Vấn đề 1 : Đồng chí hãy phân tích điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Liên hệ với giai cấp công nhân Việt Nam
Bài làm
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là phạm trù cơ bản nhất, xuất sắc nhất của CNXH
khoa học. Phát hiện ra sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là một trong những cống hiến vĩ đại
nhất của Chủ nghĩa Mác. Trước sự khủng hoảng và sụp đổ của CNXH ở Đông Âu và Liên Xô, nhiều
người đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Các phần tử
cơ hội, xét lại và các thế lực thù địch đã lợi dung để tuyên truyền nhằm phủ nhận sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhận và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, nhất là trong bối cảnh lịch sử hiện nay đang đặt ra một cách bức thiết trên cả phương
diện lý luận lẫn thực tiễn. Khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân còn có ý nghĩa
rất lớn trong việc hiểu rõ ý nghĩa và nội dung căn bản cụ thể của giai cấp công nhân Việt Nam trong
giai đoạn mới – giai đoạn phải thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1. Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm giai cấp
công nhân và để phù hợp với sự tồn tại của nó, giai cấp công nhân buộc phải làm gì về mặt lịch sử ?
a. Khái niệm về giai cấp công nhân :
Mác và Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ, theo từng tiêu chí khác nhau để nói về giai cấp
công nhân như: giai cấp vô sản, những người làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp công nhân đại công
nghiệp, giai cấp công nhân hiện đại .v.v… Dù sử dụng nhiều thuật ngữ khác nhau nhưng Mác và
Ăngghen đều chỉ ra hai tiêu chí cơ bản của giai cấp công nhân :
- Một là, về phương thức lao động - phương thức sản xuất - thì giai cấp công nhân là những
người lao động (gián tiếp hoặc trực tiếp) có tính chất công nghiệp để tạo ra của cải vật chất cho xã
hội.
- Hai là, về địa vị đối với tư liệu sản xuất : trong CNTB giai cấp công nhân là những người
không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê, bán sức lao động cho nhà tư bản và bị nhà tư bản bóc lột về
giá trị thặng dư. Chính điều này khiến cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai
cấp tư sản.
Căn cứ hai tiêu chí cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa: giai cấp công nhân là một tập
đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại.
Trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân là giai cấp của những người lao động làm thuê cho nhà tư
bản, họ hoàn toàn không có TLSX, phải bán sức lao động cho nhà tư bản để kiếm sống. Vì vậy,
trong sản xuất giai cấp công nhân là giai cấp bị phụ thuộc và trong phân phối, giai cấp công nhân
bị nhà tư bản bóc lột gía trị thặng dư, do đó giai cấp công nhân là giai cấp đối lập trực tiếp về lợi
ích của giai cấp tư sản, là động lực chính của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH.
b. Những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân :
Đánh giá về vị trí vai trò của giai cấp công nhân, chủ nghĩa Mác Lênin xác định giai cấp công
nhân chính là giai cấp có sứ mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế độ bóc lột TBCN, thực hiện sự
chuyển biến cách mạng từ XH TBCN lên xã hội XHCN và Cộng sản chủ nghĩa.Theo Mác và
Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải do ý muốn chủ quan của giai cấp
công nhân hoặc do sự áp đặt của các nhà tư tưởng mà do những điều kiện khách quan quy định.
Trước hết đó là do địa vị kinh tế xã hội của giai cấp công nhân quy định nên sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân. .
CNTB ra đời đánh dấu một bước tiến vĩ đại và phát triển của lực lượng sản xuất. Sự ra đời của
nền đại công nghiệp, một mặt tạo ra cơ sở vật chất, nhờ đó có thể xóa bỏ được chế độ bóc lột, xây
dựng một xã hội công bằng, mặt khác sản sinh ra giai cấp công nhân, lực lượng xã hội đại diện cho
lực lượng sản xuất mới. Giai cấp công nhân xét về nguồn gốc ra đời là con của nền đại công nghiệp,
sinh ra và phát triển theo đà phát triển của kỹ thuật và công nghiệp, họ chỉ trở thành một giai cấp ổn
định khi sản xuất đại công nghiệp đã thay thế về cơ bản nền sản xuất thủ công. Tuy nhiên, với sự
phát triển không ngừng của giai cấp công nhân, lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày
càng cao, trong khi đó quan hệ sản xuất TBCN lại dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Chính điều đó đã tạo ra mâu thuẫn cơ bản trong lòng XHTB và được biểu hiện ra ngoài bằng
mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp công nhân - đại diện cho lực lượng sản xuất mới - với giai cấp tư
sản - đại diện cho quan hệ sản xuất lỗi thời.
Theo quy luật khách quan, quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Một khi quan hệ sản xuất không phù hợp với lực lượng sản xuất sẽ xảy ra
xung đột gay gắt trong xã hội, lúc đó giai cấp tiên tiến trong xã hội - đại diện cho lực lượng sản xuất
mới - sẽ lãnh đạo cuộc đấu tranh lật đổ giai cấp thống trị, thiết lập quan hệ sản xuất mới, phù hợp
với nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, tạo nên phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn
phương thức sản xuất cũ bị thay thế. Khi ấy hình thái kinh tế xã hội cũ sẽ thay đổi bằng hình thái kinh
tế - xã hội mới cao, tiến bộ hơn : đó là quy luật phát triển cơ bản của xã hội loài người đã được lịch
sử chứng minh, không một học thuyết nào bác bỏ được
Như vậy, với mâu thuẫn trong xã hội tư bản, sớm hay muộn người đại diện cho lực lượng sản
xuất mới sẽ lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh lật đổ giai cấp tư sản - đại diện cho quan hệ sản
xuất lỗi thời - thiết lập quan hệ sản xuất mới, mở đường cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất tiên tiến, cơ bản nhất của phương thức sản xuất TBCN, vì
vậy nó sẽ là người quyết định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, hình thành phương thức sản xuất
mới : phương thức sản xuất Cộng sản chủ nghĩa, nền tảng cho xã hội CSCN ra đời
Mặt khác, trong xã hội tư bản, giai cấp công nhân luôn luôn phát triển ngày càng đông về số
lượng và tăng về chất lượng cùng với sự phát triển không ngừng của công nghiệp và quá trình
CNH-HĐH nền kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của giai cấp công nhân cũng đồng thời dẫn đến sự
gia tăng mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản tất yếu dẫn đến
cách mạng xã hội nhằm xóa bỏ CNTB, hình thành xã hội mới, xã hội XHCN và CSCN. Hiện nay, giai
cấp tư sản đã và đang tìm mọi cách để điều chỉnh các quan hệ TBCN nhằm cứu vãn chế độ thống trị
của giai cấp mình và trên thực tế giai cấp tư sản đã đạt được một số thành tựu và kết quả nào đấy
nhưng vẫn không khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của XHTB, vẫn phải thường xuyên đối đầu với
các cuộc khủng hoảng nặng nề với nhiều cơn suy thoái và nạn thất nghiệp thường xuyên không tránh
khỏi của hàng chục triệu người. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân tuy đang đứng trước
những thử thách hết sức nặng nề nhưng bức tranh toàn cảnh của sự phát triển lực lượng sản xuất
thế giới vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách quan cho giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình, dù có trãi qua những bước thăng trầm, quanh co nhưng nó vẫn tiếp tục diễn ra theo quy
luật khách quan của lịch sử.
Bên cạnh đó, những đặc điểm của giai cấp công nhân cũng là yếu tố quy định nên sứ
mệnh lịch sử giai cấp công nhân.
Từ địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân trong nền SX công nghiệp lớn TBCN cũng đã
hình thành nên những đặc điểm của giai cấp công nhân.
- Nền SX công nghiệp luôn luôn phát triển về mặt kỹ thuật, công nghệ, vì vậy nó đòi hỏi trình độ
của người công nhân phải luôn luôn được nâng lên, đổi mới và phát triển gắn liền với trình độ phát
triển KH-KT và công nghệ. Do đó giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, đại diện cho lực
lượng sản xuất hiện đại nhất.
- Giai cấp công nhân là người sản xuất ra những của cải dư thừa của xã hội nhưng lại là người
bị giai cấp tư sản áp bức bóc lột nặng nề nhất, do đó họ là giai cấp trực tiếp đối kháng với giai cấp tư
sản và xét về bản chất họ là giai cấp cách mạng triệt để nhất, họ không có con đường nào khác là
chống lại chế độ áp bức bóc lột TBCN. Điều kiện sinh hoạt khách quan của họ quy định rằng họ chỉ
có thể tự giải phóng bằng cách giải phóng toàn xã hội khỏi chế độ TBCN và trong cuộc cách mạng
ấy, họ không mất gì ngoài xiềng xích và được cả thế giới về mình.
- Giai cấp công nhân cũng là giai cấp tiên phong cách mạng nhất bởi vì trong môi trường
làm việc của họ - nền SX công nghiệp - luôn phát triển và có những đổi mới, những cuộc cách mạng
KHKT không ngừng, chính cuộc cách mạng mà giai cấp công nhân tham gia đòi hỏi họ phải có sự
tiên phong
- Địa vị KT-XH khách quan còn tạo cho giai cấp công nhân khả năng đoàn kết thống nhất
giai cấp, khả năng đạt tới sự giác ngộ về địa vị lịch sử của mình và khả năng hành động chính trị để
từng bước đạt mục tiêu cách mạng. Bên cạnh đó, giai cấp công nhân không chỉ là giai cấp đối lập về
lợi ích trực tiếp với giai cấp tư sản mà còn là giai cấp đại biểu cho lợi ích của toàn bộ các giai cấp
khác và tầng lớp lao động trong xã hội, hiểu được tâm tư nguyên vọng của họ, có khả năng lôi
cuốn đoàn kết các giai cấp, tầng lớp lao động khác lại theo mình làm cách mạng xã hội. Do tính tiên
phong trong cách mạng, giai cấp công nhân luôn là người đi đầu và trở thành lãnh tụ tự nhiên của
các giai cấp, tầng lớp lao động khác, của toàn thể nhân dân lao động, của dân tộc trong cuộc đấu
tranh chống CNTB, chống giai cấp tư sản và xây dựng xã hội mới, vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
tổ quốc
- Giai cấp công nhân có bản chất quốc tế, xuất phát từ mối quan hệ trong nền SX công nghiệp
và từ mục đích xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa trên toàn thế giới. Giai cấp tư sản các nước hiện
nay ngày càng liên minh lại với nhau để tồn tại và duy trì sự thống trị. Do đó, để chống lại kẻ thù
chung là giai cấp tư sản, giai cấp công nhân mỗi nước ngoài việc phải thực hiện sứ mệnh lịch sử
trong khuôn khổ dân tộc mình còn phải đoàn kết toàn thể giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức
trên quy mô quốc tế mới có thể chiến thắng được
- Giai cấp công nhân còn lạ giai cấp có tinh thần đoàn kết, ý thức tổ chức kỷ luật cao, do
được rèn luyện trong nền SX công nghiệp.
Tóm lại, chính địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm của giai cấp công nhân nêu trên là
những điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, quy định khả năng
lãnh đạo cách mạng của nó trong cuộc đấu tranh lâu dài nhằm xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây dựng xã
hội mới, xã hội XHCN và CNCS. Sứ mệnh lịch sử đó không phải là thực hiện sự chuyển biến từ một
chế độ tư hữu này sang chế độ tư hữu khác, nhằm thay thế một hình thức bóc lột này bằng một hình
thức bóc lột khác mà là nhằm mục tiêu xóa bỏ giai cấp, giải phóng triệt để con người mà trước hết là
xóa bỏ chế độ tư hữu, cơ sở mà mọi hình thức bóc lột người. Ngoài giai cấp công nhân không một
lực lượng nào khác có đủ điều kiện tất yếu khách quan để có khả năng hoàn thành sứ mệnh lịch sử
đó.
Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, để biến khả năng khách
quan thành hiện thực thì phải thông qua những nhân tố chủ quan. Nhân tố chủ quan để giai cấp
công nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử có thể khái quát lại dựa trên 3 điều kiện cơ bản như sau :
Thứ nhất là phải đưa ý thức giai cấp, ý thức vô sản vào quần chúng công nhân, biến cuộc đấu tranh
tự phát của công nhân chống áp bức bóc lột của bọn địa chủ xí nghiệp thành cuộc đấu tranh tự giác
chống CNTB. Thứ hai là giai cấp công nhân phải từng bước xây dựng chính Đảng của mình để lãnh
đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền và lãnh đạo xây dựng xã hội mới. Thứ ba là phải có sự thống
nhất của phong trào công nhân (phong trào công nhân trong từng nước với phong trào công nhân
quốc tế), từng bước xây dựng ý thức đoàn kết quốc tế. Trong những nhân tố chủ quan đó, việc thành
lập Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp công nhân - trung thành với sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân là yếu tố có tính quyết định nhất, là điều kiện quan trọng để đảm bảo cho giai cấp
công nhân có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình.
Ngày nay, kẻ thù của CNXH và một số người cơ hội, xét lại đang phủ nhận thuyết Mác Lêni về
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Họ cho rằng trong các nước tư bản phát triển, giai cấp công
nhân đã được “trung lưu hóa” và có cổ phân trong trong xí nghiệp; đời sống của một bộ phần không
nhỏ trong giai cấp công nhân đã được cải thiện và có thu nhập cao cho nên họ không còn có tinh
thần cách mạng như trước đây. Thực ra, điều đó không có nghĩa là giai cấp công nhân ở các nước ấy
không còn bị bóc lột cũng như không có nghĩa là mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp công
nhân đã được điều hòa Về cơ bản, giai cấp công nhân vẫn là người không có tư liệu sản xuất bởi vì
phần lớn, nếu không nói là toàn bộ tư liệu sản xuất TBCN vẫn còn nằm trong tay giai cấp tư sản, họ
vẫn phải bán sức lao động (cả trí óc lẫn chân tay) cho nhà tư bản để kiếm sống. Do ứng dụng được
những thành tựu KH-KT Công nghệ cùng với sự gia tăng cường độ lao động, giai cấp công nhân
ngày càng tạo nên nhiều giá trị thặng dư hơn so với trước đây và vì vậy càng bị giai cấp tư sản bóc
lột nhiều hơn trước. Giai cấp tư sản chỉ bớt môt phần rất nhỏ trong lợi nhuận thu được của mình để
cải thiện đời sống công nhân. Sự bất công, bất bình đẳng và khoảng cách thu nhập ngày càng cách
xa giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản cho thấy mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp
công nhân không hề bị xóa đi mà ngày càng sâu sắc, tính cách mạng triệt để của giai cấp công nhân
cũng ngày càng được khẳng định.
Cũng có quan điểm cho rằng luận điểm của Mác về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
trước đây có thể đúng nhưng không còn đúng trong thời đại ngày nay. Theo họ thì, thời đại ngày nay
là thời đại của nền “văn minh trí tuệ”, của “kinh tế tri thức”, do đó trí thức mới là lực lượng tiền phong
có vai trò lãnh đạo cách mạng. Tất nhiên, trí thức có vai trò quan trọng trong mọi thời đại. Trong sự
nghiệp xây dựng xã hội mới, vai trò trí thức ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Song trí thức
không thể đóng vai trò lãnh đạo thay thế giai cấp công nhân. Bởi lẽ trong xã hội, trí thức chỉ là một
tầng lớp xã hội đặc biệt và không thuần nhất, họ chưa bao giờ và không bao giờ là một giai cấp. Trí
thức không đại biểu cho một phương thức sản xuất độc lập, không phải là một lực lượng kinh tế,
chính trị độc lập trước các giai cấp và tầng lớp xã hội khác vì vậy, trí thức không có hệ tư tưởng riêng
mà chỉ theo và chịu ảnh hưởng hệ tư tưởng của giai cấp đang thống trị . Bên cạnh đó, trí thức không
có lợi ích đối kháng trực tiếp với giai cấp tư sản. Dưới chế độ TBCN trí thức cũng là người làm thuê
và bị bóc lột, nhưng lại là tầng lớp làm thuê đặc biệt, được giai cấp tư sản đào tạo, sử dụng và có một
bộ phận được chế độ tư bản ưu đãi. Từ những đặc điểm ấy cho thấy trí thức không phải là tầng lớp
xã hội có tinh thần cách mạng triệt để như giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư
sản. Thực tế lịch sử cũng đã cho thấy chưa bao giờ có tầng lớp trí thức nào có thể thay thế một giai
cấp để lãnh đạo một cuộc cách mạng xã hội nhằm thay thế chế độ xã hội này bằng một chế độ xã hội
khác. Trí thức bao giờ cũng là trí thức của một giai cấp nhất định và thường là giai cấp thống trị xã
hội.
2. Liên hệ giai cấp công nhân Việt Nam
Giai cấp công nhân Việt Nam là một bộ phận giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân
Việt Nam cũng có địa vị kinh tế xã hội, có sứ mệnh lịch sử và những đặc điểm như giai cấp công
nhân quốc tế. Nhưng do sinh ra và lớn lên trong những điều kiện hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt
Nam nên ngoài những đặc điểm chung đó, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm
riêng của mình.
- Giai cấp công nhân Việt Nam kế thừa đặc tính cần cù sáng tạo trong lao động của dân tộc và
truyền thống yêu nước do họ sinh ra trong lòng một dân tộc có truyền thống đấu tranh bất khuất
chống ngoại xâm. Ở giai cấp công nhân, nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì bị áp bức bóc lột của
giai cấp tư sản đế quốc làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp là một, khiến động cơ cách
mạng, nghị lực cách mạng và tính triệt để cách mạng của giai cấp công nhân nhân lên gấp bội.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản, sớm tiếp thu được lý luận chủ
nghĩa Mác Lênin và Đảng Cộng sản lãnh đạo nên sớm giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của mình, họ đã
nhanh chóng trở thành giai cấp duy nhất lãnh đạo cách mạng nước ta và đồng thời cũng là chất xúc
tác để nhân dân ta dễ tiếp thu chủ nghĩa Mác Lênin và đi theo con đường cách mạng của giai cấp
công nhân.
- Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau thời điểm chủ nghĩa cơ hội của Quốc tế II bị phá
sản, sau sự thành công cách mạng tháng Mười Nga và được Quốc tế cộng sản chỉ đạo, do vậy giai
cấp công nhân nước ta không bị ảnh hưởng các khuynh hướng xã hội cải lương và thống nhất được
lực lượng cả nước
- Giai cấp công nhân phần lớn xuất thân từ nông dân lao động và những tầng lớp lao động
khác nên gắn bó mật thiết với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, hình thành khối liên minh vững
chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức. Giai cấp công nhân Việt
Nam gắn bó mật thiết với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân quốc tế và đã nhận được sự giúp
đỡ mọi mặt của giai cấp công nhân quốc tế.
- Giai cấp công nhân Việt Nam từ khi ra đời, nhất là từ khi có chính Đảng của mình đã trở thành
lực lượng chính trị tiên phong đi đầu trong công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và hoàn thành
thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành xây dựng CNXH. Đảng
Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân VN, đại biểu trung thành lợi ích
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc - là nhân tố quan trọng quyết định rất lớn
đến sự thành công và thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên
tắc tổ chức cơ bản của Đảng. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng tỏ rằng: giai cấp
công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. Với cương lĩnh và đường lối đúng
đắn, sáng tạo của mình, trong hơn 2/3 thế kỷ, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thể hiện
rõ qua việc tổ chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Bên cạnh những đặc điểm cơ bản trên giai cấp công nhân Việt Nam còn có nhược điểm như :
về số lượng giai cấp công nhân còn ít , tỷ lệ cơ cấu công nhân trong dân cư quá thấp. Về chất lượng,
giai cấp công nhân còn nhiều mặt hạn chế, biểu hiện ở sự giác ngộ về sứ mệnh lịch sử, vai trò, trách
nhiệm của giai cấp còn yếu do trình độ nhận thức lý luận kém,. Một bộ phận công nhân chạy theo lối
sống thực dụng, ít tha thiết chính trị. Tỷ lệ Đảng viên, Đoàn viên công đoàn, đoàn viên ĐTNCS Hồ
Chí Minh trong công nhân còn thấp. Trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật còn thấp và bất cập so với
yêu cầu thực tiễn, công nhân lành nghề ít, trình độ quản lý nhà nước, quản lý xã hội, đặc biệt quản lý
kinh tế còn non kém. Ngoài ra công nhân Việt Nam còn có tính tổ chức kỷ luật chưa cao, mang nặng
tâm lý tác phong, tập quán, lối sống của người nông dân sản xuất nhỏ, tiểu tư sản và còn bị ảnh
hưởng của tàn dư thực dân phong kiến. Những nhược điểm trên của giai cấp công nhân có nguyên
nhân như :
- Về khách quan : giai cấp công nhân Việt Nam sinh ra và lớn lên trong một nước thuộc địa nửa
phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp hiện đại chưa phát triển, công nhân chuyên nghiệp ít,
chưa được tôi luyện trong nền đại sản xuất, đại công nghiệp, phần đông công nhân xuất thân từ nông
dân, tiểu tư sản một phần do hậu quả của chiến tranh để lại.
- Về chủ quan : Mặt bằng dân trí nước ta còn thấp đã ảnh hưởng trực tiếp đến học vấn và tri
thức của người công nhân. Trình độ chuyên môn kỹ thuật của công nhân Việt Nam chưa cao còn do
kết quả đào tạo của các trường dạy nghề còn thấp và cơ cấu đào tạo bất hợp lý. Chính sách đối xử,
sử dụng nhân tài của chúng ta còn nhiều bất cập.
Hiện nay, thực trạng đời sống của giai cấp công nhân nước ta còn ở mức trung bình thấp so
với toàn xã hội và không ổn định, môi trường lao động xấu, điều kiện lao động kém; sự phân hoá
trong thu nhập của công nhân rất rõ rệt… Ở một số doanh nghiệp liên doanh hoặc đầu tư nước
ngoài, vẫn còn tồn tại một số trường hợp xúc phạm nhân phẩm, đối xử thô bạo với công nhân. Vì vậy,
việc xây dựng giai cấp công nhân ngày càng vững mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng để có thể
hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình là vấn đề rất quan trọng liên quan trực tiếp đến bản chất cách
mạng của Đảng, đến chế độ XHCN của Nhà nước ta. Đó cũng là là yêu cầu tất yếu của sự nghiệp
CNH-HĐH đất nước, là nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, cụ thể như :
- Trước mắt, khẩn trương giải quyết việc làm và đời sống cho giai cấp công nhân. Việc đảm bảo
việc làm, thu nhập và đời sống cho giai cấp công nhân là nhằm từng bước khắc phục sự thoái hoá,
biến chất đang diễn ra hiện nay. Đồng thời, đi đôi với việc giải quyết việc làm và đời sống là phải tăng
cường bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức tổ chức kỷ luật cho công
nhân, để từng bước xây dựng giai cấp công nhân nước ta thể hiện được vai trò là lực lượng chủ đạo
trong sự nghiệp xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay.
- Về lâu dài, để hoàn thành sự nghiệp cách mạng của Đảng, của giai cấp mình, giai cấp công nhân
phải phát triển mạnh mẽ số lượng và trí thức hoá đội ngũ công nhân đễ nâng cao trình độ chuyên
môn và quản lý của công nhân, đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước trong mọi ngành kinh tế quốc dân,
trên cơ sở đó xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH và thông qua đó xây dựng đội ngũ
công nhân hiện đại. Cùng với sự nghiệp đào tạo xây dựng đội ngũ công nhân mới, trẻ tuổi với tri thức
hiện đại, chúng ta đẩy mạnh sự nghiệp đào tạo lại và đào tạo nâng cao cho đội ngũ công nhân hiện
có. Gắn liền với sự nghiệp đào tạo đó, chúng ta hình thành từng bước đội ngũ công nhân tri thức
cùng với hình thành từng bước nền kinh tế tri thức. Bên cạnh đó, chúng ta phải xây dựng, củng cố
Đảng cộng sản vững mạnh, xây dựng cơ chế gắn bó, máu thịt giữa Đảng và giai cấp làm cho giai cấp
công nhân luôn là người giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước, đồng thời thường xuyên bổ
sung lực lượng công nhân ưu tú vào đội ngũ lãnh đạo của Đảng, cơ quan quản lý Nhà nước. Song
song đó, cần xây dựng tổ chức công đoàn vững mạnh, thực sự là chổ dựa cho giai cấp công nhân,
động viên, cổ vũ và tổ chức chỉ đạo phong trào công nhân thực hiện đường lối đổi mới, tiến lên theo
định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng đề xướng và lãnh đạo
7
Vấn đề 2 : Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời ký quá độ lên CNXH ở
Việt Nam khẳng định: Sự lãnh đạo
đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng
đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng
Việt Nam” (Cương lĩnh xây dựng đất
nước – Nhà xuất bản Sự Thật – 1991,
trang 5). Bằng lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học và thực tiễn, đồng chí hãy
phân tích làm rõ luận điểm trên.
Bài làm
Hơn 8 thập kỷ qua, từ sau cách
mạng Tháng Mười Nga (1917) đến nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trên
thế giới đã vượt qua một chặng đường
đấu tranh cách mạng cực kỳ khó khăn,
gian khổ và cũng đã giành được những
thắng lợi rất vẻ vang, xây dựng nên một
hệ thống xã hội chủ nghĩa trên toàn thề
giới. Trong cuôc cách mạng xã hội đó, vai
trò của Đảng cộng sản là một trong những
nhân tố quyết định sự thắng lợi của công
cuộc cách mạng đó.
Tuy nhiên, hiện nay khi chủ nghĩa xã
hội đang lâm vào giai đoạn thoái trào, sự
tan rã của Liên Xô và các nước XHCN
Đông Âu đã tác động sâu sắc trên nhiều
phương diện, từ kinh tế đến chính trị, tư
tưởng, tình cảm, niềm tin lý tưởng vào
CNXH và là một thử thách khắc nghiệt
bản lĩnh của Đảng Cộng sản các nước
XHCN, trong đó có nước ta. Nhiều người
đã bộc lộ sự dao động và hoài nghi về sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, vấn đề làm sáng
tỏ vai trò của Đảng Cộng sản và khẳng
định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng sẽ
bảo đảm thắng lợi cho cách mạng Việt
Nam là vấn đề hết sức cần thiết, trên cả
phương diện lý luận lẫn thực tiễn.
1. Khái quát về giai cấp công nhân và
sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Đảng Cộng sản Việt Nam - yếu tố
chủ quan quyết định cho giai cấp công
nhân hoàn thành sứ mệnh lịch sử của
mình.
Như chúng ta đã đã biết Đảng Cộng
sản là chính đảng của giai cấp công nhân.
Xuất phát từ nền sản xuất đại công
nghiệp, giai cấp công nhân bao gồm
những người lao động làm thuê cho nhà
tư bản, họ hoàn toàn không có tư liệu
sản xuất, phải bán sức lao động cho nhà
tư bản để kiếm sống. Vì vậy, trong sản
xuất giai cấp công nhân là giai cấp bị
phụ thuộc và trong phân phối, giai cấp
công nhân bị nhà tư bản bóc lột gía trị
thặng dư, do đó giai cấp công nhân là
giai cấp đối lập trực tiếp về lợi ích của
giai cấp tư sản, là động lực chính của tiến
trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH
Đánh giá về vị trí vai trò của giai cấp
công nhân, chủ nghĩa Mác Lênin xác định
giai cấp công nhân chính là giai cấp có sứ
mệnh lịch sử hết sức to lớn là xoá bỏ chế
độ bóc lột TBCN, thực hiện sự chuyển
biến cách mạng từ XH TBCN lên xã hội
XHCN và Cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh
lịch sử đó không phải là thực hiện sự
chuyển biến từ một chế độ tư hữu này
sang chế độ tư hữu khác, nhằm thay thế
một hình thức bóc lột này bằng một hình
thức bóc lột khác mà là một cuộc cách
mạng nhằm mục tiêu xóa bỏ giai cấp, giải
phóng triệt để con người mà trước hết là
xóa bỏ chế độ tư hữu, cơ sở mà mọi hình
thức bóc lột người. Theo Mác và
Ăngghen, sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân không phải do ý muốn chủ
quan của giai cấp công nhân hoặc do sự
áp đặt của các nhà tư tưởng mà do
những yếu tố, điều kiện khách quan như
địa vị kinh tế xã hội và những đặc điểm
vốn có của giai cấp công nhân quy định
nên. Có 3 yếu tố khách quan quy định sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Thứ
nhất là do địa vị KT-XH của giai cấp công
nhân quy định nên sứ mệnh lịch sử của
7
8
giai cấp công nhân; bởi lẽ khi mâu thuẫn
cơ bản trong xã hội tư bản giữa lực lượng
SX mang tính xã hội hóa cao mâu thuẫn
với quan hệ sản xuất mang tính chất giai
cấp công nhân là lực lượng sản xuất tiên
tiến, cơ bản nhất của phương thức sản
xuất TBCN, do đó nó sẽ là người quyết
định phá vỡ quan hệ sản xuất TBCN, hình
thành phương thức sản xuất mới :
phương thức sản xuất Cộng sản chủ
nghĩa, nền tảng cho XH CSCN ra đời.
Thứ hai là giai cấp công nhân luôn luôn
phát triển ngày càng đông về số lượng và
tăng về chất lượng. Bên cạnh đó, sự phát
triển của giai cấp công nhân cũng đồng
thời dẫn đến sự gia tăng mâu thuẫn ngày
càng gay gắt giữa giai cấp công nhân và
giai cấp tư sản, tất yếu dẫn đến cách
mạng xã hội nhằm xóa bỏ CNTB, hình
thành xã hội mới, xã hội CSCN. Ba là về
mặt chính trị - xã hội, giai cấp công nhân
có những đặc điểm của giai cấp cách
mạng tiên tiến, tiên phong, triệt để và có
tinh thần quốc tế vô sản. Giai cấp công
nhân là còn là giai cấp đại biểu cho lợi ích
của toàn bộ các giai cấp và tầng lớp lao
động trong xã hội, do đó họ trở thành lãnh
tụ tự nhiên của quần chúng lao động trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản và
xây dựng xã hội mới. Ngoài lực lượng của
mình, giai cấp công nhân có khả năng
đoàn kết, giác ngộ giai cấp mình và lôi kéo
những giai cấp, tầng lớp lao động khác đi
theo mình làm cách mạng xóa bỏ CNTB,
xây dựng CNCSNgoài giai cấp công nhân
không một lực lượng nào khác có đủ điều
kiện tất yếu khách quan để có khả năng
hoàn thành sứ mệnh lịch sử đó.
Tuy nhiên, để hoàn thành sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân, để biến
khả năng khách quan thành hiện thực thì
phải thông qua những nhân tố chủ quan.
Nhân tố chủ quan để giai cấp công nhân
hoàn thành sứ mệnh lịch sử có thể khái
quát lại dựa trên 3 điều kiện cơ bản như
sau :
- Thứ nhất là phải đưa ý thức giai
cấp, ý thức vô sản vào quần chúng công
nhân, biến cuộc đấu tranh tự phát của
công nhân chống áp bức bóc lột của bọn
địa chủ xí nghiệp thành cuộc đấu tranh tự
giác chống CNTB. Đây là một quá trình
liên tục, lâu dài và trong bất cứ thời kỳ lịch
sử nào cũng không được coi quá trình đó
là hoàn tất, bởi vì thành phần giai cấp
công nhân luôn luôn đổi mới, điều kiện
sinh hoạt và lao động của họ cũng như
sách lược của giai cấp tư sản với công
nhân luôn luôn thay đổi. Hơn nữa sống và
làm việc dưới chế độ TBCN, hệ tư tưởng
của giai cấp tư sản vẫn thường xuyên chi
phối công nhân, làm cho phong trào công
nhân tồn tại 2 xu hướng : đoàn kết thống
nhất và chia rẽ nội bộ, thỏa hiệp về mặt
XH dưới hình thức này hay hình thức khác
với giai cấp tư sản. Mặt khác, quá trình
đấu tranh giai cấp triển khai ngày càng
rộng, càng toàn diện thì sức ép tư tưởng
của giai cấp tư sản với phong trào công
nhân càng tinh vi và quyết liệt. Do vậy,
việc rèn luyện ý thức giai cấp chân chính
của giai cấp công nhân là quá trình đấu
tranh thường xuyên và quyết liệt giữa 2 hệ
tư tưởng tư sản và vô sản. Mặt khác, nó
cũng chỉ ra rằng đấu tranh tự phát của giai
cấp công nhân chỉ mới đạt được mục đích
đòi hỏi giai cấp tư sản nới rộng về đời
sống kinh tế chứ chưa phải là cuộc cách
mạng giải phóng giai cấp thật sự. Cuộc
đấu tranh tự phát đó chỉ có thể chuyển
sang đấu tranh tự giác khi nó có lý luận
soi đường, có Đảng lãnh đạo nhằm giải
phóng giai cấp ra khỏi áp bức bóc lột, xoá
bỏ XH TB
- Thứ hai là giai cấp công nhân
phải từng bước xây dựng chính Đảng của
mình để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành
chính quyền và lãnh đạo xây dựng xã hội
mới.
- Thứ ba là phải có sự thống nhất
của phong trào công nhân (phong trào
công nhân trong từng nước với phong trào
công nhân quốc tế), từng bước xây dựng
ý thức đoàn kết quốc tế. Các Mác cho
rằng, nếu giai cấp công nhân chỉ dựa vào
lực lượng chủ yếu của mình, của từng
8
9
nước thì không thể giải phóng được dân
tộc, không thể chiến thắng được sức
mạnh và tiềm lực chính trị - quân sự rất
lớn của giai cấp tư sản. Một khi phong
trào công nhân đoàn kết được phong trào
công nhân quốc tế thì phong trào giai cấp
công nhân mới phát triển và thắng lợi
trong cuộc đấu tranh. Ngược lại, khi
phong trào đoàn kết quốc tế giảm sút thì
phong trào của giai cấp công nhân cũng
giảm sút
Trong những nhân tố chủ quan đó,
việc thành lập Đảng Cộng sản - đội tiền
phong của giai cấp công nhân - trung
thành với sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là yếu tố có tính quyết định
nhất, là điều kiện quan trọng để đảm bảo
cho giai cấp công nhân có thể hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản đối với sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân :
a. Tính tất yếu, quy luật hình thành
và phát triển Đảng của giai cấp công nhân
:
Trong giai đoạn đầu đấu tranh với
giai cấp tư sản, do bị các chủ tư bản áp
bức, bóc lột nên giai cấp công nhân đã
vùng lên, tự đấu tranh đòi hỏi đáp ứng
những lợi ích kinh tế của giai cấp mình;
hầu hết các phong trào đấu tranh của giai
cấp công nhân giai đoạn này đều là tự
phát, xuất phát từ các cuộc đình công đòi
tăng lương, giảm giờ làm … và vì vậy sức
mạnh và hiệu quả đạt được từ các phong
trào này thường hạn chế, giai cấp công
nhân cũng chưa thể trở thành giai cấp
lãnh đaọ quần chúng lao động bị áp bức
bóc lột, lật đổ giai cấp tư sản cải tạo xã
hội. Dần dần từ các cuộc đấu tranh ấy đã
hình thành nên yêu cầu phải lý luận riêng
cho giai cấp công nhân và bằng việc tiếp
thu lý luận khoa học và cách mạng của
chủ nghĩa Mác – Lênin, phong trào đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân
đã chuyển từ tự phát sang trình độ tự giác
và thật sự trở thành phong trào chính trị.
Các nhà sáng lập CNXH khoa học đã
khẳng định rằng : thông qua cuộc đấu
tranh chống giai cấp tư sản, giai cấp công
nhân phát triển từ trình độ tư phát lên tự
giác và quá trình ấy diễn ra nhanh hay
chậm phụ thuộc vào việc truyền bá lý
luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Trình độ lý
luận Mác Lênin cho phép giai cấp công
nhân nhận thức được vị trí, vai trò của
mình trong xã hội, nguồn gốc tạo nên sức
mạnh và biết tạo nên sức mạnh đó bằng
sự đoàn kết, nhận rõ mục tiêu, con đường
và những biện pháp giải phòng giai cấp
mình, giải phóng cả xã hội và giải phóng
nhân loại. Đồng thời sự thâm nhập của
chủ nghĩa Mác Lênin vào phong trào công
nhân cũng dẫn đến sự hình thành chính
Đảng của giai cấp công nhân : Đảng Cộng
sản. Giai cấp công nhân đã ý thức được
rằng để đấu tranh giành được chính
quyền và xây dựng xã hội mới, họ không
có vũ khí nào quan trọng hơn là tổ chức
mà hình thức tổ chức cao nhất là Đảng
Cộng sản. tự mình tổ chức một chính
Đảng độc lập của mình chống lại quyền
lực liên hiệp của giai cấp tư sản và chỉ khi
có chính đảng của mình, giai cấp công
nhân mới có thể hành động với tư cách là
một giai cấp được. Hình thức tổ chức cao
nhất của giai cấp công nhân là Đảng Cộng
sản. Lênin đã chỉ ra rằng Đảng cộng sản
hình thành trên cơ sở kết hợp giữa lý luận
chủ nghĩa Mác Lênin và phong trào công
nhân. . Ở các nước thuộc địa và phụ
thuộc, sự hình thành Đảng Cộng sản còn
là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác Lênin,
phong trào công nhân và phong trào yêu
nước, phong trào dân tộc.
Thực tiễn cách mạng của giai cấp
công nhân các nước cho thấy rằng từ sau
khi Đảng Cộng Sản lãnh đạo, giai cấp
công nhân và phong trào công nhân
chuyển từ hình thức đấu tranh tự phát
sang tự giác trong mỗi hành động với tư
cách một giai cấp tự giác và thực sự cách
mạng. Chỉ dưới sự lãnh đạo của Đảng
mới gắn phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân với lý tưởng XHCN, làm cho
công nhân nhận thức được lý luận khoa
học của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đặc trưng
của đấu tranh tự giác là dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản là giai cấp công nhân
đấu tranh chính trị để giải phóng mình và
quần chúng nhân dân lao động, đấu tranh
lật đổ giai cấp tư sản giành chính quyền,
nắm chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới XHCN và CSCN.
9
10
Thực tiễn sự thất bại của cách
mạng Pháp 1848-1850 và công xã PARIS
1871 đã chứng minh nếu như không có sự
soi sáng của học thuyết cách mạng và
khoa học của Chủ nghĩa Mác Lênin và sự
dẫn dắt của một chính Đảng thật sự cách
mạng thì mọi cuộc đấu tranh lật đổ chính
quyền để xây dựng một xã hội mới đều
không vươn tới những thắng lợi cuối
cùng. Chỉ đến cách mạng tháng Mười Nga
năm 1917, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, một Đảng theo học thuyết cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân mới giành được thắng lợi; từ đó
cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười
Nga mở ra một thời đại mới, thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn thế giới
b. Mối quan hệ giữa Đảng với giai
cấp công nhân :
Phải nói rằng không có một giai cấp
nào khi giữ vai trò lãnh đạo xã hội mà
không thông qua chính đảng của mình.
Đảng cộng sản không những là tổ chức
chính trị cao nhất, đại biểu tập trung cho
trí tuệ và lợi ích của toàn thể giai cấp công
nhân mà còn đại biểu cho toàn thể nhân
dân lao động và dân tộc. Chỉ khi nào có
một đảng chính trị vững vàng, kiên định và
sáng suốt, có đường lối chiến lược và
sách lược đúng đắn, thể hiện lợi ích của
toàn bộ giai cấp và toàn bộ phong trào thì
giai cấp công nhân mới có thể hoàn thành
sứ mệnh lịch sử của mình. Như vậy, Đảng
là nhân tố có vai trò quyết định trong việc
thực hiện và hoàn thành sứ mệnh lịch sử
của giai cấp công nhân. Vai trò đó thể hiện
ở các mặt như : Đảng giác ngộ giai cấp
công nhân và nhân dân lao động bằng lý
luận tiên phong của chủ nghĩa Mác –
Lênin và vận dụng lý luận ấy vào hoàn
cảnh cụ thể của mỗi nước; Đảng đề ra
cương lĩnh chính trị, vạch ra cho giai cấp
công nhân và nhân dân lao động con
đường đấu tranh cách mạng đúng đắn, tổ
chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến
cao và giành chính quyền; khi giành được
chính quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền
và toàn xã hội thực hiện đường lối của
Đảng đề ra để xây dựng xã hội mới.
Giữa Đảng và giai cấp công nhân có
mối quan hệ hữu cơ không thể tách rời.
Giai cấp công nhân là cơ sở xã hội – giai
cấp của Đảng, là nguồn bổ sung lực
lượng của Đảng. Ngược lại, Đảng là chính
đảng của giai cấp công nhân, hình thành
trên quan điểm lập trường giai cấp công
nhân, là đội tiên phong chiến đấu, là bộ
tham mưu của giai cấp. Những đảng viên
của Đảng Cộng sản có thể không phải là
công nhân nhưng phải là người giác ngộ
về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân và đứng trên lập trường của giai cấp
này.
Thực tiễn sụp đổ chủ nghĩa xã hội ở
các nước Đông Âu và Liên Xô cho thấy
bài học kinh nghiệm sâu sắc rằng một khi
Đảng Cộng sản xa rời lập trường giai cấp
công nhân, không tự đổi mới về trình độ lý
luận chính trị, đội ngũ Đảng viên để lọt
những phần tử cơ hội vào trong hàng ngũ
của Đảng gây lũng đoạn làm cho bộ máy
Đảng biến chất thì sớm muộn Đảng ấy
cũng sẽ để mất vai trò lãnh đạo cách
mạng. Thực tế ở Liên Xô và Động Âu là
những điển hình, ở các nước này tuy giai
cấp công nhân giành được chính quyền,
nhưng do không thường xuyên tổng kết
thực tiền, nâng cao trình độ lý luận của
Đảng, việc chăm lo xây dựng Đảng chưa
chặt chẽ đã làm mất vai trò và tính tiên
phong của Đảng, đội ngũ Đảng viên bị
phân hoá, mơ hồ về quan điểm, lập
trường giai cấp, dễ dàng sa ngã theo phái
chủ nghĩa cơ hội, một số khác biến dạng
hình thành một đẳng cấp có đặc quyền,
đặc lợi, xa rời quần chúng. Vì vậy, nhiều
Đảng mất tín nhiệm giai cấp đi đến chia
rẽ, tan rã. Khi thời cơ đến, những phần tử
cơ hội trong Đảng sẵn sàng hợp tác với
thế lực đế quốc phá hoại Đảng, phá hoại
thành quả của CNXH, bắt đầu từ sự phản
bội của người lãnh đạo chủ chốt; chủ
nghĩa đế quốc can thiệp vừa tinh vi, vừa
trắng trợn, thực hiện "diễn biến hòa bình"
10
11
ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Như vậy,
sự đổ vỡ của Liên Xô và các nước Đông
âu không có nghĩa là sự sụp đổ của học
thuyết về chủ nghĩa xã hội, không phải là
sự sụp đổ của phong trào xã hội chủ
nghĩa thế giới mà nguyên nhân trực tiếp là
Đảng Cộng sản phạm những sai lầm
nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư
tưởng và tổ chức, xa rời giai cấp, thiếu
tỉnh táo thanh lọc những phần tử cơ hội,
nhất là những phần tử cơ hội về chính trị.
Từ những bài học trên cho thấy, để
thể hiện và giữ vững vai trò lãnh đạo của
mình trong việc tổ chức cho giai cấp công
nhân thực hiện và hoàn thành sứ mệnh
lịch sử, Đảng Cộng sản phải luôn luôn giữ
vững lập trường giai cấp đồng thời phải
thường xuyên tự đổi mới để vững mạnh
về tư tưởng, chính trị và tổ chức, không
ngừng tu dưỡng, rèn luyện nâng cao ý chí
cách mạng, lập trường giai cấp, nâng cao
toàn diện trình độ kiến thức, trình độ lý
luận; kịp thời tổng kết kinh nghiệm đề ra
thực tiễn sâu sắc nhằm đề ra đường lối
chiến lược sách lược đúng đắn, đồng thời
phải xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch
vững mạnh, nâng cao hiệu quả và sức
chiến đấu của Đảng.
2. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam
đối với cách mạng Việt Nam:
Trước khi có Đảng cộng sản, đất
nước ta đặt dưới sự thống trị của thực
dân Pháp, rất nhiều phong trào đấu tranh
yêu nước rất nhiều các tầng lớp khác
nhau trong xã hội như phong trào Cần
Vương của các sĩ phu yêu nước, phong
trào đấu tranh theo ý thức hệ của giai cấp
tư sản, tiểu tư sản Việt Nam như cuộc đấu
tranh của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh,
Nguyễn Thái Học … Những phong trào
này đã đặt vấn đề giải phóng đất nước,
giành độc lập dân tộc, thức tỉnh dân trí
nhưng do ý thức hệ hoặc đã lỗi thời hoặc
mang tính cải lương nên không đáp ứng
được đầy đủ yêu cầu của dân tộc, dân
chủ bức thiết của đông đảo nhân dân lao
động nước ta cũng như tỏ ra bất cập so
với thời đại – khi mà Cách mạng XHCN
tháng Mười Nga thành công đã thức tỉnh
các dân tộc thuộc địa, mở ra con đường
giải phóng dân tộc bỏ qua chế độ tư bản
để tiến lên CNXH. Nói cách khác, sự thất
bại của các phong trào yêu nước đó còn
do thiếu một đường lối đúng đắn và một
Đảng cách mạng chân chính
Kể từ khi giai cấp công nhân Việt
Nam tổ chức được chính đảng của mình
và chuyển phong trào đấu tranh từ tự phát
sang tự giác, lịch sử Việt Nam đã bước
sang một trang mới. Ngày 3 tháng 2 năm
1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đánh dấu bước chuyển biến quyết định
của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong chính trị của
giai cấp công nhân VN, đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và cả dân tộc. Đảng lấy chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho
hành động, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh
giai cấp và đấu tranh dân tộc trong thời
đại mới; là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác- Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; là
kết quả của quá trình lựa chọn, sàng lọc
nghiêm khắc của lịch sử; là kết quả của
quá trình chuẩn bị đầy đủ về chính trị, tư
tưởng và tổ chức của các chiến sĩ cách
mạng.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã chứng tỏ rằng : giai cấp công
nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức
lãnh đạo cách mạng. Thực tế cho thấy
ngay từ khi mới ra đời, Đảng cộng sản
Việt Nam đã mang trong mình tính thống
nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân
tộc, thực hiện vai trò lãnh đạo với tinh thần
trách nhiệm cao của giai cấp và dân tộc.
Sự ra đời của Đảng cũng là cột mốc lớn
đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch
sử cách mạng Việt Nam. Cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước kéo dài
mấy chục năm đã được giải quyết. Từ
đây, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một
11
12
Đảng Mác- Lênin chân chính với đường lối
cách mạng khoa học và sáng tạo là cơ sở
lý luận vững chắc đảm bảo mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam, đáp ứng đầy đủ
yêu cầu của cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc và công cuộc phát triển của đất
nước. Đảng đã đề ra cương lĩnh đúng đắn
của cách mạng Việt Nam vạch ra đường
lối khác về chất so với những con đường
cứu nước do những nhà yêu nước
đương thời vạch ra đã bế tắt và thất bại.
Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta hoàn thành
cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đưa cả nước quá độ tiến lên CNXH.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt
được, song đã có lúc Đảng đã vấp phải
những sai lầm khiếm khuyết trong thời
gian khá dài trước thời kỳ đổi mới. Bên
cạnh đó, sự tan rã của Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu tác động sâu sắc
trên nhiều phương diện, từ kinh tế đến
chính trị, tư tưởng, tình cảm, niềm tin lý
tưởng vào CNXH và là một thử thách khắc
nghiệt bản lĩnh của Đảng ta.
Trước thử thách sống còn đó, Đảng
ta, trước hết là Bộ chính trị, BCHTƯ đã
bình tĩnh, sáng suốt, làm hạt nhân của
khối đoàn kết toàn Đảng, toàn dân, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với
CNXH, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân khắc
phục yếu kém, khó khăn, ổn định tư
tưởng, chính trị, xã hội, phát triển kinh tế,
giữ vững quốc phòng an ninh, tăng cường
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, kiên
trì sự nghiệp đổi mới. Đồng thời Đảng ta
cũng đã sớm nhận thức ra những thiếu
sót, khuyết điểm và tự nhận khuyết điểm
trước nhân dân, đã sửa chữa và sửa
chữa có kết quả, đem lại lòng tin của nhân
dân với Đảng. Đảng đã khởi xướng và
lãnh đạo công cuộc đổi mới toàn diện vì
chủ nghĩa xã hội, với quyết tâm và trí tuệ
của toàn Đảng, sự tham gia tích cực của
nhân dân, công cuộc đổi mới ở nước ta
trong hơn 17 năm qua đã thu được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa quan trọng,
khẳng định đường lối đổi mới là đúng .
Vì vậy, với cương lĩnh và đường lối
đúng đắn, sáng tạo của mình, trong hơn
2/3 thế kỷ, vai trò của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã được thể hiện rõ qua việc tổ
chức, lãnh đạo mọi thắng lợi của cách
mạng Việt Nam. Những thắng lợi đó là :
Một là, thắng lợi của Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 và việc thành lập
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà nay là
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã mở ra một kỷ nguyên mới: Kỷ
nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội.
Hai là, thắng lợi của các cuộc kháng
chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc, góp phần quan trọng vào
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội.
Ba là, thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới và từng bước đưa đất nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Trải qua nhiều tìm
tòi, khảo nghiệm, tổng kết sáng kiến của
nhân dân, Đảng ta đã đề ra và lãnh đạo
thực hiện đường lối đổi mới, xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc phù hợp
với thực tiễn Việt Nam và bối cảnh quốc tế
mới.
Với những thắng lợi giành được thời
gian qua, nước ta từ một nước thuộc địa
nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia
độc lập, tự do, phát triển kinh tế theo con
đường xã hội chủ nghĩa, có quan hệ quốc
tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng
trong khu vực và trên thế giới.
Sở dĩ Đảng Cộng sản Việt Nam
thực hiện được nhiệm vụ lịch sử của
mình, lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ
thắng lợi này sang thắng lợi khác là do
những nguyên nhân sau đây :
- Một là Đảng ta có đường lối đúng
đắn, đó là sự vận dụng và phát triển sáng
tạo của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt
Nam. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối đó
là việc giải quyết đúng đắn và kết hợp
chặt chẽ, nhuần nhuyễn các mối quan hệ
12
13
giữa giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc
tế, độc lập dân tộc và CNXH.
- Hai là Đảng sinh ra từ một dân tộc
có truyền thống yêu nước, đấu tranh bất
khuất, một nhân dân cách mạng, thiết tha
với độc lập tự do, sẳn sàng tập họp, đoàn
kết thống nhất xung quanh Đảng,
- Ba là Đảng qua các thời kỳ đấu
tranh lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn
đều được tổ chức chặt chẽ trên nguyên
tắc tập trung dân chủ, đại đa số Đảng viên
trung thành với lý tưởng cách mạng, một
lòng phấn đấu hy sinh vì dân vì nước.
Tất cả những điều đó có thể khẳng
định rằng nếu không có Đảng Cộng sản
Việt Nam thì cách mạng Việt Nam sẽ
không đạt được thắng lợi to lớn như đã
qua. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta vẫn
phải đối mặt với muôn vàn khó khăn về
kinh tế, chính trị, xã hội …Vì vậy, để đảm
bảo định hướng XHCN và lãnh đạo đất
nước thực hiện thành công định hướng
chiến lược đã đặt ra, Đảng ta phải việc
thường xuyên tự đổi mới, ra sức nâng cao
trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo, giữ
vững đoàn kết thống nhất, đấu tranh có
hiệu quả chống chủ nghĩa các nhân, chủ
nghĩa cơ hội, chăm lo xây dựng đội ngũ
cán bộ, Đảng viên trong sạch, có phẩm
chất đạo đức, năng lực và sức chiến đấu
cao, tiêu biểu cho bản chất, lương tâm và
trí tuệ của giai cấp công nhân.
Đồng thời Đảng phải củng cố, xây
dựng và phát triển mạnh mẽ giai cấp công
nhân, luôn đặt vấn đề giai cấp công nhân
như một vấn đề sinh tử của cách mạng.
Nhiều năm qua trung ương Đảng đã có
nhiều nghị quyết của Đảng rất quan trọng
về công tác này. Đại Hội lần 8 của Đảng
đặt vấn đề xây dựng giai cấp công nhân
lớn mạnh ở vị trí hàng đầu trong việc
nghiên cứu ban hành những chính sách
cụ thể đối với các giai cấp, tầng lớp trong
xã hội nhằm tạo ra động lực thúc đẩy
phong trào cách mạng thời kỳ mới. Đảng
cũng đã đặt vấn đề giữ vững và tăng
cường bản chất giai cấp công nhân cuả
Đảng thành nhiệm vụ trung tâm hàng đầu.
Tóm lại từ thực tiễn cách mạng ở
nước ta đã cho thấy không thể phủ nhận
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò vô
cùng to lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Đó là nhân tố bảo đảm cho giai cấp công
nhân thực hiện hoàn thành sứ mệnh lịch
sử của mình. Sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân gắn liền tuyệt đối với vai
trò của Đảng Cộng sản
Vấn đề 3: Đồng chí hãy phân tích
tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá
độ . Liên hệ với thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta ?
BÀI LÀM
Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ
cải biến cách mạng sâu sắc toàn bộ các
lãnh vực đời sống của XH, tạo ra những
tiền đề vật chất và tinh thần cần thiết để
hình thành một XH mà trong đó những
nguyên tắc căn bản của XH XHCN sẽ
được thực hiện. Thời kỳ này bắt đầu từ
khi giai cấp công nhân giành được chính
quyền nhà nước cho đến khi CNXH đã tạo
ra được những cơ sở của mình trong các
lãnh vực của đời sống XH. Xét về bản
chất, mục tiêu nhất quán của các chế độ
XH từ khi có Đảng của giai cấp công nhân
lãnh đạo thì thời kỳ quá độ lên CNXH nằm
trong giai đoạn thấp của hình thái KT-XH
CSCN
1. Tính tất yếu khách quan của thời
kỳ quá độ lên CNXH
Quá độ lên CNXH là một tất yếu lịch
sử. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ
quá độ được quy định bởi 2 lý do cơ bản
sau đây :
Một là CNXH - giai đoạn đầu của
hình thái KT-XH CSCN - không thể tự phát
ra đời trong lòng XH cũ. CNTB dù phát
triển ở trình độ cao cũng chỉ tạo ra những
tiền đề vật chất cho sự ra đời của CNXH.
Còn bản thân công cuộc xây dựng CNXH
chỉ có thể thực hiện được chỉ khi giai cấp
13
14
công nhân và nhân dân lao động giành lấy
chính quyền nhà nước và sử dụng bộ máy
nhà nước của mình để cải tạo XH cũ, xây
dựng XH mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến
trúc thượng tầng.
Hai là với điểm xuất phát về KT - XH
của XH tiền tư bản và tư bản, sau khi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động trở
thành chủ thể cầm quyền, trong XH đó
còn chưa có đủ những tiền đề vật chất,
văn hóa và tinh thần cần thiết để thực hiện
những chuẩn mực của XH XHCN. Muốn
đạt được những đặc trưng đó, phải trãi
qua quá trình tổ chức, xây dựng để từng
bước cải tạo các quan hệ KT-XH tư bản
và tiền tư bản, phát triển lực lượng sản
xuất và thay đổi tương ứng trên lĩnh vực
QHSX, phát triển một cơ cấu XH tiến bộ,
đời sống văn hóa tinh thần lành mạnh,
phù hợp với nhu cầu giải phóng con
người. Nói riêng trên lĩnh vực KT, toàn bộ
sự phát triển của sản xuất và các quan hệ
vật chất, tinh thần khác cho phép áp dụng
một cách phổ biến nguyên tắc phân phối
theo lao động.
Các nhà sáng lập CN XHKH đã nêu ra
hai kiểu quá độ lên CNXH: Quá độ trực
tiếp từ CNTB lên CNXH và quá độ gián
tiếp từ XH tiền TBCN lên CNXH. Dù là
trực tiếp hay gián tiếp thời kỳ quá độ đều
phải trãi qua một quá trình gay go, phức
tạp, lâu dài.
Ở mỗi nước do những điều kiện lịch
sử, KT, XH khác nhau mà độ dài, ngắn
của thời kỳ quá độ có khác nhau nhưng
nhìn chung đều phải trãi qua một thời kỳ
quá độ để đổi mới nền sản xuất XH, thay
đổi căn bản trong mọi lãnh vực của đời
sống XH và phải trãi qua một cuộc đấu
tranh quyết liệt mới có thể thắng được sức
mạnh to lớn của thói quen quản lý theo
kiểu tiểu tư sản và tư sản
2. Đặc điểm thời kỳ quá độ lên
CNXH :
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ
lên CNXH là những nhân tố của XH mới
và tàn tích của XH cũ tồn tại, đan xen lẫn
nhau, đấu tranh trên mọi lãnh vực của đời
sống KT, chính trị, văn hóa, XH, tư tưởng,
tập quán trong XH biểu hiện dưới dạng
cái cũ còn tồn tại, những bộ phận, những
mảnh, những tàn dư (của XH cũ bị đánh
bại nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn) xen
kẻ với cái mới nảy sinh đã ra đời nhưng
chưa hoàn chỉnh, còn non yếu.
Thời kỳ quá độ cũng là thời kỳ đấu
tranh giai cấp quyết liệt, gay go, phức tạp
diễn ra trên tất cả mọi lĩnh vực, rất khó
khăn đòi hỏi giai cấp công nhân phải biết
phân biệt, bình tĩnh và chủ động khắc
phục. Thể hiện cụ thể:
- Về lĩnh vực chính trị : bản chất nhất
thời của thời kỳ quá độ là sự quá độ về
chính trị, ở đó nhà nước chuyên chính vô
sản được thiết lập, củng cố và ngày càng
hoàn thiện
- Về lĩnh vực KT : sự phát triển chưa
đồng đều của LLSX trong thời kỳ này quy
định tính tất yếu khách quan trong sự tồn
tại nhiều thành phần KT khác ngoài thành
phần KT XHCN, trong đó có cả những
thành phần KT tư bản.đối lập.
- Về lĩnh vực XH: do kết cấu KT trên
đây quy định, trong XH còn nhiều giai cấp
và tầng lớp khác nhau, trong đó có sự đối
lập - đối kháng nhất định về những lợi ích
căn bản. Trong thời kỳ này còn có sự khác
biệt cơ bản giữa thành thị và nông thôn,
đồng bằng và miền núi, lao động trí óc và
lao động chân tay, vấn đề bình đẳng và
công bằng XH cần phải được xác lập dần
dần.
- Về lĩnh vực tư tưởng và VH : còn
tồn tại nhiều loại tư tưởng, văn hóa tinh
thần khác nhau, có cả sự đối lập. Bên
cạnh nền văn hóa mới, lối sống vừa xây
dựng còn tồn tại những tàn tích của nền
văn hóa cũ, lối sống cũ, tư tưởng lạc hậu,
thậm chí phản động gây cản trở không
nhỏ cho con đường đi lên CNXH của các
dân tộc sau khi mới được giải phóng.
14
15
Tương ứng với tính phức tạp trong kết
cấu KT-XH, tư tưởng tinh thần đó, thời kỳ
quá độ là thời kỳ đấu tranh giai cấp chưa
kết thúc. Trong thời kỳ này vẫn diễn ra
cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản với
giai cấp tư sản, giữa con đường phát triển
đất nước lên CNXH hay đi lên CNTB.
Song, đây là cuộc đấu tranh diễn ra trong
điều kiện mới (giai cấp công nhân đã trở
thành giai cấp cầm quyền), với nội dung
mới (mà trung tâm là xây dựng toàn diện
XH mới, trong đó xây dựng nền KT XHCN
là nhiệm vụ cơ bản nhất) và hình thức mới
(cơ bản là hòa bình với tổ chức xây
dựng).
Cùng với những bước tiến trong quá
trình xây dựng CNXH, các thành phần
nhân tố mang tính XHCN sẽ ngày càng
phát triển và vươn lên vị trí chi phối trên
mọi lĩnh vực; con đường XHCN sẽ giữ
vững vai trò chủ đạo.
Từ đó có thể nói, thời kỳ quá độ là
thời kỳ, xét trên mọi phương diện , còn tồn
tại nhiều yếu tố khác nhau, đối lập nhau,
thâm nhập vào nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau. Tuy nhiên, xét về xu hướng tất yếu,
các yếu tố mang tính chất XHCN sẽ ngày
càng phát triển, nhưng không loại trừ khả
năng ở những lúc, những nơi nhất định,
cái cũ tạm thời lấn áp cái mới; trong đó
tính tự phát TBCN còn có cơ sở rộng lớn.
Trình độ thấp trong sự phát triển KT-XH
của thời kỳ quá độ lên CNXH quy định tính
khó khăn, lâu dài của thời kỳ này. Trong
quá trình đó, sự phát triển tiến bộ có thể
đan xen với những sự thoái lui tạm thời,
những tìm tòi, thử nghiệm nhiều khi phải
làm đi, làm lại mới xác định được giá trị
chân thật của nó trong quá trình xây dựng
XH mới.
3. Liên hệ với thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta
Quá độ lên CNXH ở mỗi nước có
những nét đặc thù đo điều kiện lịch sử cụ
thể đất nước đó. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản, giai cấp công nhân và
nhân dân lao động nước ta đã vận dụng
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác-
Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH vào
hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam,
phù hợp với đặc điểm và truyền thống
quý báu của nước ta đồng thời tận dụng
các ưu thế của thời đại để định ra mục
tiêu tổng quát, phương hướng và bước đi
thích hợp nhằm thực hiện thành công
bước quá độ đi lên CNXH
Xuất phát từ một nước nông nghiệp
có nền KT lạc hậu, Đảng đã xác định con
đường phát triển đất nước quá độ lên
CNXH không qua chế độ TBCN. Mặc dù
CNXH trên thế giới đang ở giai đoạn thoái
trào, chúng ta không còn có sự giúp đở
của các nước XHCN tiên tiến nhưng
chúng ta vẫn có thể đứng vững và tin
tưởng rằng con đường quá độ đi lên
CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta
vẫn là con đường tất yếu và có khả năng
thực hiện là vì những điều kiện khách
quan và chủ quan sau đây:
- Về khách quan: Thời đại ngày nay
cũng là thời đại quá độ từ CNTB lên
CNXH trên phạm vi toàn thế giới, do đó
Việt Nam lựa chọn con đường đi lên
CNXH là phù hợp với xu thế tiến bộ của
thời đại. Mặt khác thế kỷ XXI là thế kỷ
khoa học và công nghệ có những bước
nhảy vọt, KT trí thức ngày càng có vai
trò nổi bậc trong sự ảnh hưởng đến
quá trình lực lượng sản xuất của các
quốc gia. Bên cạnh đó toàn cầu hóa KT
là một xu hướng khách quan lôi cuốn
ngày càng nhiều các nước tham gia.
trong đó có nước ta. Chính những yếu
tố khách quan này đã tạo điều kiện
thuận lợi cho tiến trình công nghiệp
hóa - hiện đại hóa ở nước ta
- Về chủ quan: chúng ta quá độ lên
CNXH với sự lãnh đạo của Đảng cầm
quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam, một
Đảng giàu tinh thần cách mạng gắn bó
với quần chúng và là nhân tố vô cùng
quan trọng. Trong những thời điểm
phong trào XHCN, phong trào cộng sản
và công nhân quốc tế có sự khủng
hoảng, chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông âu sụp đổ, Đảng ta vẫn vững
vàng lãnh đạo nhân dân ta thực hiện
đường lối đổi mới vượt qua những
hiểm nghèo đưa công cuộc xây dựng
15
16
CNXH và bảo vệ đất nước của nhân
dân ta tiến lên một cách vững chắc. Kế
thừa truyền thống và những kinh
nghiệm cách mạng đã tích lũy, trãi qua
thể nghiệm tìm tòi, qua việc phát huy trí
tuệ của toàn Đảng toàn dân, Đảng ta đã
xây dựng được đường lối đổi mới
đúng đắn hình thành những nét chủ
yếu quan niệm về XH XHCN mà nhân
dân ta xây dựng và con đường xây
dựng CNXH ở nước ta. Công cuộc đổi
mới do Đảng chủ trương và tổ chức
thực hiện mấy năm qua đã thu được
thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan
trọng. Nhờ có đường lối đổi mới đúng
đắn đất nước đã thoát khỏi cuộc
khủng hoảng KT-XH để từng bước
vượt qua nước nghèo tiến lên giàu
mạnh nhân dân có cuộc sống ấm no
hạnh phúc. Đội ngũ cán bộ Đảng viên
của Đảng đại đa số đều là những
người trung thành với sự nghiệp cách
mạng, nhất trí với đường lối của Đảng,
có ý chí biến đường lối đó thành hiện
thực. Nhân dân ta cần cù, thông minh,
sáng tạo rất cách mạng, có lòng yêu
nước gắn bó với chế độ, với Đảng. Bên
cạnh đó, Việt Nam là một nước có
nhân lực dồi dào, tài nguyên đa dạng,
chúng ta cũng đã xây dựng CNXH
được mấy chục năm và bước đầu đã
xây dựng được một số cơ sở vật chất
kỹ thuật của CNXH.
Như vậy, nước ta bỏ qua chế độ
TBCN quá độ lên CNXH là sự lựa chọn có
tính chất lịch sử phù hợp với lợi ích dân
tộc và nhân dân, phù hợp với xu thế phát
triển của thời đại. Nhưng làm cho CNXH
trở thành hiện thực ở một nước như nước
ta thật không đơn giản. Hiện nay cuộc
khủng hoảng toàn diện và sâu sắc của
CNXH hiện thực đang đặt CNXH trước sự
công kích gay gắt chưa từng có và từ
chiều hướng này đã làm nảy sinh những
khuynh hướng dao động hoài nghi tậm chí
phụ định khả năng đi lên CNXH ở những
nước còn lạc hậu về KT, trong khi đánh
giá đầy đủ những khó khăn hiện nay,
nước ta vẫn kiên trì đi theo con đường
XHCN mà ND ta đã chọn lựa và thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện sự nghiệp
xây sựng đất nước. Để thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh; XH công bằng dân
chủ, văn minh theo con đường XHCN,
điều quan trọng nhất phải là cải tiến căn
bản tình trạng KT- XH kém phát triển; đẩy
mạnh CNH; HĐH đất nước; chiến thắng
những cản trở trong việc thực hiện mục
tiêu đó trước hết là các thế lực thù địch
chống độc lập dân tộc và CNXH. Bài học
kinh nghiệm đầu tiên của thắng lợi là: "
Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
CNXH."
Về mặt lịch sử, thời kỳ quá độ ở nước
ta trãi qua 2 giai đoạn : giai đoạn trước khi
thống nhất đất nước năm 1975 và giai
đoạn cả nước thống nhất quá độ đi lên
CNXH sau năm 1975
- Trước năm 1975, miền Bắc đã có
trên 20 năm cải tạo XH cũ và từng bước
xây dựng các mặt XH mới. Trong những
năm này, nhân dân miền Bắc đã làm nhiều
việc trong sự nghiệp xây dựng KT, phát
triển văn hóa. CN Mác Lênin đã thâm
nhập vào quần chúng cách mạng như một
hệ tư tưởng chính thống; những tổ chức
chính trị - XH rộng lớn dưới sự lãnh đạo
của chính đảng Mác Xít đã hoạt động và
đạt những thành tựu nhất định. Mặc dù có
những mặt chưa hòan thiện trong tổ chức
và hoạt động của mình, chính quyền nhà
nước do nhân dân lao động làm chủ, dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
là một bước ngoặt đáng kể làm thay đổi
bộ mặt dân chủ về chính trị - XH nước ta.
Các nhân tố đó bước đầu đã mang tính
chất tiến bộ, tính chất XHCN và ngày càng
tăng lên quy mô tồn tại ngày càng mở
rộng. Thêm vào đó, sự giúp đỡ có hiệu
quả cả về vật chất lẫn tinh thần của những
nước XHCN anh em cũng như sự cổ vũ
của phong trào đấu tranh của nhân dân
tiến bộ trên thế giới … mang lại cho chúng
ta không ít những nhân tố thuận lợi cho sự
phát triển của đất nước. Những nhân tố
bên trong và bên ngoài đó tạo ra khả năng
cho phép chúng ta bỏ qua chế độ TBCN,
tiến lên CNXH.
Miền Nam trước ngày giải phóng đã
đi vào quỹ đạo TBCN, đã làm nảy sinh
phát triển giai cấp tư sản, tư tưởng tư sản,
sức mạnh của con đường TBCN ở Miền
16
17
Nam còn được nhân lên do bọn đế quốc
xâm lược.
- Sau năm 1975, cả nước thống nhất
quá độ đi lên CNXH. Tuy nhiên nền KT
nước ta còn chưa thoát khỏi tình trạng
kém phát triển. Sức mạnh của giai cấp tư
sản vẫn còn được tiếp sức bởi sự ủng hộ
của giai cấp tư sản quốc tế và các thế lực
phản động. Nền sản xuất nhỏ có lực
lượng XH đai diện là tầng lớp tiều tư sản
thành thị và nông thôn, trong đó đông đảo
nhất là nông dân. Những lực lượng này
không phải là tự nhiên sẽ đi lên CNXH nếu
không có sự tác động quản lý của Nhà
nước và sự lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng
tiểu tư sản xâm nhập mọi tầng lớp nhân
dân… Khuynh hướng phát triển TBCN tồn
tại trong hầu hết tất cả các nhân tố đó; tạo
thành khả năng khách quan cho sự phát
triển của CNTB.
Từ những đặc điểm trên cho thấy ở
nước ta hiện nay có sự đan xen, thâm
nhập lẫn nhau của nhiều yếu tố và khuynh
hướng khác nhau, đối lập nhau giữa
TBCN với CNXH. Sự liên hệ, tác động qua
lại giữa những khuynh hướng đối lập vừa
nêu tạo thành bản chất của toàn bộ thời
kỳ quá độ ở nước ta.
Nhận thức rõ vấn đề này, Đảng ta đã
có nhiều chủ trương, chính sách phát triển
KT, cải biến XH. Song, do nhận thức
không đầy đủ về hình thức, bước đi nên
chúng ta cũng phạm phải một số sai lầm
nghiêm trọng, cộng với những di sản quá
khứ nặng nề do chiến tranh để lại và tác
động tiêu cực của bối cảnh quốc tế đã
đưa đất nước rơi vào tình trạng khủng
hoảng về KT - XH những năm trước 1986.
Trên cơ sở nhìn thẳng vào những sai
lầm đã mắc phải để sửa chữa, khắc phục,
Đại hội Đảng lần VI đã khởi xướng công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Việc
thực hiện hóa đường lối đổi mới đã mang
nhiều thành tựu to lớn trên nhiều phương
diện. Về lý luận : con đường đi lên CNXH
ngày càng được làm sáng tỏ hơn. Về
Chính trị : định hướng XHCN được vững
vàng, vai trò lãnh đạo của Đảng được
tăng cường, nhà nước XHCN Việt Nam
của dân, do dân và vì dân ngày một củng
cố. Quan hệ quốc tế được mở rộng. Về
KT : chúng ta đã từng bước chuyển từ
nền KT tập trung, quan liêu, bao cấp sang
nền KT thị trường có sự quản lý nhà nước
theo định hướng XHCN; nền KT có sự
phát triển nhanh và tương đối liên tục. Về
văn hóa – tinh thần : CN Mác Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh ngày càng tỏ rõ sức
sống vững bền, nhiều nét mới trong giá trị
văn hóa và chuẩn mực đạo đức từng
bước hình thành.Thể chế chính trị ổn định,
đất nước ta đã ra khỏi tình trạng khủng
hoảng về KT - XH để bước vào giai đoạn
đẩy mạnh CNH-HĐH, đó là thành tựu vĩ
đại của hơn 15 năm đổi mới vừa qua
4. Những phương hướng cơ bản
trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước
ta
Để tiếp tục đưa cách mạng nước ta
tiến lên, chúng ta phải tiếp tục thực hiện
có hiệu quả những phương hướng cơ bản
sau :
Một là, "xây dựng Nhà nước XH chủ
nghĩa, Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức làm nền tảng do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nguyên kỷ
cương XH, chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích Tổ quốc và của
nhân dân".
Hai là, "phát triển lực lượng sản xuất,
công nghiệp hóa đất nước theo hướng
hiện đại gắn liền với phát triển một nền
nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật
chất - kỹ thuật của chủ nghĩa XH, không
ngừng nâng cao năng suất lao động XH
và cải thiện đời sống nhân dân".
Ba là, "phù hợp với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước
quan hệ sản xuất XH chủ nghĩa từ thấp
17
18
đến cao với sự đa dạng về hình thức sở
hữu. Phát triển nền KT hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XH chủ
nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có
sự quản lý của Nhà nước. KT quốc doanh
và KT tập thể ngày càng trở thành nền
tảng của nền KT quốc dân. Thực hiện
nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả KT là
chủ yếu".
Bốn là, "tiến hành cách mạng XH chủ
nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và văn hóa
làm cho thế giới quan Mác - Lênin và tư
tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần XH. Kế thừa
và phát huy những truyền thống văn hóa
tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước,
tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại,
xây dựng một XH dân chủ, văn minh, vì lợi
ích chân chính và phẩm giá con người,
với trình độ tri thức, đạo đức, thể lực và
thẩm mỹ ngày càng cao. Chống tư tưởng,
văn hóa phản tiến bộ, trái với những
truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những
giá trị cao quý của loài người, trái với
phương hướng đi lên chủ nghĩa XH".
Năm là, "thực hiện chính sách đại
đoàn kết dân tộc, củng cố và mở rộng Mặt
trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực
lượng phấn đấu vì sự nghiệp dân giàu,
nước mạnh. Thực hiện chính sách đối
ngoại hoà bình, hợp tác và hữu nghị với
tất cả các nước; trung thành với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân, đoàn kết
với các nước XH chủ nghĩa, với tất cả các
lực lượng đấu tranh vì hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ XH trên thế
giới".
Sáu là, "xây dựng chủ nghĩa XH và
bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược
của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt
lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất
nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao
cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an
ninh chính trị, trật tự an toàn XH, bảo vệ
Tổ quốc và các thành quả cách mạng".
Bảy là, "xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ
chức ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho
Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng XH chủ nghĩa ở nước
ta".
Đó là những định hướng lớn về chính
sách KT, XH, quốc phòng, an ninh, đối
ngoại, những quan điểm về hệ thống
chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng và
cũng là định hướng cho quá trình quá độ
đi lên chủ nghĩa XH ở nước ta. Thực hiện
có hiệu quả những phương hướng đó
luôn luôn là nhiệm vụ cơ bản của Đảng,
Nhà nước và nhân dân ta.
Vấn đề 4 : Đồng chí hãy phân tích bản
chất dân chủ xã hội chủ nghĩa và việc
đổi mới hệ thống chính trị, thể hiện dân
chủ hoá đời sống xã hội ở nước ta hiện
nay.
Bài làm
Vấn đề hệ thống chính trị và nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa là một trong những
nội dung cơ bản của chủ nghĩa xã hội
khoa học. Cuộc cách mạng XHCN là
cuộc cách mạng sâu sắc nhất, toàn diện
nhất trong lịch sử. Cuộc cách mạng đó
chỉ đạt được thành tựu mong đợi khi
cuộc cách mạng đó là kết quả hoạt động
sáng tạo của toàn thể nhân dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng Mác xít, đồng thời
kết quả của cuộc cách mạng đó phải
thuộc về nhân dân. Nghĩa là giai cấp
công nhân và các tầng lớp nhân dân lao
động khác thiết lập được hệ thống
quyền lực chính trị của mình, đó là lập
một nền dân chủ mới, nền dân chủ
XHCN trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, nền dân
chủ đó trở thành điều kiện tiên quyết, là
công cụ chủ yếu của giai cấp công nhân
và các tầng lớp nhân dân lao động khác
trong sự nghiệp cải tạo triệt để XH cũ,
xây dụng XH mới XHCN. Chính vì vậy,
Đảng ta cho rằng “thực hiện dân chủ
XHCN là thực chất của việc đổi mới là
kiện toàn hệ thống chính trị, đây là mục
tiêu vừa là động lực của công cuộc đổi
mới”.
Vậy bản chất của dân chủ xã hội chủ
nghĩa là gì ? Và tại sao việc đổi mới hệ
thống chính trị, thực hiện dân chủ hoá đời
sống xã hội ở nước ta hiện nay vừa là
18
19
mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc
đổi mới. Bằng lý luận chủ nghĩa xã hội
khoa học và thực tiễn nền dân chủ ở nước
ta hiện nay, chúng ta hãy phân tích, lý giải
vấn đề trên.
1. Bản chất dân chủ xã hội chủ nghĩa
a. Khái niệm về dân chủ :
Dân chủ là một phạm trù chính trị, là sản
phẩm của mối quan hệ giai cấp, là một trong
những hình thức tổ chức bộ máy nhà nước
của xã hội, thực thi quyền lực của giai cấp
thống trị.
- Có 3 đặc trưng cơ bản của dân
chủ : một là thừa nhận nguyên tắc thiểu
số phụ tùng đa số, hai là thừa nhận
quyền bình đẳng giữa các công dân, mà
chủ yếu là bình đẳng trước pháp luật,
không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn
giáo, nam hay nữ…nếu vi phạm pháp
luật đều bị xử lý nghiêm minh; ba là thừa
nhận cội nguồn của quyền lực thuộc về
nhân dân.
- Dân chủ là một phạm trù lịch sử
trước hết bởi vì nó là sản phẩm của mối
quan hệ giai cấp, tồn tại trong một giai
đoạn lịch sử nhất định, khi xã hội còn
phân chia giai cấp. Dân chủ ra đời chỉ
khi con người có nhu cầu, chế độ XH
nguyên thuỷ không có dân chủ do tất cả
mọi người đều bình đẳng, đến khi XH
phân chia giai cấp thì dân chủ mới xuất
hiện. Như vậy dân chủ gắn liền với chế
độ chính trị và gắn với giai cấp nhất
định.
- Tuy nhiên không phải Nhà nước nào
trong xã hội có phân chia giai cấp cũng
ban hành chế độ dân chủ. Trong lịch sử
phát triển xã hội loài người, đã trãi qua
các xã hội khác nhau từ thấp đến cao.
Nhưng trong các chế độ đó, chỉ các giai
cấp thống trị như : giai cấp chủ nô, giai
cấp phong kiến, giai cấp tư sản mới có
quyền dân chủ, còn hầu hết các giai cấp
quần chúng nhân dân lao động - những
người sáng tạo và làm nên lịch sử, động
lực thúc đẩy lịch sử phát triển – thì
không được thực hiện dân chủ đúng với
bản chất của nó, nói cách khác dân chủ
chỉ thuộc về giai cấp thống trị.
+ Trong lịch sử xã hội loài người, nền dân
chủ xuất hiện đầu tiên từ thời chiếm hữu nô lệ
mà đại biểu là Nhà nước La Mã và Nhà nước
Hy Lạp. Dân chủ lúc này thuộc về giai cấp chủ
nô, dân tự do và tầng lớp hiệp sĩ, nó là sản
phẩm đấu tranh của phái dân chủ và
phản dân chủ. Trong nền dân chủ đó,
tầng lớp nô lệ không được hưởng quyền
dân chủ, họ không được xem là những
công dân và toàn bộ cuộc sống của họ -
kể cả thể xác - đều do chủ nô quyết
định, nô lệ được xem là loại công cụ đặc
biệt – công cụ biết nói.
+ Trong chế độ phong kiến, tư tưởng
dân chủ và biểu hiện của dân chủ tuy có
xuất hiện, nhưng do là Nhà nước chuyên
chế nên Nhà nước phong kiến không có
ban hành chế độ dân chủ, mà thi hành
chính sách bóc lột bằng thế quyền và
thần quyền. Trong chế độ này, tuy người
lao động trở thành thực thể tự do, nhưng
họ vẫn là nông dân bị cột chặt vào vua
chúa phong kiến, bởi những mảnh đất
của chúng. Vua là con trời, cho nên có
quyền lực tối cao, mọi người lao động
chỉ là thần dân chịu sự sai khiến của
vua. Vì vậy, mặc dù có sự tồn tại một số
nhà nước phong kiến với một số biểu
hiện dân chủ nhưng không thể được
xem là có một chế độ dân chủ phong
kiến.
+ Chống lại chế độ phong kiến hà
khắc chuyên chế, giai cấp tư sản đã
giương cao ngọn cờ “tự do, bình đẳng,
bác ái" , nhờ đó giai cấp tư sản đã thu
hút và tập họp được đông đảo quần
chúng lao động theo mình làm cách
mạng lật đổ chế độ phong kiến thống trị,
xây dựng nền dân chủ tư sản. Điển hình
là cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789).
Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại,
quyền công dân, quyền con người được
ghi vào pháp luật. Tuy nhiên bản chất
dân chủ tư sản vẫn là thiểu số bóc lột đa
số, đời sống công nhân và nhân dân lao
động ngày càng bị bần cùng hóa, tệ nạn
xã hội, thất nghiệp, ô nhiễm môi trường
đang là vấn nạn trong lòng CNTB. Do
vậy nền dân chủ trong chế độ tư bản
không triệt để.
+ Chống lại chế độ tư bản áp bức,
bóc lột nặng nề, giai cấp công nhân một
số nước trên thế giới - dưới sự lãnh đạo
của chính đảng của mình, Đảng Cộng
sản - đã thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình là xoá bỏ chế độ tư bản, xây dựng
một xã hội mới : xã hội XHCN. Sau khi
19
20
giai cấp công nhân giành được chính
quyền bằng cuộc cách mạng vô sản,
thiết lập được quyền lực chính trị của
mình thì cùng với việc xây dựng xã hội
mới, giai cấp công nhân còn xây dựng
chế độ dân chủ mới, với nền dận chủ
tiến bộ hơn : đó là chế độ dân chủ xã hội
chủ nghĩa.
Sự ra đời của dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa là kết quả tất yếu của lịch sử
đấu tranh lâu dài của nhân dân lao động
vì sự nghiệp giải phóng toàn thể nhân
dân lao động, là sự thay thế tất yếu hợp
quy luật đối với dân chủ tư sản, vừa là
một bước phát triển về chất của dân
chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử, nền dân
chủ được thiết lập cho đại đa số nhân
dân lao động đã được hình thành. Nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy
đủ, hoàn thiện, thì nó cũng là quá trình
tự tiêu vong.
- Dân chủ với tư cách là một phạm trù
chính trị, nên bao giờ cũng mang tính
giai cấp trong nội dung cơ bản nhất của
nó. Trong mọi thời kỳ lịch sử, việc thực
hiện dân chủ cho một tập đoàn xã hội có
nghĩa là loại trừ hay hạn chế dân chủ
của những tập đoàn XH khác. Điều đó
đúng cho mọi loại hình dân chủ kể cả
dân chủ của giai cấp vô sản. Đối tượng
của sự chuyên chính không thể được
hưởng các quyền dân chủ. Do vậy, trong
nền dân chủ XHCN, dân chủ và chuyên
chính bổ sung cho nhau, là điều kiện và
tiền đề tồn tại cho nhau.
b. Bản chất của nền dân chủ XHCN
Từ những quan điểm về dân chủ
và kiểu dân chủ XHCN nêu trên, bản
chất của nền dân chủ XHCN còn thể
hiện ở những nội dung mang tính đặc
trưng sau :
- Một là dân chủ XHCN là nền dân
chủ thực sự, của dân, do dân và vì dân,
đó là nền dân chủ rộng rãi, đầy đủ nhất
trong lịch sử. Tuy nhiên nó vẫn mang
tính giai cấp, đó là tính giai cấp công
nhân trên cơ sở liên minh với giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng
lớp lao động khác.
+ Tính chất dân chủ thực sự
được thể hiện ở chỗ là nền dân chủ mà
trong đó mọi quyền lực thuộc về nhân
dân, trước hết là nhân dân lao động, xã
hội được quản lý bởi nhân dân và vì
nhân dân, thông qua Nhà nước xã hội
chủ nghĩa do chính nhân dân lập ra; mọi
người đều được bảo đảm trên thực tế
quyền tự do, bình đẳng và các quyền cơ
bản khác. Nhân dân lao động làm chủ
trên tất cả lĩnh vực đời sống xã hội, làm
chủ về kinh tế chính trị, văn hoá và xã
hội. Quyền làm chủ của nhân dân được
biểu hiện và bảo đảm bằng pháp luật,
nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình trên cơ sở luật pháp. dân chủ xã
hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn
thiện cùng với quá trình phát triển kinh
tế - xã hội.
+ Dân chủ xã hội chủ nghĩa
mang bản chất của giai cấp công nhân,
thực thi đường lối dân chủ của giai cấp
công nhân, nhưng đồng thời lại mang
tính nhân dân sâu sắc và rộng lớn. Tính
giai cấp và tính nhân dân trong dân chủ
xã hội chủ nghĩa là thống nhất vì xuất
phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân là xoá bóc lột, giải phóng con
người; lợi ích cơ bản và lâu dài của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động là
thống nhất với nhau, do quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ
công hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu
Hai là
: cơ sở kinh tế - xã hội của dân
chủ XHCN là lợi ích chân chính của
người lao động không đối lập mà ngược
lai phù hợp, gắn bó chặt chẽ với lợi ích
toàn xã hội. Để dân chủ XHCN ra đời và
phát triển đầy đủ, ngoài việc giai cấp
công nhân giành được chính quyền và
thiết lập quyền lực chính trị của mình thì
cần có sự hình thành và phát triển của
nền kinh tế mới - kinh tế XHCN. Mặc
khác, dân chủ XHCN có đủ cơ sở và
điều kiện xác định vai trò làm chủ của
người lao động trong nền SX XH. Điều
đó có ý nghĩa rất quan trọng vì thực hiện
dân chủ trong kinh tế là điều kiện cơ bản
20
21
chắc chắn cho việc thực hiện dân chủ
trên các lĩnh vực khác.
Ba là
dân chủ XHCN là dân chủ có
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, có kỷ
luật, kỷ cương trong khuôn khổ pháp
luật XHCN. Sự lãnh đạo của Đảng vừa
thể hiện bản chất giai cấp công nhân
của dân chủ, vừa đảm bảo quyền lực và
lợi ích chính đáng của nhân dân. Dân
chủ XHCN cũng đi liền với chuyên chính
: dân chủ đối với nhân dân lao động và
chuyên chính với mọi hành vi vi phạm lợi
ích của nhân dân, của Tổ quốc và của
chế độ. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
là biểu hiện một cách rõ ràng nhất, sâu
sắc nhất bản chất giai cấp của dân chủ
xã hội chủ nghĩa
Bốn là
dân chủ XHCN thực sự phản
ánh và bảo đảm mối quan hệ bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ giữa mọi công
dân trước pháp luật, không có sự phân
biệt đối xử. Sự bảo đảm ấy không chỉ
trên văn bản luật pháp mà còn được
thực thi đầy đủ trong cuộc sống. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện cho
công dân tham gia ngày càng đông đảo
vào công việc quản lý Nhà nước.
Trong thời đại ngày nay, quan điểm
tư sản về dân chủ là sự cường điệu chủ
nghĩa đa nguyên về chính trị, xem sự tồn
tại của nhiều đảng phái đối lập, tranh
giành quyền lực lãnh đạo xã hội là tiêu
chí cơ bản nhất của một chế độ thực sự
dân chủ, là đỉnh cao của dân chủ. Thực
tế cho thấy rằng không phải bao giờ và
mọi nước tư bản đều có đa nguyên về
chính trị cũng như không bao giờ có giai
cấp tư sản nắm chính quyền lại thừa
nhận vai trò hợp pháp của chính đảng
Mác Lênin. Hơn nữa sự đa nguyên về
chính trị không phải là sự ban phát hay
là thiện chí của giai cấp tư sản cầm
quyền mà là của giai cấp công nhân, đó
là thành quả của cuộc đấu tranh của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa không thừa
nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối
lập. Đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập
không phải là tiêu chí cũng không phải là
đỉnh cao của dân chủ, thực chất nó chỉ
là biểu hiện sự so sánh tương quan lực
lượng giữa các giai cấp, còn dân chủ
nhiều hay ít, tiến bộ hay không tiến bộ
phụ thuộc vào lợi ích và quyền lực có
thuộc về nhân dân hay không ?
Do vậy, muốn thực hiện đầy đủ yêu
cầu của dân chủ , tất yếu phải loại bỏ
giai cấp tư sản ra khỏi vị trí cầm quyền.
Vì vậy, việc giai cấp công nhân tiến hành
cuộc cách mạng XH xóa bỏ chễ độ
TBCN cùng với nền dân chủ tư sản, để
xây dựng XH mới là một tất yếu lịch sử.
2. Liên hệ nền dân chủ Việt Nam. Việc đổi
mới hệ thống chính trị, thể hiện dân chủ
hoá đời sống xã hội ở nước ta hiện nay
Từ phân tích bản chất của dân chủ
XHCN nói trên, đối với nước ta cần phải
thực hiện nền dân chủ thiết thực. Đại
hội VI của Đảng có ghi: Trong toàn bộ
hoạt động của mình Đảng phải quán triệt
tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân
lao động. Trong Hiến pháp nước ta cũng
quy định rõ Nước CHXNCN Việt Nam là
nhà nước của dân, do dân và vì dân. Tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân mà nền tảng là liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức.
Đặc điểm nước ta bước vào thời kỳ
quá độ lên CNXH, không qua giai đoạn
phát triển TBCN, với nền SX còn yếu
kém và lạc hậu, mang tính tự cung, tự
cấp, kinh tế hàng hóa chưa phát triển
cao. Mặt khác, do chiến tranh tàn phá
nặng nề, do thực hiện cơ chế quan liêu
bao cấp trong một thời gian dài cho nên
làm ảnh hưởng đến việc phát triển KT-
XH và nền dân chủ XHCN
Từ những đặc điểm trên cùng với
những nguyên nhân khách quan và chủ
quan có thể thấy thực trạng nền dân chủ
nước ta , là chúng ta đang xây dựng nền
dân chủ XHCN, nhưng hiện nay còn ở
trình độ thấp cả về nhu cầu và nếp sống
dận chủ, về tính phong phú, tính nguyên
21
22
tắc của dân chủ và năng lực thực hiện.
Cơ chế vận hành thực hiện dân chủ ở
nước ta chưa đồng bộ và hoàn thiện cả
về tổ chức, bộ máy và năng lực vận
hành. Song kể từ khi thực hiện đổi mới
(năm 1986) chúng ta đã đạt được một số
thành tựu bước đầu đáng kể trong việc
thực hiện nền dân chủ, báo cáo chính trị
Đại hội Đảng lần VII đã đánh giá : một
trong những thành tựu của công cuộc
đổi mới là bước đầu thực hiện dân chủ
XHCN trên lĩnh vực của đời sống XH.
Tuy nhiên, nền dân chủ XHCN của
chúng ta cũng còn hạn chế khuyết điểm
trên từng lĩnh vực như : quyền làm chủ
của nhân dân chưa được tôn trọng và
phát huy đầy đủ, trong xã hội còn không
ít hiện tượng mất dân chủ, dân chủ hình
thức mà có nơi xảy ra rất nghiêm trọng,
bệnh quan liêu, tư tưởng phong kiến -
gia trưởng vẫn còn nặng nề… Đồng thời
cũng xuất hiện khuynh hướng dân chủ
cực đoan, dân chủ không đi liền với thực
hiện kỷ luật và pháp luật. Cơ chế và
pháp luật bảo đảm thực hiện dân chủ
chưa được cụ thể hóa đầy đủ. Chính vì
vậy, hạn chế trên đã gây nên những tiêu
cực trong mọi mặt đời sống XH, gây nên
sự trì trệ , mất sức chiến đấu và làm
giảm uy tín của Đảng, làm thui chột tính
năng động sáng tạo và vai trò làm chủ
của quần chúng nhân dân lao động…
Tình trạng ấy đòi hỏi phải có sự đổi
mới hệ thống chính trị, dân chủ hoá đời
sống xã hội, xây dựng nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa là một tất yếu trong quá
trình đổi mới kinh tế - xã hội ở nước ta
hiện nay.
Như chúng ta đã biết, nền dân chủ
nào cũng được thực hiện thông qua một
thiết chế tổ chức và cơ chế vận hành
nhất định : đó là hệ thống chính trị. Hệ
thống chính trị là một phạm trù dùng để
chỉ một chính thể các đảng phái, các
đoàn thể các tổ chức chính trị - xã hội
nhằm và phát triển xã hội đó. Nó cũng
là một cơ chế bảo đảm quyền làm chủ
của nhân dân trên các lĩnh vực cơ bản
của đời sống xã hội.
Hệ thống chính trị trong chủ nghĩa xã
hội là tổng hợp các tổ chức: Nhà nước
xã hội chủ nghĩa và các tổ chức chính trị
- xã hội của nhân dân mà thông qua đó
dưới sự lãnh đạo của chính đảng Mácxít
- Lêninnít nhân dân thực hiện được
quyền lực của mình trong việc quản lý
sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hệ
thống chính trị của xã hội xã hội chủ
nghĩa gồm ba bộ phận cấu thành: Đảng
Cộng sản, Nhà nước xã hội chủ nghĩa,
các tổ chức chính trị - xã hội của nhân
dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Hệ thống chính trị trong CNXH hoạt
động theo nguyên tắc của nền dân chủ
XHCN, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
công sản, tập trung dân chủ, thiểu số
phục tùng đa số, dân chủ phải đi đội với
kỷ cương pháp luật, tuân thủ nghiêm
ngặt các chuẩn mực pháp quyền XHCN.
Chỉ có trên nguyên tắc, tính tích cực
chính trị xã hội của công nhân mới được
nâng cao, các quyền dân chủ, công
bằng bình đẳng mới được đảm bảo
Đề cập mục tiêu đổi mới hệ thống
chính trị ở nước ta, cương lĩnh chính trị
xây dựng đất nước (1991) của Đảng chỉ
rõ: "thực chất của đổi mới hệ thống
chính trị là xây dựng và từng bước hoàn
thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân." Nội
dung đổi mới hệ thống chính trị và dân
chủ hoá ở nước ta hiện nay thể hiện ở
những vấn đề căn bản sau:
Thứ nhất là : Thực hiện dân chủ hoá
trong xã hội, dân chủ hóa ngay trong hệ
thống chính trị để tạo ra mối quan hệ
biện chứng giữa dân chủ hoá với việc
xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị.
Đảng là hạt nhân, lãnh đạo của hệ thống
chính trị nhưng điều đó không có nghĩa
là Đảng đứng trên, đứng ngoài pháp luật
cũng như Đảng cương quyết không bao
biện, làm thay công việc của các tổ chức
22
23
khác trong hệ thống chính trị, nhà nước.
Do đó, Đảng phải tự đổi mới chỉnh đốn
để nâng cao năng lực lãnh đạo, phải
được xây dựng vững mạnh về cả ba
mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Trong những năm tới, toàn Đảng tập
trung làm tốt những công tác quan trọng
sau đây : Một là tăng cường công tác
giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện
đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá
nhân. Hai là tiếp tục đổi mới công tác
cán bộ. Ba là xây dựng củng cố các tổ
chức cơ sở Đảng. Bốn là kiện toàn tổ
chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng.
- Thứ hai là : xây dựng nhà nước
pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp
luật, nhằm từng bước tạo ra xã hội công
dân XHCN và người công dân XHCN,
coi đó là nhiệm vụ quan trọng có tính
cấp bách hiện nay. Việc quản lý XH bằng
pháp luật đòi hỏi phải xây dựng và hoàn
chỉnh hệ thống pháp luật, làm rõ và tách
bạch giữa quản lý Nhà nước và quản lý
sản xuất kinh doanh. Nhà nước được
nhân dân giao cho quyền lực và trách
nhiệm quản lý mọi mặt đời sống xã hội,
nên mọi chủ trương chính sách, kế
hoạch của Nhà nước là thể hiện ý chí,
nguyện vọng và lợi ích của nhân dân.
Nhà nước vừa phải phát huy vai trò chủ
động sáng tạo của mình vừa phải bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân
dân thực hiện quyền lực của mình trước
hết thông quan các cơ quan nhà nước
do nhân dân trực tiếp bầu ra. Trong
cương lĩnh của Đảng có nêu : Nhà nước
có mối quan hệ thường xuyên và chặt
chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng
nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân. Hiện nay, nạn tham
nhũng, quan liêu, hối lộ đang là những
nhức nhối của XH. Vì vậy, nhà nước
phải có trách nhiệm, có biện pháp ngăn
chặn tệ nạn tham nhũng, quan liêu, xâm
phạm đến quyền làm chủ của nhân dân,
làm cho nhà nước thực sự là của dân,
do dân và vì dân
Để đẩy mạnh cải cách tổ chức và
hoạt động của bộ máy Nhà nước cần
thực hiện những việc sau đây: Một là
phải gắn liền với xây dựng chỉnh đốn
Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước. Nâng cao
chất lượng hoạt động của các tổ chức
Đảng và đảng viên trong các cơ quan
Nhà nước; Hai là cải cách thể chế và
phương thức hoạt động của Nhà nước,
của Quốc hội, của Chính phủ, của các
cơ quan Tư pháp; Ba là phát huy dân
chủ, giử vững kỷ luật, kỷ cương, tăng
cường pháp chế; Bốn là xây dựng đội
ngũ cán bộ, công chức trong sạch có
năng lực; Năm là tiếp tục đẩy mạnh cuộc
đấu tranh chống tham nhũng. Bên cạnh
đó cần phải chú ý cải thiện tiền lương của
các cán bộ công chức
- Thứ ba là : về phía các tổ chức xã
hội chính trị của quần chúng nhân dân,
phải được tổ chức trên cơ sở pháp luật
và phù hợp với trình độ của các thành
viên, thực hiện dân chủ hóa trong hoạt
động, lấy việc bảo vệ lợi ích chính đáng
của các thành viên làm nhiệm vụ
Thực hiện dân chủ hóa trên các lĩnh
vực đời sống XH, thực chất là vấn đề
dân chủ hóa đời sống XH, là quá trình
đưa các giá trị dân chủ vào cuộc sống,
làm cho nó trở thành hiện thực và phổ
biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, là làm cho nhân dân thực hiện được
trên thực tế quyền làm chủ và phát huy
được năng lực làm chủ của mình trên
mọi bình diện của đời sống XH, là động
lực quan trọng trong sự nghiệp đổi mới,
là biện pháp hữu hiệu để khắc phục
bệnh quan liêu, tiêu cực … đấu tranh
chống mọi hành vi vi phạm đến quyền và
lợi ích của nhân dân, là thước đo, là tính
ưu việt thực hiện nền dân chủ của một
xã hội. Dân chủ hóa đời sống xã hội ở
nước ta có nội dung toàn diện, trong đó
dân chủ hóa nền kinh tế quan trọng và
mang tính quyết định. Dân chủ hóa
trong lĩnh vực kinh tế là thực hiện
quyền tự do, bình đẳng, giải phóng sức
23
24
SX, là trả lại cho nền kinh tế tính năng
động vốn có của nó,, phát triển nền kinh
tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN, khẳng định quyền sản xuất kinh
doanh của các cá nhân và tập thể phù
hợp với các quyết định của pháp luật và
lợi ích chung của xã hội. Dân chủ
trong lĩnh vực chính trị là thực hiện
quyền tự do dân chủ trong sinh hoạt
chính trị, đảm bảo cho người dân được
làm chủ XH về chính trị. Trước hết là
dân chủ trong bầu cử, cần khắc phục
triệt để những dân chủ hình thức trong
bầu cử, tăng cường dân chủ trực tiếp
của nhân dân trong các tổ chức xã hội,
đoàn thể … bảo đảm cho người dân
thực sự được tham gia vào công việc
quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham
gia vào các chính sách, chiến lược phát
triển kinh tế chính trị , văn hóa …của đất
nước
Dân chủ hoá trong lĩnh vực kinh tế và
chính trị vừa đặt ra đòi hỏi, vừa là điều
kiện của dân chủ hóa trong lĩnh vực tinh
thần cho tương ứng. Nó bao hàm các
hoạt động giáo dục, tuyên truyền,
nghiên cứu khoa học, các hoạt động văn
hoá nghệ thuật, các lĩnh vực thông tin,
báo chí, xuất bản. Tự do tư tưởng và giải
phóng tinh thần cũng là vấn đề có tầm
quan trọng hàng đầu đối với quá trình
dân chủ hoá trong lĩnh vực tinh thần.
Dân chủ hoá trong lĩnh vực tinh thần là
lĩnh vực hết sức phức tạp, đadạng và
phong phú liên quan rất nhiều mặt: tư
duy, đạo đức, nhân cách, lối sống, mối
quan hệ giửa các cá nhân và xã hội, về
quan niệm thái độ đối với các giá trị văn
hoá truyền thống của dân tộc và hiện đại
của nhân loại trong thời đại ngày nay
Qua phân tích bản chất của dân chủ
XHCN và những hạn chế trong việc thực
hiện dân chủ ở nước ta hiện nay cho
thấy đổi mới hệ thống chính trị của nước
ta là một yêu cầu tất yếu và hết sức
quan trọng, nó vừa là mục tiêu của cuộc
cách mạng nhưng đồng thời với những
kết quả đạt được trong quá trình thực
hiện sự đổi mới đó cũng là động lực để
thúc đẩy cuộc cách mạng xây dựng
XHCN ở nước ta. Quá trình đó đòi hỏi
mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân phải
có ý thức về dân chủ xã hội chủ nghĩa,
phải thực hiện tốt nguyên tắc tập trung
dân chủ nhằm làm cho nhà nước thật sự
là Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
phải tích cực thanm gia đóng góp chống
những biểu hiện tham nhũng, quan liêu,
hách dịch đồng thời luôn luôn nêu cao
cảnh giác chống mọi âm mưu diễn biến
hòa bình của các thế lực thù địch nhằm
xoá bỏ chế độ XHCN, nền dân chủ
XHCN, thực hiện thắng lợi CNH-HĐH và
tiến tới xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
Vấn đề 5: Đồng chí hãy phân tích vai
trò, vị trí của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân, tầng lớp trí thức và vai trò của
khối liên minh Công – Nông – Trí. Liên hệ
quá trình thực hiện liên minh công-nông-trí
ở VN.
Bài làm
CNXH khoa học là sự phản ánh bằng
lý luận phong trào đấu tranh của giai cấp
công nhân và phát huy vai trò lãnh đạo
của Đảng tiên phong của giai cấp công
nhân. Việc đề ra chiến lược, sách lược
cách mạng; việc thiết lập, phát huy vai trò
hiệu lực Nhà nước; việc xây dựng, củng
cố khối liên minh công nhân, nông dân và
trí thức; việc xây dựng và phát huy mối
quan hệ các dân tộc trên phạm vi quốc gia
và quốc tế … là những vấn đề được
CNXH KH nghiên cứu thì lý luận về liên
minh giữa giai cấp công nhân, nông dân
24
25
và tầng lớp trí thức là một trong những nội
dung cơ bản nhất của CNCS khoa học.
Nhận thức đúng và thực hiện tốt liên minh
này, đặc biệt là trong thời kỳ quá độ lên
CNXH, sẽ góp phần to lớn vào việc ổn
định KT-XH, từng bước xây dựng đất
nước ta đi lên CNXH.
Đối với một Nhà nước XHCN, một
nhà nước của dân, do dân và vì dân, tất
cả quyền lực của Nhà nước đều thuộc về
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tiên
phong là Đảng Cộng sản, đại diện cho
quyền lợi của giai cấp công nhân, giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức. Nó có vai
trò, vị trí quan trọng đối với khối liên minh
trong cuộc cách mạng XHCN.
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định:
Giai cấp công nhân nếu tiến hành đấu
tranh cách mạng một cách đơn độc chống
lại giai cấp tư sản thì sẽ bị thất bại. Nhưng
nếu giai cấp công nhân liên minh được với
đại đa số nhân dân lao động mà chủ yếu
là gc nông dân và giữ vững vai trò lãnh
đạo cách mạng thì cách mạng nhất định
thắng lợi. Sở dĩ như vậy là vì: giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp
trí thức có những vị trí và vai trò quan
trọng trong xã hội.
Về giai cấp nông dân là giai cấp của
những người lao động SX vật chất trong
lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm cả lâm
nghiệp và ngư nghiệp. Lênin đã phân tích
một cách khoa học về giai cấp nông dân,
đây là một lực lượng đông đảo nhất, có
tinh thần cách mạng quật khởi, đấu tranh
bất khuất và có nhiều đóng góp vào sự
nghiệp cách mạng của Đảng và của dân
tộc, nhưng nông dân vốn có PTSX phân
tán, kỹ thuật lạc hậu, năng suất lao động
thấp kém, KT nông dân nông thôn chủ yếu
là tự cung tự cấp. Nông dân có “bản chất
hai mặt”: một mặt họ là những người lao
động, đây là mặt cơ bản nhất; mặt khác
họ là những người tư hữu nhỏ, đây là mặt
hạn chế và phải trải qua một quá trình
CNH, HĐH và cải biến cách mạng trên
nhiều lĩnh vực… mới có thể khắc phục
được, nông dân không dựa trên tư hữu
nhỏ để bóc lột các giai cấp và tầng lớp
XH. Vì vậy khi liên minh với gccn, họ có
mặt tích cực là dễ gắn bó với gccn, nhưng
trong đấu tranh họ muốn bảo vệ mảnh đất
nhỏ bé của mình, không muốn xa rời, do
đó họ trở nên trì trệ, bảo thủ, không có
tinh thần cách mạng triệt để.
Mặt khác, nông dân không có hệ tư
tưởng độc lập. Tư tưởng của họ phụ
thuộc vào hệ tư tưởng của giai cấp thống
trị XH đương thời. Trong cách mạng
XHCN, khi chưa được giác ngộ thì lập
trường tư tưởng của nông dân không kiên
định, dễ dao động. Phải trải qua quá trình
giác ngộ và đấu tranh cách mạng lâu dài,
dưới sự lãnh đạo đúng đắn của ĐCS mới
từng bước khắc phục được những mặt
hạn chế của họ.
Nông dân vốn có cơ cấu không thuần
nhất, với nhiều thành phần như: cố nông,
bần nông, trung nông, phú nông, họ không
có sự cố kết cả về mặt KT lẫn tư tưởng và
tổ chức. Giai cấp nông dân là LLSX và lực
lượng chính trị - XH đông đảo nhất trong
những nước nông nghiệp. Nông dân gắn
bó với cội nguồn dân tộc, có ý thức dân
tộc sâu sắc, có truyền thống yêu nước, có
khả năng cách mạng to lớn. Tuy nhiên, do
đặc điểm những hạn chế của giai cấp
mình mà giai cấp nông dân không thể tự
giải phóng mình và giải phóng XH một
cách triệt để.
Tầng lớp trí thức: là một tầng lớp XH
đặc biệt, gồm những người lao động trí óc
phức tạp và sáng tạo, là những người có
trình độ học vấn cao, am hiểu sâu rộng
lĩnh vực lao động trí tuệ của mình.
Phương thức lao động của trí thức là
lao động trí tuệ cá nhân. Sản phẩm lao
động của họ là những tri thức khoa học
sáng tạo, những giá trị về tinh thần.
Những sản phẩm trí tuệ ấy thường có tác
dụng đặt cơ sở lý thuật, định hướng cho
nhận thức và hoạt động thực tiễn trên
nhiều lĩnh vực của sự phát triển XH. Các
sản phẩm trí tuệ của trí thức có giá trị
sáng tạo khoa học đều có tác động trực
25