người qua hàng ngàn năm lịch
sử, dù vị thế của nó trong hệ thống thể loại văn học có thể thay đổi qua các
thời đại và cũng khác nhau ở từng nền văn học. Trên thực tế, vấn đề giảng
dạy thơ trữ tình không dễ vì đây là mảng thơ nghệ thuật thường có ý nghĩa
hàm ẩn, ý ở ngoài lời, nhiều khi phải tìm tòi, giải mã mới đến được tầng
nghĩa sâu xa.
Về khái niệm, chưa tìm thấy một định nghĩa hoàn chỉnh. Tuy nhiên
trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học do Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi (đồng chủ biên) có một quan niệm khá sâu sắc về thể loại thơ trữ
tình như sau: “Thơ trữ tình là thuật ngữ chỉ chung cho các thể thơ thuộc loại
trữ tình, trong đó những cảm xúc và suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ

19
tình trước các hiện tượng đời sống được thể hiện một cách trực tiếp. Tính
chất cá thể hoá của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hoá của sự thể hiện là
những dấu hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ
tình có khả năng thể hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ
các cung bậc của tình cảm cho tới những chính kiến, những tư tưởng triết
học”.
Thuật ngữ thơ trữ tình được sử dụng nhằm phân biệt với thơ tự sự
thuộc loại tự sự.
Tuỳ theo truyền thống văn học cụ thể, người ta có thể phân loại thơ trữ
tình qua nhiều cách khác nhau. Trước đây, trong văn học Châu Âu, người ta
thường dựa vào cảm hứng chủ đạo mà chia thơ trữ tình thành bi ca, tụng ca,
thơ trào phúng. Ngày nay, người ta dựa vào đối tượng đã tạo nên cảm xúc của
nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình để phân chia thành thơ trữ tình tâm tình,
thơ trữ tình phong cảnh, thơ trữ tình thế sự, thơ trữ tình công dân. Các cách
phân loại như trên đều hết sức tương đối, nhiều khi xen lẫn và biến dạng.
Nhưng dù sao sự phân loại cũng giúp ta thuận lợi hơn trong việc tìm hiểu cảm
hứng chủ đạo, truyền thống nghệ thuật của bài thơ và khuynh hướng của nhà
thơ.
1.2.2. Đặc trưng của thơ trữ tình
1.2.2.1. Tứ thơ
Thơ hay do nhiều lẽ, hay ở ý sâu xa, ở tình cảm chân thành dào dạt, ở
hình tượng đẹp, liên tưởng phong phú, ngôn ngữ điêu luyện, nhịp điệu mới
mẻ…và quan trọng là ở sự độc đáo của tứ thơ. Bài thơ có tứ làm cho kết cấu
tác phẩm thơ cân đối, chặt chẽ, đem lại xúc động mạnh, có sức ám ảnh cho
người đọc. Cho nên sáng tạo được tứ thơ hay, trước hết bộc lộ tài năng của
nhà thơ.
Tứ thơ là một thuật ngữ được nói đến từ lâu trong thi pháp học, nhưng
để nêu một định nghĩa rõ ràng và chính xác về nó quả thật không dễ dàng. Có
nhiều cách quan niệm về tứ thơ nhưng tựu chung có thể hiểu một cách đơn

20
giản và ngắn gọn: Tứ thơ như một ý chính, ý lớn bao quát toàn bài thơ nhưng
không phải là một ý tưởng hoàn toàn trừu tượng mà nó là những gì rất cụ thể
của đời sống (một hiện tượng, một hình ảnh, một suy nghĩ…) được lựa chọn
làm điểm tựa cho sự vận động của cảm xúc. “Tứ thơ là hình thức đặc biệt để
biểu hiện ý nghĩa bài thơ một cách không trực tiếp” (Trần Đình Sử, Lí luận
văn học, tập 2, NXB Đại học Sư phạm, tr 286). Còn cấu tứ là cách tổ chức tứ
thơ, tạo mạch vận động và những tương quan của tư tưởng, cảm xúc, hình
tượng trong bài thơ.
Nhìn chung, mỗi bài thơ đều được xây dựng trên một tứ thơ. Có những
tứ thơ được xác lập công phu, phức tạp, có tứ thơ giản dị. Ở dạng nào tứ thơ
cũng phải có sắc thái và dáng dấp cụ thể. Nhiều bài thơ đứng được là nhờ cái
tứ, tứ tạo nên chiều sâu của sáng tác thi ca. Tuy nhiên từ cái tứ chung đến bài
thơ là một chặng đường dài. Người viết phải cụ thể hoá cái tứ chung ra thành
các ý, những cảm xúc và những hình ảnh cụ thể. Hay nói một cách khác,
người viết phải hướng sự vận động của cảm xúc, suy nghĩ và hình ảnh phù
hợp với tứ thơ. Tế Hanh tâm sự khi viết bài Mặt quê hương: “Cái tứ mặt
người yêu và mặt quê hương đến với tôi tương đối nhanh. Nhưng khi phát
triển cái tứ ấy ra thành hình ảnh thì tôi phải suy nghĩ nhiều…Đoạn đầu tôi mở
tứ ấy, những đoạn sau tôi phát triển tứ ấy, lập ý bằng hình ảnh; đôi mắt giống
dòng sông, vầng trán là khoảng trời, cái miệng gợi đến một mảnh vườn, hơi
thở làm nhớ đến không khí”. Rõ ràng, từ cái tứ ban đầu đến việc lập ý, phát
triển cảm xúc xây dựng hình ảnh cụ thể là một quá trình dài khá phức tạp.
Trong sáng tạo nghệ thuật, có được một tứ hay là điều đặc biệt quan
trọng. Tứ chỉ đạo trực tiếp hướng vận động và phát triển của cảm xúc, suy
nghĩ và xây dựng hình ảnh. Một tứ thơ hay phải là tứ thơ tạo được sự mới lạ,
có khi độc đáo nhưng vẫn tự nhiên, không phải là sự bố trí cố ý của nhà thơ.
Nhiều tứ thơ tạo được sự bất ngờ cho người đọc, gần với những tình huống
kịch. Có thể lấy bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy làm ví dụ. Bài thơ có hai
hình tượng chính: “trăng” và “ta” (nhân vật trữ tình của bài thơ). Mối quan

21
hệ giữa hai nhân vật ấy có sự biến đổi theo bố cục của bài thơ. Thời thơ ấu và
thời trai trẻ vào lính của nhân vật trữ tình. Khi ấy trăng gần gũi, thân thiết với
con người như người bạn tri kỉ. Ở đoạn sau khi con người chuyển sang một
không gian sống khác – nơi đô thị với đầy đủ tiện nghi: đèn điện, cửa gương,
cao ốc thì vầng trăng trở thành kẻ xa lạ “Như người dưng qua đường”. Sự đối
lập giữa người và trăng ở hai giai đoạn, hai hoàn cảnh sống như vậy đã gợi ra
một ý tưởng nhưng tứ thơ và cũng là chỗ sâu sắc trong tư tưởng của bài thơ
chỉ thực sự bật ra khi xảy ra một tình huống bất thường: lúc mất điện trong
thành phố: “Thình lình đèn vụt tắt – Phòng buyn đinh tối om”, khi ấy nhân
vật trữ tình vội mở toang cửa sổ và bất ngờ gặp lại vầng trăng vẫn sáng trong,
vẹn nguyên trên bầu trời . Vầng trăng ấy như gọi về cái không gian rộng rãi
của đồng, bể, sông, rừng cũng là những năm tháng quá khứ của tuổi trẻ được
gọi về. Vầng trăng hiện ra như lời nhắc nhở về nghĩa tình, về sự thuỷ chung
với quê hương, với đồng đội, với nhân dân, với những năm tháng chiến tranh
gian khổ nhưng cũng thật trong sáng, nên thơ.
Tứ thơ có một vị trí quan trọng, tuy nhiên có bài thơ có tứ hay nhưng
chưa phải là một sáng tác hay bởi tứ thơ chưa được bồi đắp bằng cảm xúc
hình ảnh và ngôn ngữ chọn lọc. Tứ thơ trong bài Sự sống chẳng bao giờ
chán nản của Xuân Diệu là một tứ thơ hay xuất phát từ một quan điểm triết
học và nhân sinh tiến bộ. Tuy nhiên những hình ảnh và cảm xúc cũng như
ngôn ngữ bài thơ chưa thật tương xứng với tứ thơ.
Có những trường hợp tứ thơ được tạo thành gần gũi nhau nhưng hai bài
thơ vẫn mang những nét riêng, độc đáo khác nhau. Như trường hợp các bài
thơ Núi đôi của Vũ Cao, và Quê hương của Giang Nam rất gần gũi về tứ thơ
nhưng mỗi bài thơ lại phát triển và tạo nên những giá trị riêng. Có thể nói, tứ
thơ phải đi đôi với tình. Nếu chỉ có tình mà không có tứ hay thì tình cảm dễ bị
tản mạn, thiếu sức liên kết tự bên trong. Nếu chỉ có tứ mà không có tình thì
thơ dễ rơi vào lí trí, những suy tưởng khô khan.
1.2.2.2. Nhân vật trữ tình, cái tôi trữ tình, hình ảnh thơ, hình tượng thơ

22
Phương thức trữ tình là cách biểu đạt bằng lời trực tiếp của chủ thể trữ
tình. Trong thơ, chủ thể trữ tình thường hiện ra trong hình thức cái Tôi trữ
tình hoặc hoá thân vào một nhân vật trữ tình.
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với
thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua
việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới riêng biệt
độc đáo, mang tính thẩm mĩ nhằm truyền đạt năng lượng tinh thần ấy đến cho
người đọc.
Cái tôi trữ tình bộc lộ dưới nhiều dạng thức: Thường thì cái tôi trữ tình
dễ bộc lộ trực tiếp trong trường hợp viết về chính bản thân mình và trong
những quan hệ riêng tư. Trong trường hợp này cái tôi trữ tình trong thơ
thường phổ biến là cái tôi của tác giả. Trường hợp thứ hai là cảnh ngộ, sự
việc trong thơ không phải là cảnh ngộ riêng của tác giả. Nhà thơ nói lên cảm
nghĩ về những sự việc mà mình có dịp trải qua hoặc chứng kiến như một kỉ
niệm, một quan sát. Tố Hữu với Ta đi tới, Chiến thắng Điện Biên; Huy Cận
với Các vị La Hán chùa Tây Phương, Chân lí; Nguyễn Đình Thi với Đất
nước; Hoàng Trung Thông với Bài ca vỡ đất, Ngày mùa…đều nằm trong
trường hợp này. Cái tôi trữ tình là nhân vật trữ tình chủ yếu của sáng tác.
Trường hợp thứ ba là những bài thơ trữ tình viết về một loại nhân vật nào đó
như Bà mẹ Việt Bắc của Tố Hữu, Anh chủ nhiệm của Hoàng Trung Thông.
Những nhân vật này có khi là những điển hình có thực ngoài đời như anh
Nguyễn Văn Trỗi, chị Nguyễn Thị Lý…Đó là nhân vật trữ tình của sáng tác
tồn tại bên cạnh cái tôi trữ tình của nhà thơ (trong trường hợp này cái Tôi trữ
tình là một loại nhân vật ít xác định cụ thể hơn). Chế Lan Viên có lí khi viết:
“Hãy từ bỏ cái tư thế đứng từ bản thân mình, từ kinh nghiệm của đời sống
riêng mình, cái tư thế lấy mình ra chịu trách nhiệm mà nói. Tức thì bài thơ
hiện thực dường như không thực nữa và sẽ mất đi nhiều sức chấn động, ngân
vang. Khác nào ta nghe một tiếng nói giữa trời mà không biết là của ai”.
23

Tuy nhiên, cần phải lưu ý khi tìm hiểu cái tôi trữ tình trong thơ là
không nên đồng nhất cái tôi trữ tình với chủ thể nhà thơ trong mọi trường
hợp. Nghệ sĩ là người có khả năng hình dung, tưởng tượng và hoá thân vào
nhiều cảnh ngộ, tâm trạng của nhiều người bằng những kinh nghiệm, trải
nghiệm của mình và năng lực riêng của người nghệ sĩ. Nhà thơ với tư cách là
người phát ngôn, người bộc lộ nhận thức, phẩm chất tinh hoa của cộng đồng,
cho nên cái tôi bao giờ cũng vươn lên thể hiện lí tưởng của dân tộc, của thời
đại.
Nhân vật trữ tình là người trực tiếp thổ lộ những suy nghĩ và cảm xúc
trong bài thơ. Nhân vật trữ tình không có diện mạo, tiểu sử, hành động, lời
nói, quan hệ cụ thể nhưng được thể hiện qua giọng điệu, cảm xúc, cách cảm,
cách nghĩ. Qua những dòng thơ ta như gặp tâm hồn người. Đó chính là nhân
vật trữ tình. Nhà lí luận văn học Nga Ju.Tynianov đã đề xuất khái niệm này:
“Cái giọng của tác giả mà ta cảm thấy trong thơ (cá nhân nhà thơ, cái Tôi nhà
thơ, tác giả với tính thứ nhất của nó) lại chính là bản thân tác phẩm nghệ
thuật, là khách thể nghệ thuật, là một loại thực tại khác so với thực tại sống,
cho nên cái Tôi đó không phải là người sáng tạo đã tạo ra thế giới nghệ thuật
này, mà chỉ là người dân sống trong thế giới được sáng tạo”. Nhân vật trữ tình
là người sống trong thế giới nghệ thuật, về chừng mực nào đó cũng có suy
nghĩ , hành động tương tự như các nhân vật khác. Khi tiếp xúc với văn bản
trữ tình, việc đầu tiên là xác định nhân vật trữ tình là ai, để có thể hình dung
vị trí, tư thế, nỗi niềm, tâm trạng của họ một cách phù hợp.
Nhân vật trữ tình có khi biểu hiện trực tiếp cái tôi thứ hai của tác giả,
nhưng nhiều khi chỉ là cái tôi nhập vai trữ tình. Trong bài thơ Bầm ơi, Tố
Hữu đã “phân thân” thành một anh bộ đội trong những ngày kháng chiến
chống thực dân Pháp, nhớ mẹ - người nông dân trung du miền núi, vất vả
nhọc nhằn. Hay trong bài thơ Đồng chí, Chính Hữu đã “hoá thân” vào đối
tượng biểu hiện – người lính. Tất nhiên ở đây cũng là tâm trạng của nhà thơ
về tình đồng chí gắn bó trong chiến tranh gian khổ. Và nhà thơ Chính Hữu
24

cũng bộc bạch: “Tôi không phải là nông dân và quê hương tôi cũng không
phải trong cảnh nước mặn đồng chua hoặc đất cằn sỏi đá. Cái tôi trong bài
thơ có những chi tiết không phải là của tôi mà là của bạn, nhưng về cơ bản là
của tôi. Tất cả những hình ảnh gian khổ của cuộc đời lính thiếu ăn, thiếu mặc,
sốt rét, bệnh tật…bạn và tôi đều cùng trải qua. Trong trường hợp đó chúng tôi
là một, gắn bó trong tình đồng đội” [11, tr.137]. Do vậy, thế giới trữ tình
không chỉ hạn hẹp trong một cá nhân nhà thơ, mà là một cấu trúc mở vô hạn,
có khả năng đề cập đến nhiều vấn đề, nhiều con người, nhiều số phận ngoài
tiểu sử cá nhân nhà thơ.
Cần phân biệt nhân vật trữ tình với nhân vật trong thơ trữ tình. Nhân
vật trong thơ trữ tình là đối tượng để nhà thơ gửi gắm tình cảm, là nguyên
nhân trực tiếp khơi nguồn tình cảm của tác giả. Những bà bầm, em Lượm, mẹ
Suốt, bà má Hậu Giang trong thơ Tố Hữu là nhân vật trong thơ trữ tình. Đọc
bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên, ngoài nhân vật ông đồ, chúng ta còn thấy
nhân vật khác đang cảm xúc với rất nhiều cung bậc khác nhau: kính phục,
thương cảm, nuối tiếc, ân hận…liên kết chuỗi tình cảm đó lại, ta hình dung ra
nhân vật trữ tình.
Khi nghị luận về các tác phẩm thơ, cần tưởng tượng, tái hiện lại những hình
ảnh đằng sau câu chữ. Tự tái hiện, dựng tả lại hình ảnh thơ với hình khối, đường
nét, màu sắc…thì càng nhận ra vẻ đẹp của lời thơ, tấm lòng và tài nghệ của người
làm thơ. Phương thức nhân cách hóa cũng được Nguyễn Đình Thi sử dụng rất
thành công khi miêu tả bầu trời thu trên núi rừng Việt Bắc tự do:
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha
(Đất nước)
Tả bầu trời biếc, Nguyễn Đình Thi đã tiếp nối nét bút quen thuộc của
nhiều thi nhân xưa trước một vẻ đẹp đặc trưng của mùa thu. Nhưng qua niềm
vui của con người được làm chủ giang sơn, đất nước, mùa thu ấy hiện lên như
25

×