MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1. TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ YÊU CẦU CỦA VIỆC
GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN
TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM HIỆN NAY 11
1.1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 11
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 11
1.1.2. Đặc điểm và bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 15
1.1.3. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh 21
1.2. Yêu cầu về việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân
Tập đoàn Dệt May Việt Nam 31
1.2.1. Đặc điểm công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam 31
1.2.2. Yêu cầu về việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công
nhân Tập đoàn Dệt may Việt Nam 35
Chương 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ CÔNG
NHÂN TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM HIỆN NAY THEO TƯ
TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 43
2.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo
đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam
hiện nay 43
2.1.1. Thực trạng đạo đức của đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May
Việt Nam 43
2.1.2. Những nội dung giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công
nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh 48
2.1.3. Những kết quả và hạn chế trong giáo dục đạo đức cách mạng cho
đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam 53
2.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công tác giáo dục đạo đức
cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam 65
1
2.2.1. Vận dụng sáng tạo những nguyên tắc xây dựng chuẩn mực đạo
đức của Hồ Chí Minh trong giáo dục đạo đức cho đội ngũ công nhân
Tập đoàn Dệt May Việt Nam hiện nay 65
2.2.2. Xây dựng môi trường làm việc trong các công ty, xí nghiệp thực
sự trong sạch, lành mạnh, thường xuyên đấu tranh chống tiêu cực,
lãng phí trong ngành 68
2.2.3. Tăng cường và kết hợp nhiều hình thức giáo dục đạo đức nói
chung và đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh trong đoàn thanh
niên, chi bộ Đảng và tổ chức Công đoàn tại các công ty 69
KẾT LUẬN 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 75
PHỤ LỤC 80
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người đã thức tỉnh cả một dân tộc chìm đắm
trong đêm dài nô lệ giành lấy Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, đã đi xa hơn bốn
mươi năm qua, nhưng tư tưởng của Người vẫn là kim chỉ nam cho hành động
của Đảng và của dân tộc ta. Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh thì tư
tưởng đạo đức của Người có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách
mạng của dân tộc. Người đã chỉ rõ vị trí, vai trò của đạo đức và những phẩm
chất đạo đức của người cách mạng đối với sự hình thành nhân cách cá nhân
và giá trị đạo đức dân tộc. Đồng thời, Người thường xuyên quan tâm tới việc
bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho các thế hệ người Việt Nam trong
đó có giai cấp công nhân.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và trưởng thành gắn liền với cuộc
cách mạng đấu tranh giải phóng dân tộc và đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Họ vừa là người lãnh đạo cách mạng, vừa là người trực tiếp lao động sản xuất
xây dựng xã hội. Cho nên, lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh coi giáo dục
đạo đức cách mạng cho công nhân là một vấn đề quan trọng, nhất là trong
thời kỳ giai cấp công nhân giành được chính quyền, trở thành chủ thể của xã
hội mới. Người dạy: “Về đạo đức vô sản, công nhân phải hiểu mình làm chủ
xí nghiệp, chủ nước nhà, hiểu lao động là vẻ vang, phải giữ gìn của công,
chống tham ô, lãng phí, bảo vệ kỷ luật lao động, phải thi đua làm tốt, nhiều,
mau, rẻ. Cải thiện sinh hoạt phải dựa trên cơ sở gia tăng sản xuất và thực hành
tiết kiệm” [30, tr.298]. Người nhấn mạnh: “công nhân trẻ tốt lắm, họ nghe và
làm theo Đảng” [34, tr.570] nên cần phải giáo dục, bồi dưỡng cho họ về
“phẩm chất đạo đức cách mạng, về chủ nghĩa anh hùng cách mạng của giai
cấp công nhân” [34, tr.570].
3
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, giai
cấp công nhân Việt Nam đã và đang đi đầu trong việc xây dựng cơ sở vật chất
- kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, giai cấp công nhân Việt Nam số
lượng còn ít, chưa được rèn luyện nhiều trong công nghiệp hiện đại, trình độ
văn hóa và tay nghề còn thấp, chính trị tư tưởng còn hạn chế. Để khắc phục
những nhược điểm này Đảng ta đặc biệt chú trọng xây dựng giai cấp công
nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp, vững vàng về chính trị tư
tưởng, có trình độ học vấn, tay nghề cao để làm tròn sứ mệnh lịch sử của
mình. Báo cáo chính trị tại Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ: “Quan tâm giáo
dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động; đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ quyền lợi,
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân” [9, tr.49]. Chính vì vậy,
Đảng ta đã coi việc bồi dưỡng, giáo dục đạo đức cách mạng cho công nhân là
nhiệm vụ quan trọng hiện nay.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã thu được
những thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng trong đó có sự đóng góp
đáng kể của đội ngũ công nhân ngành Dệt May Việt Nam. Là ngành thu hút
một lượng lớn lao động của xã hội, có doanh thu xuất khẩu nhiều nhất cả
nước, ngành Dệt May Việt Nam vừa góp phần tăng tích lũy cho xã hội, vừa
tạo cơ hội cho Việt Nam hòa nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Song, bên
cạnh những điểm tích cực đó, ngành Dệt May Việt Nam đang chịu sự tác
động mạnh mẽ từ mặt trái của nền kinh tế thị trường. Ảnh hưởng từ mặt trái
của kinh tế thị trường, không ít công nhân ngành Dệt May Việt Nam đã phai
nhạt lý tưởng, chạy theo lối sống thực dụng, thích hưởng thụ không thích lao
động, bỏ nghề chạy theo các nghề đang là trào lưu của xã hội, bất chấp giá trị
4
đạo đức truyền thống của dân tộc, sa vào con đường tội lỗi cờ bạc, nghiện hút,
trộm cắp của công… làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và công nhân ngành
Dệt May nói riêng.
Nhận thức được sự nghiêm trọng của sự suy thoái đạo đức trong đội
ngũ công nhân nhằm khắc phục, sửa chữa tình trạng suy thoái về đạo đức và
lối sống, về tư tưởng chính trị, về niềm tin, lý tưởng cách mạng, lãnh đạo
ngành Dệt May Việt Nam nói chung và Tập đoàn Dệt May Việt Nam nói
riêng đã thường xuyên quan tâm đến vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho
công nhân. Tập đoàn Dệt May Việt Nam đã thực hiện nhiều hình thức và biện
pháp khác nhau nhằm giáo dục nghề nghiệp và đạo đức cho đội ngũ công
nhân. Trong đó nội dung tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh có một
vai trò quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công
nhân của Tập đoàn. Chính vì những điều trình bày trên đây nên tôi đã chọn
“Giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May
Việt Nam hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề đạo đức nói chung và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng
đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu từ lâu. Kể từ khi Đảng ta xác định:
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động, các tác phẩm viết về tư tưởng Hồ Chí
Minh nói chung và tư tưởng đạo đức của Người nói riêng không thể thống kê
hết được. Tuy nhiên, nghiên cứu và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực
tiễn là vấn đề lý luận phức tạp và có ý nghĩa thiết thực đối với đời sống xã hội
hiện nay, nên những năm gần đây càng có nhiều tác giả quan tâm đến vấn đề
này hơn.
5
Công tác giáo dục tuyên truyền tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh chỉ thực
sự được phát triển mạnh mẽ, sâu rộng kể từ sau Đại hội Đảng lần thứ IX năm
2001. Nhằm phục vụ công tác giáo dục trong các nhà trường, cung cấp cho
người học một cách có hệ thống nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh nhiều công
trình nghiên cứu đã ra đời:
Tác phẩm:“ Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh” của GS
Trần Văn Giàu, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (1997), tác giả đã phân tích
những điều kiện lịch sử quê hương và gia đình ảnh hưởng đến sự hình thành
tư tưởng cũng như nhân cách và đạo đức của Người. Giáo trình “Tư tưởng
Hồ Chí Minh” của hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia
các môn khoa học Mác-Lênin ban hành năm 2003 với 12 chương; chương mở
đầu trình bày khái niệm, nguồn gốc, quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh, các chương tiếp theo tập trung luận chứng các nội dung chủ yếu của tư
tưởng Hồ Chí Minh, chương cuối là việc vận dụng, phát triển tư tưởng của
Người trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay. Cuốn Giáo trình “Tư
tưởng Hồ Chí Minh” do Bộ Giáo dục - Đào tạo biên soạn Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia xuất bản 2004 đã trình bày một cách có hệ thống toàn bộ nội dung
tư tưởng của Người về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong
đó, các tác giả cũng đã giành một phần cho việc trình bày tư tưởng đạo đức và
nội dung học tập tư tưởng đạo đức của Người.
Nghiên cứu về tình hình đạo đức ở nước ta trong nền kinh tế thị trường
hiện nay nói chung cũng như thực trạng suy thoái đạo đức của giới trẻ trước
những du nhập của các luồng văn hoá mới và một số biện pháp khắc phục sự
suy thoái đó nói riêng, thời gian gần đây có nhiều công trình đề cập:
Chẳng hạn: Tác phẩm "Sự thay đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế
thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta
hiện nay" của PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ (chủ biên), Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia Hà Nội năm 1999; tác giả đã chỉ ra sự suy thoái đạo đức của cán
6
bộ và đưa ra một số biện pháp xây dựng đạo đức mới trên cơ sở kế thừa tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. "Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và
phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" Luận án
tiến sĩ Triết học của Trần Sĩ Phán năm 1999, tác giả đã tập trung làm rõ vai
trò của việc giáo dục đạo đức đối với sinh viên Việt Nam và xây dựng một
số biện pháp giáo dục đạo đức nhằm giúp sinh viên hình thành và phát triển
nhân cách. "Vấn đề giáo dục đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam
hiện nay" Luận văn thạc sĩ của Doãn Thị Chín năm 2004, đã tập trung làm
rõ vai trò của đạo đức truyền thống đối với sinh viên. "Tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh với việc giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay"
Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Kim Dung năm 2009, tác giả đã đưa ra tiền
đề và nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó tác giả cũng
nêu sự cần thiết phải giáo dục đạo đức thanh niên Việt Nam theo tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh.
Trên một số tạp chí những năm qua các bài viết về vai trò của đạo
đức trong đời sống xã hội và học tập, rèn luyện đạo đức theo tư tưởng Hồ
Chí Minh ngày càng được nhiều tác giả khai thác:
Bài viết: "Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và vấn đề giáo dục, rèn
luyện đạo đức trong nền kinh tế thị trường" của Hoàng Trung, Tạp chí
Triết học số 5, 1998 tác giả đã nghiên cứu các khía cạnh tác động của đạo
đức Hồ Chí Minh và giáo dục, rèn luyện đạo đức với sự phát triển con
người nói chung và nhân cách con người nói riêng trong nền kinh tế thị
trường. Bài viết “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức” của tác giả Lê Trọng
Ân, tạp chí Triết học số 1, 2005 đã phân tích giá trị nhân sinh quan trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và tác dụng của nó đối với người cách mạng.
Đồng thời bài viết cũng khái quát tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và khẳng
định sự cần thiết của việc học tập tư tưởng đạo đức của Người.
7
Bên cạnh đó nhằm phục vụ cuộc vận động lớn của Đảng, Nhà nước, Bộ
Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác đã có nhiều tác
phẩm xuất bản với nội dung đa dạng:
Tác phẩm “Đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2007, tác phẩm đã phân tích thực
trạng suy thoái đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và chỉ ra
yêu cầu của việc giáo dục đạo đức trong thời kỳ đổi mới. Tác phẩm “117
chuyện kể về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Ban Tuyên giáo Trung ương
2007, đã sưu tầm những câu chuyện kể về tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh từ lời kể của nhiều người và từ nhiều cuốn sách khác nhau. Tác
phẩm “Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia 2008 đã khai thác nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh
theo ba phần: phần một là đoạn trích và bài viết về đạo đức cách mạng, phần
hai là tư tưởng đạo đức của Bác với nhiều bài viết của nhiều tác giả, phần ba
là những câu chuyện kể về tấm gương đạo đức của Người.
Những năm gần đây, sự suy thoái đạo đức trong xã hội nước ta nói
chung và đạo đức của công nhân nói riêng càng trở nên nghiêm trọng. Thực
hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam khóa X năm 2008: Về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân
Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhiều
công trình nghiên cứu về giai cấp công nhân đã ra đời:
Tác phẩm “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam giai đoạn 2011 -
2020” do TS. Đặng Ngọc Tùng chủ biên, Nhà xuất bản Lao động (2010), tác
phẩm đã nêu rõ ai là công nhân; những đặc trưng và bản chất của giai cấp
công nhân nước ta hiện nay; vai trò, nhiệm vụ của giai cấp công nhân Việt
Nam trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế; thực trạng giai cấp công nhân Việt Nam, quan điểm, phương
8
hướng, giải pháp xây dựng, phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (2011-2020).
Tác phẩm:“Xây dựng và phát triển đời sống văn hoá của giai cấp công
nhân Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do PGS.TS Nguyễn Văn
Nhật chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội năm 2010; nội dung tác phẩm
phản ánh khá toàn diện về thực trạng đời sống văn hoá của công nhân Việt
Nam hiện nay, trên cơ sở tham khảo đời sống văn hoá công nhân tại một số
nước, các tác giả đã đưa ra quan điểm và các giải pháp nhằm xây dựng và
nâng cao đời sống văn hoá của giai cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn
2011-2020.
Tác phẩm:“Bác Hồ với giai cấp công nhân và tổ chức công đoàn” của
Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - Viện Công nhân và Công đoàn, Nhà
xuất bản Lao động, Hà Nội 2010; tác phẩm tập hợp các bài viết, bài nói
chuyện của Hồ Chí Minh về công nhân và công đoàn cùng các bài nghiên cứu
của các nhà khoa học, các cán bộ công đoàn viết về quan điểm, tư tưởng của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng giai cấp công nhân và tổ
chức Công đoàn Việt Nam, sự vận dụng tư tưởng của Người vào sự nghiệp
xây dựng giai cấp công nhân và tổ chức Công đoàn trong thời kỳ đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các tác giả khác nhau viết về nội
dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, đặc biệt vai trò của tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh đối với thế hệ trẻ. Nhưng nhìn chung chưa có tác phẩm nào tập
trung nghiên cứu riêng về vấn đề giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ
công nhân ngành Dệt May. Vì vậy qua luận văn này, tôi muốn đi sâu tìm hiểu
và phân tích một cách hệ thống những luận điểm trong tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh và thực trạng giáo dục đạo đức cách mạng cho công nhân của Tập
đoàn Dệt May Việt Nam nhằm đưa ra một số kiến nghị để nâng cao hiệu quả
9
giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt
Nam theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Dựa trên những quan điểm cơ bản trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh, luận văn phân tích thực trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức cách
mạng theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cho đội ngũ công nhân Tập đoàn
Dệt May Việt Nam, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho công nhân Tập đoàn Dệt
May Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Để đạt được mục đích trên luận văn tập trung thực hiện những nhiệm
vụ sau:
- Trình bày khái quát nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và yêu
cầu của việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn
Dệt May Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng đạo đức và việc giáo dục đạo đức cách mạng
theo tư tưởng Hồ Chí Minh cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt
Nam hiện nay, nguyên nhân và những thành tựu, hạn chế của nó.
- Đề xuất một số kiến nghị vận dụng tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
vào việc giáo dục đạo đức cách mạng cho công nhân Tập đoàn Dệt May Việt
Nam giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và sự vận dụng tư tưởng đó vào việc
giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt
Nam giai đoạn hiện nay.
10
* Phạm vi nghiên cứu:
Trong khuôn khổ luận văn chúng tôi chỉ đề cập đến tư tưởng đạo đức
cách mạng của Hồ Chí Minh thông qua những bài viết và việc làm của Người.
Đồng thời nghiên cứu việc vận dụng tư tưởng đó vào việc giáo dục đạo đức
cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam hiện nay. Các
số liệu và tài liệu khảo sát chủ yếu từ năm 1995 trở lại đây.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đội ngũ
công nhân, về vấn đề đạo đức và giáo dục đạo đức cách mạng, đồng thời kế
thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đã vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp, trong đó chủ
yếu là phương pháp của phép biện chứng duy vật, kết hợp phương pháp
lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng hợp, so sánh, thống kê các công trình
khoa học, luận văn, luận án, bài báo trong các tạp chí, tài liệu báo cáo của
tập đoàn Dệt May Việt Nam có đề cập đến đạo đức của công nhân nhằm
thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài đặt ra.
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn góp phần nhận thức đầy đủ hơn nội dung cơ bản trong tư
tưởng đạo đức Hồ Chí Minh đối với việc giáo dục đạo đức cách mạng cho
đội ngũ công nhân nói chung, công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam nói
riêng, từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo
đức cách mạng cho công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo vào
việc giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt
May Việt Nam và giai cấp công nhân nước ta trong điều kiện hiện nay.
11
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh và yêu cầu của việc giáo
dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt Nam
hiện nay.
Chương 2: Thực trạng và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ công nhân Tập đoàn Dệt May Việt
Nam hiện nay theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
12
Chương 1
TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VÀ YÊU CẦU
CỦA VIỆC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CÁCH MẠNG CHO ĐỘI NGŨ
CÔNG NHÂN TẬP ĐOÀN DỆT MAY VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
1.1.1. Nguồn gốc tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Mỗi học thuyết, mỗi tư tưởng đều được hình thành trong những điều
kiện hoàn cảnh lịch sử nhất định. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư
tưởng đạo đức của Người nói riêng cũng có điều kiện và tiền đề nhất định của
nó. Đạo đức truyền thống Việt Nam và giá trị văn hóa của quê hương, gia
đình đã ảnh hưởng đến sự ra đời tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
Lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm đã hun đúc nên những
giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong những truyền thống tốt đẹp ấy
nổi bật nhất phải nói đến chủ nghĩa yêu nước. Điều này được Bác chỉ rõ trong
việc trình bày nguyên nhân đầu tiên dẫn đến mọi thắng lợi của cách mạng
nước ta, Bác viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta” [28, tr.176]. Chính chủ nghĩa yêu nước là hành trang
lớn nhất mà người thanh niên Nguyễn Tất Thành mang theo trong quá trình
tìm đường cứu nước của mình. Bên cạnh truyền thống yêu nước thì tính cộng
đồng, tinh thần đoàn kết, sự cần cù lao động, độc lập tự chủ, sáng tạo, hiếu
học, lạc quan, yêu đời, sống có tình có nghĩa là những truyền thống ảnh
hưởng không nhỏ đến Hồ Chí Minh. Những truyền thống này được bồi đắp và
làm giàu thêm từ thế hệ này sang thế hệ khác, nó ăn sâu và trở thành cội rễ
trong đời sống văn hóa của người Việt, và cũng chính những truyền thống này
là cơ sở hình thành những chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam trong thời
đại mới của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.
13
Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong một gia đình nhà nho yêu nước.
Ngay từ nhỏ, sự hình thành và phát triển nhân cách của Người chịu ảnh
hưởng không nhỏ bởi người cha mình. Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân
sinh của Người là một nhà nho cấp tiến, có lòng yêu nước, thương dân, là tấm
gương lao động cần cù, ý chí kiên cường vượt qua gian khổ để đạt được mục
tiêu. Cuộc sống của người mẹ - bà Hoàng Thị Loan cũng có ảnh hưởng đến tư
tưởng, tình cảm của Bác về đức tính nhân hậu, đảm đang, sống chan hòa với
mọi người. Bên cạnh đó, còn phải kể đến mối quan hệ tác động qua lại giữa
ba chị em: Nguyễn Thị Bạch Liên, Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành về
lòng yêu nước, thương dân.
Cùng với gia đình, quê hương Nghệ Tĩnh cũng góp phần quan trọng
trong việc vun trồng, bồi đắp tình cảm, lòng yêu quê hương đất nước cho Hồ
Chí Minh. Là vùng đất có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, khó khăn, con
người nơi đây vừa có lý tưởng trong tâm hồn, vừa trung kiên trong bản chất,
vừa khắc khổ trong sinh hoạt, vừa cứng cỏi trong giao tiếp, Nghệ Tĩnh đã sản
sinh ra cho đất nước biết bao anh hùng nổi tiếng như Mai Thúc Loan, Nguyễn
Biểu và các lãnh tụ yêu nước như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… Hồ
Chí Minh đã kế thừa và phát huy tất cả những truyền thống đó và nó trở thành
một trong những nền tảng tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của
Người sau này.
Sự lĩnh hội, tiếp thu và phát triển giá trị đạo đức dân tộc trong hoàn
cảnh mới của Hồ Chí Minh đã tạo nên tư tưởng đạo đức của Người. Tuy
nhiên, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu, lĩnh hội những giá trị đạo đức truyền
thống dân tộc mà điều làm cho tư tưởng đạo đức của Người còn tồn tại mãi
với thời gian đó là sự kế thừa và phát triển những giá trị đạo đức trong văn
hóa phương Đông và phương Tây của nhân loại.
Đối với việc tiếp thu các giá trị văn hóa đạo đức của phương Đông,
chúng ta phải khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh mang dấu ấn đậm nét
14
của Nho giáo, Phật giáo, Lão giáo trong đó ảnh hưởng lớn nhất đến Người là
Nho giáo. Điều này được minh chứng bởi khi nói về nguồn gốc hình thành tư
tưởng Hồ Chí Minh, Giáo sư Trần Văn Giàu cho rằng: “…Nho giáo thì đúng
là có phần hẹp, hẹp là vì, nếu tôi không lầm thì trong tác phẩm và tác phong
của cụ Hồ ngoài dấu ấn của Nho giáo còn có không ít dấu ấn của Lão giáo,
của bách gia chư tử” [13, tr.32]. Cùng với những hiểu biết uyên bác về Hán
học, Hồ Chí Minh đã biết chắt lọc lấy những gì tinh túy trong các học thuyết
của Khổng Tử, Lão Tử. Đó là các triết lý hành động, tư tưởng nhập thế hành
đạo, giúp đời, đó là ước vọng về một xã hội bình trị, hòa đồng, là triết lý nhân
sinh, tu thân dưỡng tính mà theo Bác, học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là
tu dưỡng đạo đức cá nhân. Về Phật giáo, Hồ Chí Minh tiếp thu và chịu ảnh
hưởng sâu sắc tư tưởng vị tha, từ bi bác ái, cứu khổ cứu nạn, là nếp sống có
đạo đức trong sạch, giản dị, chăm lo làm việc thiện, là tinh thần bình đẳng
không phân biệt đẳng cấp… Đến khi trở thành người Mácxít Người lại tiếp
tục tìm hiểu chủ nghĩa Tam dân của Tôn Dật Tiên vì thấy trong đó “phù hợp
với điều kiện nước ta”.
Cùng với việc tiếp thu những tư tưởng phương Đông, Hồ Chí Minh còn
chịu sự ảnh hưởng của nền văn hóa phương Tây. Người đã tiếp thu giá trị
nhân văn của Thiên chúa giáo bởi “Tôn giáo Giêxu có ưu điểm là lòng nhân ái
cao cả”. Đồng thời, tư tưởng Tự do - Bình đẳng - Bác ái của văn hóa phương
Tây có một tác động không nhỏ đối với Hồ Chí Minh. Chính tư tưởng này đã
làm thức dậy lòng mong muốn giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi sự thống trị
ngoại bang làm cho đất nước được hòa bình, độc lập; dân được ấm no, hạnh
phúc. Có lẽ chưa một nhà cách mạng của một nước thuộc địa nào như Hồ Chí
Minh, lại có 30 năm hoạt động liên tục ở nước ngoài. Trong 30 năm đó,
Người đã có những khảo nghiệm thực tế vòng quanh thế giới cho nên những
hiểu biết về tình hữu ái giai cấp, về tinh thần yêu hòa bình, về sự cảm thông
15
sâu sắc với những người lao động nghèo khổ ở phương Tây đã có tác động
đến sự hình thành tư tưởng đạo đức của Người.
Mỗi bước phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh nói riêng đều ghi dấu những tinh hoa văn hóa của dân
tộc và nhân loại, trong đó đỉnh cao là chủ nghĩa Mác-Lênin. Chủ nghĩa Mác-
Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng Hồ Chí
Minh. Chính Người đã coi chủ nghĩa Mác-Lênin là cái “cẩm nang” thần kỳ, là
cái kim chỉ nam, là mặt trời soi sáng cho con đường đi đến thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội. Các tác phẩm, bài viết của Hồ Chí Minh đã phản ánh bản chất
cách mạng tư tưởng của Người theo thế giới quan và phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin để từ đó là cơ sở giải quyết các vấn đề thực tiễn của
cách mạng Việt Nam.
Nói về tư tưởng đạo đức của Người ta không thể không nhắc đến đạo
đức học Mác-Lênin - cơ sở lý luận cho sự hình thành tư tưởng đạo đức Hồ
Chí Minh. Từ thực tiễn đời sống xã hội của giai cấp công nhân và những
người lao động nghèo khổ trong xã hội tư bản, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng
ý thức đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, có tác
dụng điều chỉnh hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội. Đạo đức
của chủ nghĩa Mác-Lênin là đạo đức hướng tới việc mang lại lợi ích và công
bằng cho mọi người dân lao động, là đạo đức mang lại quyền lợi cho số đông
trong xã hội, đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức bóc lột. Sự bắt
gặp tư tưởng đạo đức của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ nghĩa nhân đạo cao cả,
đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân lao động lầm than đã khiến lòng yêu
nước, thương dân của Hồ Chí Minh có điều kiện được phát triển và được tăng
thêm sức sống của nó.
Sẽ là một thiếu sót lớn nếu không xét đến nhân tố chủ quan trong quá
trình hình thành phát triển tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Bản thân sự hoạt
động của Hồ Chí Minh là một nhân tố quan trọng và có tính chất quyết định
16
cho sự hình thành tư tưởng đạo đức của Người. Kế thừa những truyền thống
tốt đẹp từ quê hương, gia đình, thâu thái những tinh hoa của dân tộc và nhân
loại, tài năng và nghị lực, bản lĩnh và nhân cách Hồ Chí Minh được thể hiện
rõ ràng. Đó là một con người sống có hoài bão, có lý tưởng, yêu nước, thương
dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham
học hỏi, nhạy bén với cái mới, thông minh, có hiểu biết sâu rộng, có đầu óc
thực tiễn Chính những yếu tố này đã tạo nên tư tưởng đạo đức riêng có của
Hồ Chí Minh mà vẫn đậm nét dân tộc, vẫn phù hợp xu thế thời đại.
Như vậy, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không phải tự nhiên có được,
cũng không phải là sản phẩm thuần túy được rút ra từ trong đầu Hồ Chí Minh
mà là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển tư tưởng đạo đức truyền thống,
tư tưởng đạo đức của phương Đông và phương Tây với tư tưởng đạo đức của
chủ nghĩa Mác-Lênin, kết hợp với phẩm chất đạo đức cá nhân Hồ Chí Minh.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cũng là kết quả của quá trình tự rèn luyện, tự
giáo dục; là kết quả của quá trình học tập không ngừng nghỉ, có ý thức, trách
nhiệm. Từ đó, Hồ Chí Minh đã xây dựng được hệ thống luận điểm của mình
về đạo đức: về vị trí và vai trò của đạo đức trong xã hội, về chuẩn mực đạo
đức của con người Việt Nam mới, về nguyên tắc xây dựng chuẩn mực đạo
đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh cùng với tấm gương đạo đức của Người
có một sức sống mãnh liệt và sự cổ vũ lớn lao đối với nhân dân Việt Nam và
thế giới trong cuộc đấu tranh vì dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.2. Đặc điểm và bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Tư tưởng về đạo đức chiếm một vị trí đặc biệt, là vấn đề thường trực
trong con người Hồ Chí Minh. Sinh thời, Bác là một trong những lãnh tụ bàn
nhiều nhất và viết nhiều nhất về đạo đức và đạo đức cách mạng. Điều này
được minh chứng trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập (12 tập), bàn về đạo đức
Người đã có gần 50 bài viết và tác phẩm về đạo đức. Đáng kể nhất là tác
phẩm: “Đường cách mệnh” năm 1927, tác phẩm: “Sửa đổi lối làm việc” năm
17
1947, tác phẩm: “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá
nhân”
Xuất phát từ nhận thức hành vi của con người là do hoàn cảnh xã hội
chi phối và nước ta là nước thuộc địa, nửa phong kiến, người dân trong nước
chịu ảnh hưởng nặng nề những vết tích xã hội cũ, nên muốn đưa cách mạng
đến thành công Hồ Chí Minh hết sức quan tâm đến giáo dục, rèn luyện đạo
đức cách mạng cho cán bộ Đảng viên và nhân dân. Bản thân Người cũng là
một tấm gương mẫu mực về rèn luyện đạo đức cách mạng, giữ vững lòng
trung thành đối với Đảng, dân tộc, nhân dân và những người xung quanh, do
đó tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có một số đặc điểm:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đề cập đến đạo đức một cách toàn diện. Theo
Hồ Chí Minh, đạo đức bao giờ cũng được xác định bằng những quy tắc, hành
vi con người, những chuẩn mực được dư luận xã hội thừa nhận nhằm điều hòa
các mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình hoạt động xã
hội. Cho nên, khi đề cập đến đạo đức công dân Người đã gắn liền với đạo đức
của mọi đối tượng trong nhân dân: từ công nhân, nông dân, trí thức, văn nghệ
sĩ, tư sản dân tộc đến những người yêu nước nói chung trong xã hội; từ thanh
niên, phụ nữ, phụ lão đến các cháu thiếu niên nhi đồng; từ đồng bào các dân
tộc đến đồng bào các tôn giáo; đồng bào sinh sống trong nước cũng như đồng
bào sinh sống ở nước ngoài Cùng với đó, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trên
mọi phạm vi, từ việc riêng đến việc chung, từ đời tư đến đời công, trong sinh
hoạt, lao động, chiến đấu hàng ngày, từ cá nhân đến tập thể, từ gia đình đến xã
hội, từ giai cấp đến dân tộc, từ dân tộc đến quốc tế, Hồ Chí Minh luôn luôn
coi trọng việc rèn luyện đạo đức bản thân, đạo đức của từng con người và
quan tâm đến đạo đức một cách thiết thực. Trong các mối quan hệ đạo đức
của con người, Hồ Chí Minh nêu lên ba mối quan hệ chủ yếu: đối với mình,
đối với người, đối với công việc. Điều này được Bác chỉ rõ thành sáu điều khi
nói về tư cách người công an cách mạng:
18
“Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính.
Đối với đồng sự phải thân ái giúp đỡ.
Đối với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành.
Đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép.
Đối với công việc phải tận tụy.
Đối với địch phải cương quyết, khôn khéo” [27, tr.406]
Việc xem xét đạo đức một cách toàn diện như Hồ Chí Minh đã phản
ánh đúng đắn những đòi hỏi về đời sống đạo đức của con người mới Việt
Nam giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, điểm đặc sắc trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là các tư
tưởng lý luận đạo đức thống nhất với việc thực hành đạo đức, nói và làm đi
đôi với nhau, lý luận gắn với thực tiễn, hoạt động gắn với hiệu quả đạo đức.
Sinh thời, Hồ Chí Minh xem xét đạo đức trên cả hai phương diện lý luận và
thực tiễn. Về lý luận, Người để lại cho chúng ta hệ thống quan điểm sâu sắc
và toàn diện về đạo đức. Đó là quan điểm về vị trí, vai trò của đạo đức và đạo
đức cách mạng đối với sự phát triển xã hội; là tư tưởng về các chuẩn mực đạo
đức của con người mới xã hội chủ nghĩa; là những nguyên tắc xây dựng
chuẩn mực đạo đức. Về thực tiễn, Người coi thực hành đạo đức là yếu tố quan
trọng bậc nhất trong quá trình hình thành đạo đức của cán bộ, Đảng viên. Cho
nên, ngay từ đầu những năm 20 của thế kỷ XX Người đã chú trọng đến việc
xây dựng đạo đức cho người cán bộ. Đến sau cách mạng Tháng Tám thắng lợi
Người chỉ ra những biểu hiện của thói đạo đức giả ở một số cán bộ, “vác mặt
làm quan cán bộ” nói mà không làm. Người cho rằng, “lý luận mà không có
liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”, thực tiễn và lý luận cần nương tựa vào
nhau, bổ sung cho nhau thì mới khắc phục được bệnh kinh nghiệm, giáo điều.
Hơn bất cứ ai khác, Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức vô song, chính
Người đã thực hành một cách nghiêm túc các chuẩn mực đạo đức mà Người
đã đưa ra. Điều này được thể hiện qua những việc làm cụ thể của Hồ Chí
19
Minh như: sau khi giành được chính quyền Người đã kêu gọi nhân dân thực
hành tiết kiệm và chính Người là người thực hiện nghiêm túc, hay sự tự giác
rèn luyện bản thân của Bác trong suốt cuộc đời. Chính vì vậy, tư tưởng và tấm
gương đạo đức của Bác có một sức sống mãnh liệt.
Thứ ba, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có sự kết hợp hài hòa giữa
truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí
Minh có sự kế thừa, phát triển, thâu thái các giá trị tinh hoa văn hóa đạo đức
của dân tộc và nhân loại. Trong suốt cuộc đời mình, Hồ Chí Minh luôn coi
trọng việc tìm tòi, nghiên cứu, chắt lọc những yếu tố tinh túy, tích cực của các
nền văn hóa phương Đông và phương Tây để vận dụng vào thực tiễn cuộc
sống cũng như tổng kết lý luận. Chẳng hạn, Người đã kế thừa tư tưởng trung
hiếu trong xã hội phong kiến, phát triển các giá trị đạo đức truyền thống về
cần, kiệm, liêm, chính để xây dựng chuẩn mực đạo đức phù hợp hoàn cảnh
mới của nước ta. Hồ Chí Minh biết kế thừa những hạt nhân hợp lý của Nho
giáo, những yếu tố tích cực của Phật giáo, Thiên chúa giáo để vận dụng vào
công cuộc kháng chiến cứu nước, điều này minh chứng cho tinh thần khoan
dung tôn giáo, không mang tính chất biệt phái về tôn giáo của Người. Trong
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa Bác đã kế
thừa tính hợp lý trong các bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp để từ đó nêu ra các
quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam…
Những đặc điểm nêu trên đã tạo nên một tư tưởng về đạo đức riêng có
mang phong cách Hồ Chí Minh mà vẫn có giá trị lớn lao đối với dân tộc và
thời đại - đó là Đạo đức cách mạng.
Đạo đức trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, là
đạo đức mới cách mạng trên lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, là đạo đức của
chủ nghĩa cộng sản. Thực chất của đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh đó
là: suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng, tuyệt đối trung thành với
Đảng, với nhân dân - đây là điều chủ chốt nhất. Đạo đức cách mạng là thực
20
hiện tốt đường lối chính sách của Đảng, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, ra sức làm
việc cho Đảng, cho nhân dân, đặt lợi ích của Đảng và nhân dân lên trên hết,
hết lòng phục vụ nhân dân, vì Đảng, vì nhân dân mà hi sinh quên mình,
gương mẫu trong mọi lĩnh vực. Đạo đức cách mạng theo Hồ Chí Minh là đạo
đức đứng trên lập trường của giai cấp công nhân Việt Nam, phải không ngừng
học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, học tập lý luận, tự phê bình và phê bình để
nâng cao tư tưởng, cải tiến công tác của mình và cùng giúp đồng chí mình
tiến bộ.
Đạo đức cách mạng giúp cho con người giữ vững được niềm tin, lý trí,
có thêm nghị lực để vượt qua mọi khó khăn gian khổ. Theo Hồ Chí Minh:
“làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất
vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất
phức tạp, lâu dài, gian khổ, có sức mạnh mới gánh nặng và đi được xa. Người
cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng mới hoàn thành được
nhiệm vụ cách mạng vẻ vang” [31, tr.282]. Đạo đức cách mạng không chỉ có
tác dụng trong quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc mà còn có tác dụng to
lớn khi cách mạng thành công. Vì vậy, Người ý thức rằng đạo đức cách mạng
sẽ giúp người cách mạng tránh được cám dỗ trong cuộc sống.
Đồng thời, Bác chỉ rõ phải thực hành đạo đức cách mạng trong công
việc, trong tổ chức, trong các phong trào thi đua yêu nước, trong lối sống,
trong hành vi của mỗi người. Bởi có đạo đức cách mạng thì mới không bị
quyền lực làm cho tha hóa, mới công tâm chính trực giải quyết mọi việc lớn
nhỏ, mới không tham ô tham nhũng hay làm thất thoát của cải của Nhà nước.
Điều này được Bác dạy khi về thăm nhà máy Dệt Nam Định năm 1963: Cán
bộ, công nhân đều tích cực cố gắng; lãnh đạo không gần gũi với công nhân thì
là quan liêu, nhà máy có thành tích thì chủ quan tự mãn, cán bộ, công nhân
không chú trọng tự phê bình và phê bình thì không tiến bộ… [29, tr.614].
21
Với bản chất như vậy, đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh khác với
các hình thức đạo đức trước đó. Theo Hồ Chí Minh đạo đức cũ là lộn đầu
xuống đất, hai chân chổng lên trời, đạo đức cũ trái tự nhiên, hướng vào ngọn,
vào một bộ phận giàu sang trong xã hội, không hướng vào số đông. Đạo đức
mới là đạo đức hai chân đứng vững trên mặt đất và ngẩng đầu lên trời, là đạo
đức hướng vào số đông quần chúng nhân dân lao động và phát huy được sức
mạnh của nó. Nếu đạo đức phong kiến trói chặt con người vào những quy
định hà khắc, ngặt nghèo và mang tính đẳng cấp; đạo đức tư sản là tuyệt đối
hóa vai trò cá nhân dẫn tới chủ nghĩa cá nhân, cực đoan, ích kỷ; đạo đức tiểu
tư sản trói chặt con người vào những toan tính nhỏ nhặt, ích kỷ, vụn vặt; đạo
đức tôn giáo khuyên con người chịu nhẫn nhịn, hướng con người vào thế giới
bên kia, hạn chế khả năng tự giải phóng của con người để vươn đến những giá
trị tốt đẹp thì đạo đức mới của Hồ Chí Minh lại phục vụ cho sự nghiệp đấu
tranh giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người và phục
vụ cho sự nghiệp xây dựng tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Người nói:
“Đạo đức đó không phải là đạo đức thủ cựu. Nó là đạo đức mới, đạo đức vĩ
đại, nó không phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng,
của dân tộc, của loài người” [30, tr.320].
Như vậy, đạo đức và đạo đức cách mạng là vấn đề được Bác quan tâm
nhiều nhất, cho đến khi viết Di chúc Người vẫn dành một phần trang trọng để
nói về đạo đức, đạo đức của cán bộ, Đảng viên. Đạo đức mới, đạo đức cách
mạng do Hồ Chí Minh đề xướng và cùng với Đảng ta dày công xây dựng, bồi
đắp là đạo đức mang bản chất của giai cấp công nhân, kết hợp với những
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc và những giá trị đạo đức của nhân
loại. Nền đạo đức ấy ngày càng phát triển cùng với sự vận động và phát triển
của thực tiễn cách mạng nước ta, trở thành một bộ phận hết sức quan trọng
khắc họa bộ mặt nền văn hóa Việt Nam mới.
22
1.1.3. Nội dung tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đạo đức cách mạng
Hồ Chí Minh là người có những đóng góp rất đặc sắc vào tư tưởng đạo
đức học mácxít. Những đóng góp này đã nâng Người lên vị trí một nhà đạo
đức học lỗi lạc. Do nhiều nguyên nhân, C. Mác, Ph. Ăngghen và Lênin nói
nhiều về đạo đức song chưa có điều kiện bàn nhiều về vai trò của đạo đức
trong đời sống xã hội. Hồ Chí Minh đã phát triển, hoàn thiện tư tưởng đạo
đức học mácxít về vai trò và sức mạnh của đạo đức, về những chuẩn mực đạo
đức cơ bản và những nguyên tắc xây dựng một nền đạo đức mới phù hợp với
Việt Nam. Cụ thể là:
Hồ Chí Minh cho rằng đạo đức là cái gốc, cái nền tảng và là sức mạnh
của mọi người cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, đối với con người phải có sức
mạnh mới gánh nặng và đi xa được, người cách mạng phải có đạo đức cách
mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang vì sự nghiệp độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đánh giá vai trò của đạo đức trong đời sống,
từ rất sớm Hồ Chí Minh coi đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển con
người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của sông suối. Người nói: “Cũng
như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải
có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không
có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn
giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà
tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì
còn làm nổi việc gì” [31, tr.283].
Hồ Chí Minh cũng chỉ ra, đạo đức có vai trò to lớn đối với hành vi của
con người: đạo đức tốt thì hành vi hợp quy luật phát triển của tự nhiên và xã
hội, người không có đạo đức tất yếu hành động trái quy luật. Người quan
niệm rằng, đạo đức không phải trên trời rơi xuống mà do con người tích cực
và bền bỉ rèn luyện mà nên. Muốn làm cách mạng phải có cái tâm trong sáng,
23
cái đức cao đẹp đối với giai cấp vô sản, với nhân dân lao động, với dân tộc và
nhân loại. Nhưng không phải mọi người có tâm, có đức đều đi đến với chủ
nghĩa cộng sản, song nhất thiết phải có tâm và có đức thì mới tiếp thu được
học thuyết cao quý đó.
Mục đích của đạo đức Hồ Chí Minh là suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho
cách mạng, nên khi nói đạo đức là gốc, là nền tảng vì liên quan tới Đảng cầm
quyền. Người luôn trăn trở với nguy cơ của Đảng cầm quyền, đó là sự sai lầm
về đường lối và sự suy thoái về đạo đức cách mạng của cán bộ, Đảng viên.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải “là đạo đức, là văn minh” thì
mới hoàn thành được sứ mệnh vẻ vang của mình. Chính vì vậy, cùng với giáo
dục nâng cao trình độ hiểu biết cho cán bộ, Đảng viên và các tầng lớp nhân
dân, Người thường xuyên quan tâm giáo dục đạo đức cho mọi người. Tùy từng
thời kỳ cách mạng, Hồ Chí Minh đề ra những yêu cầu về đạo đức sát hợp để
mọi người phấn đấu rèn luyện để “giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.
Thế nhưng quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh không có
nghĩa là Người đã tuyệt đối hóa mặt đức, coi nhẹ mặt tài. Theo Hồ Chí Minh,
đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp hài hòa với nhau, không thể có mặt
này mà thiếu mặt kia. Người phân tích, người nào có đức mà không có tài thì
cũng không khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng
chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu có tài mà không có đức, thì cũng chẳng khác
gì một anh làm kinh doanh giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham ô, ăn
cắp của công, thì như vậy chỉ có hại cho dân cho nước, còn sự nghiệp của bản
thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ.
Bên cạnh việc khẳng định, đạo đức là cái gốc của người cách mạng, Hồ
Chí Minh cũng chỉ rõ: đạo đức là nhân tố tạo nên sức hấp dẫn của chủ nghĩa
xã hội. Theo Người, sức hấp dẫn của chủ nghĩa xã hội chưa phải là ở lý tưởng
cao xa, ở mức sống vật chất dồi dào, ở tư tưởng được tự do giải phóng, mà
24
trước hết ở những giá trị đạo đức cao đẹp, ở phẩm chất của những người cộng
sản ưu tú. Người cũng cho rằng: phong trào cộng sản công nhân quốc tế trở
thành lực lượng quyết định vận mệnh của loài người không chỉ do chiến lược,
sách lược thiên tài của cách mạng vô sản, mà còn do những phẩm chất đạo
đức cao quý làm cho chủ nghĩa cộng sản trở thành một sức mạnh vô địch.
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về những chuẩn mực đạo đức cơ bản
của con người Việt Nam trong thời đại mới
Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức trong sáng cùng sự
kết hợp với các giá trị đạo đức truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế đã
làm nên một hệ thống tư tưởng đạo đức riêng có của Người mang tính thời
đại. Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, bao giờ Hồ Chí Minh cũng phân
biệt mặt tốt với mặt xấu, mặt thiện với mặt ác trong động cơ và hành vi của
con người, cho nên để làm rõ những mặt này cần phải xây dựng, cần tu dưỡng
để hướng tới cái chân, cái thiện, cái mỹ của cuộc sống con người. Người đã
thực hiện một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đạo đức và được coi là người
đặt nền móng cho đạo đức mới - đạo đức cách mạng. Từ đó, Người đưa ra
một số chuẩn mực đạo đức cách mạng:
Một là, trung với nước, hiếu với dân
Những khái niệm “trung”, “hiếu” đã có từ lâu đời trong tư tưởng đạo
đức truyền thống phương Đông trong đó có Việt Nam. Khái niệm này phản
ánh mối quan hệ lớn nhất, bao trùm nhất của con người nói chung và người
quân tử nói riêng trong xã hội cũ là “trung với vua, hiếu với cha mẹ”. Theo
Hồ Chí Minh trong thời đại mới những khái niệm này là “trung với nước, hiếu
với dân”, có như vậy, quan niệm về đạo đức trước đó mới phù hợp với thực
tiễn nước ta hơn. Khác với “trung với vua”, “trung với nước” được Bác mở
rộng là chung với cộng đồng, là yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội. Theo Người,
“trung với nước” là trung thành với sự lựa chọn con đường phát triển của dân
25