Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.65 KB, 14 trang )

Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
A.ĐẶT VẤN ĐỀ:
Theo thống kê của Viện ung thư Quốc gia Mỹ, ung thư tế bào máu đứng
hàng thứ năm trong số các bệnh ung thư gặp tại Mỹ. Theo thống kê của Viện
Huyết học và truyền máu Việt Nam nó đứng hàng đầu trong số các bệnh máu
gặp tại Viện. Và việc điều trị ung thư máu rất phức tạp. Nó khác nhau tùy
theo từng loại và còn tùy thuộc vào từng bệnh nhân. Việc điều trị không chỉ
phụ thuộc vào một số đặc tính nhất định của tế bào bệnh lý, phạm vi của
bệnh, và việc bệnh đã được điều trị trước đây hay chưa. Ngoài còn phụ thuộc
vào độ tuổi của bệnh nhân, triệu chứng và tình trạng sức khỏe chung. Để có
thể hiểu thêm về bệnh Ung thư máu tôi tiến hành tiểu luận:” Ung thư máu và
các liệu pháp điều trị”
B.NỘI DUNG:
1
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
I. Bệnh ung thư máu
1. Thế nào là ung thư máu?
Máu bình thường: bao gồm
>Tế bào máu chiếm khoảng 40% thể tích máu. Tế bào máu chia làm ba loại:
-Tế bào hồng cầu tạo nên màu đỏ của máu. Một giọt máu chứa 5 triệu hồng cầu.
hồng cầu chứa hemoglobin có chức năng vận chuyển oxy từ phổi đến các phần của
cơ thể và lấy khí carbonic từ mô quay về phổi.
-Tế bào Bạch cầu giúp đỡ cơ thể chiến đấu chống bệnh truyền nhiễm và những
bệnh khác. Bao gồm bạch cầu trung tính, bạch cầu base, bạch cầu ưa acid, các tế
bào lympho.
-Tế bào tiểu cầu giúp đỡ tạo cục máu đông kiểm soát sự chảy máu.
Những tế bào máu được hình thành trong tủy xương, phần trung tâm mềm
xốp của xương. Những tế bào máu mới hình thành gọi là tế bào non. Vài tế bào
2


Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
non ở lại xương để trưởng thành. Một số tới những phần khác của cơ thể để trưởng
thành.
Bình thường những tế bào máu được sản sinh theo trật tự, được kiểm soát,
quá trình này giúp chúng ta khỏe mạnh.
>Huyết tương là phần dịch lỏng của máu chiếm 60% khối lượng máu.Huyết tương
chủ yếu là nước, ngoài ra còn chứa nhiều loại protein và các chất hóa học khác như
hormon, kháng thể, enzym, gluco, chất béo, muối
Ung thư máu (Leukemia) là ung thư của cơ quan tạo ra các huyết cầu như tủy
xương và hệ thống bạch huyết. Trong ung thư máu các bạch cầu được sản xuất một
cách nhanh chóng rối loạn tạo ra các bạch cầu bất thường không hoạt động được và
các bạch cầu ung thư này dần dần xâm lấn đến các hồng cầu và tiểu cầu ngăn chặn
sản xuất và phá hủy các tế bào này.
2. Phân loại:
Bệnh ung thư máu được chia thành các nhóm khác nhau theo sự tiến triển của
bệnh:
-Bệnh bạch cầu mạn tính: Là thể bệnh có tiến triển chậm, có thể kéo dài nhiều
năm, nhất là nếu bệnh nhân được điều trị đúng cách. Trong giai đoạn sớm của
bệnh, tế bào bạch cầu ác tính còn có khả năng thực hiện một số chức năng bình
thường của bạch cầu. Lúc đầu bệnh nhân có thể không có triệu chứng gì. Bệnh
thường được phát hiện qua khám định kỳ trước khi các triệu chứng của bệnh xuất
hiện. Dần dần, các tế bào bạch cầu ác tính trở nên tồi tệ hơn. Khi số lượng các tế
bào ác tính tăng sinh trong máu, các triệu chứng xuất hiện như: nổi hạch hay nhiễm
khuẩn. Lúc đầu các triệu chứng còn ở thể nhẹ sau đó trở nên nặng nề hơn.
-Bệnh bạch cầu cấp: Là thể bệnh ác tính hơn, tiến triển nhanh. Ngay khi bệnh bắt
đầu, tế bào bệnh bạch cầu không thể thực hiện được vai trò của tế bào bình thường.
Số lượng tế bào bạch cầu ác tính phát triển rất nhanh.
Còn có cách phân loại bệnh bạch cầu dựa theo dòng bạch cầu bị ảnh hưởng: các
tế bào dòng tủy hoặc dòng lympho và tiến triển của mỗi dòng đó:

3
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
-Bệnh bạch cầu lymphô mạn tính (CLL): Các tế bào lymphô bị ảnh hưởng và
thường tiến triển chậm. Tuổi thường mắc bệnh là trên 55 tuổi. Hầu như không gặp
ở trẻ em.
-Bệnh bạch cầu dòng tủy mạn tính (CML): Các tế bào dòng tủy bị ảnh hưởng và
giai đoạn đầu thường tiến triển chậm. Phần lớn gặp ở người lớn.
-Bệnh bạch cầu lymphô cấp tính (ALL): Là thể phát triển ác tính của các tế bào
dòng lymphô và tiến triển rất nhanh. Đây là thể bệnh bạch cầu thường gặp nhất ở
trẻ em, người lớn đôi khi cũng có thể bị mắc.
-Bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính (AML): Các tế bào dòng tủy bị ảnh hưởng và
tiến triển nhanh. Có thể xảy ra ở cả người lớn và trẻ em.
-Bệnh bạch cầu tế bào tóc: là một thể hiếm gặp của bệnh bạch cầu mạn tính.
3. Các yếu tố nguy cơ gây bệnh
Hiện nay, người ta còn chưa xác định được chính xác các nguyên nhân gây
bệnh ung thư nói chung, cũng như nguyên nhân gây ung thư máu nói riêng. Các
nghiên cứu chỉ ra một số yếu tố nguy cơ được coi là nguyên nhân gây bệnh hoặc
tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh, bao gồm:
-Tia xạ: Những người tiếp xúc với tia phóng xạ liều cao sẽ có nguy cơ cao hơn bị
bệnh bạch cầu tủy cấp tính, bạch cầu tủy mạn tính, bạch cầu lympho cấp tính. Vụ
nổ bom nguyên tử ở Hiroshima Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ 2 đã tạo
nên hàm lượng phóng xạ rất cao. Nhiều người sống sót sau vụ nổ bom hạt nhân bị
bệnh bạch cầu. Người có tiền sử được điều trị bằng tia xạ trị khi điều trị ung thư
hoặc các bệnh khác từ trước cũng có nguy cơ cao hơn bị bệnh bạch cầu. Tuy nhiên,
khi chụp tia X trong chẩn đoán răng hàm mặt hoặc các biện pháp chụp X quang
chẩn đoán khác (như CT Scan) người ta tiếp xúc tia X với hàm lượng ít hơn nhiều.
Hiện tại vẫn chưa xác định mối liên quan giữa sự tiếp xúc với nồng độ tia thấp với
bệnh bạch cầu cấp ở trẻ em và người lớn. Các nhà nghiên cứu đang nghiên cứu mối
liên quan nguy cơ mắc bệnh bạch cầu và tiền sử chụp Xquang nhiều lần hoặc chụp

cắt lớp khi còn nhỏ.
-Hút thuốc lá: Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng hút thuốc là làm tăng nguy cơ mắc
bệnh bạch cầu tủy cấp tính.
4
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
-Benzen: Chất này được sử dụng nhiều trong công nghiệp hóa chất, có nhiều trong
khói thuốc lá và khí đốt. Việc tiếp xúc nhiều với Benzen có thể làm tăng nguy cơ
bị bệnh bạch cầu tủy mạn tính, bệnh bạch cầu lympho cấp tính.
-Tiền sử điều trị hóa chất: Một số bệnh nhân ung thư được điều trị hóa chất (như
các chất alkyl hóa, các chất ức chế topoisomerase) về sau có thể bị mắc bệnh bạch
cầu tủy cấp tính hoặc bệnh bạch cầu lympho cấp tính.
-Hội chứng Down và một số bệnh di truyền khác có thể làm tăng nguy cơ mắc
bệnh ung thư máu cấp tính.
-Hội chứng rối loạn sinh tủy và một số bệnh bất thường về máu khác cũng làm
tăng nguy cơ bị bạch cầu cấp tính.
-Tiền sử gia đình: Rất hiếm khi có trên một người trong gia đình bị ung thư máu.
Nếu có thì chủ yếu là thể bệnh bạch cầu lympho mạn tính.
4. Triệu chứng của ung thư máu
Giống như các tế bào máu khác, tế bào bạch cầu ác tính di chuyển trong máu
gây nên các triệu chứng. Các triệu chứng này phụ thuộc số lượng tế bào bạch cầu
ác tính, vị trí các tế bào này gây ảnh hưởng.
Ở thể bạch cầu mạn tính, bệnh thường được phát hiện qua khám định kỳ và làm
xét nghiệm máu vì bệnh nhân không có triệu chứng.
Ngược lại, các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu cấp tính thường đến bệnh viện khám
với các triệu chứng rầm rộ hơn. Nếu não bị tổn thương, thường có các triệu chứng
như đau đầu, nôn, lú lẫn, mất trương lực cơ, động kinh. Bệnh bạch cầu cũng có thể
ảnh hưởng các vị trí khác trong cơ thể như: hệ tiêu hóa, thận, phổi, tim, tinh hoàn.
Khi tế bào dạng bạch cầu ung thư phát triển nhanh trong tủy sẽ gây đau nhức
xương. Đồng thời chúng chiếm chỗ và làm giảm sự phát triển những tế bào máu

bình thường khác. Lúc đó bệnh nhân có thể có những chứng sau:
-Sốt, đau đầu, đau khớp do sự chèn ép trong tủy.
-Mệt mỏi, yếu sức, da đổi thành màu trắng nhợt do thiếu hồng cầu.
-Hay bị nhiễm trùng do bạch cầu không thực hiện được chức năng chống nhiễm
khuẩn.
-Chảy máu chân/nướu răng, dễ bầm tím do giảm khả năng làm đông máu
-Biếng ăn, sút cân.
-Ra mồ hôi về ban đêm ở bệnh nhân là nữ.
5
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
-Sưng nề bụng hoặc cảm giác khó chịu ở bụng.
Phần lớn các triệu chứng này không phải là đặc trưng cho ung thư nên dễ bị người
bệnh bỏ qua, vì vậy, khi có một trong bất kỳ dấu hiệu nào nêu trên, người bệnh cần
đến bác sỹ ngay để được khám, chẩn đoán, tư vấn và điều trị.
5. Các phương pháp chẩn đoán bệnh bạch cầu
Các bác sỹ sẽ thực hiện thăm khám cho bệnh nhân kỹ càng. Khi nghi ngờ bệnh
bạch cầu, các bác sỹ sẽ yêu cầu làm một số xét nghiệm.
-Khám lâm sàng: các bác sỹ sẽ phát hiện được hạch sưng to, gan-lách to ra.
-Xét nghiệm máu: cần thiết kiểm tra số lượng các tế bào máu và thành phần các
loại bạch cầu (công thức máu). Khi mắc bệnh bạch cầu, số lượng bạch cầu tăng
cao, giảm số lượng tiểu cầu, lượng Hemoglobin giảm thấp do thiếu máu.
+ Sinh thiết chẩn đoán: Phương pháp lấy một mảnh mô trong tủy xương để soi
dưới kính hiển vi tìm tế bào máu ác tính. Sinh thiết là biện pháp duy nhất giúp chẩn
đoán xác định tế bào ác tính trong tủy xương. Có hai cách lấy tủy xương:
+Chọc hút tủy: Sử dụng kim nhỏ và có lỗ để chọc vào xương, hút lấy một ít tủy
xương.
+Sinh thiết tủy: Sử dụng kim lớn hơn để lấy một mảnh tủy xương.
-Các xét nghiệm khác: Tùy thuộc triệu chứng và thể bệnh mà bác sỹ cho làm một
số xét nghiệm như:

+ Xét nghiệm gen: Xác định nhiễm sắc thể bất thường Philadelphia trong bệnh
bạch cầu dòng tủy mạn tính.
+ Xét nghiệm sinh hóa: xác định nhóm máu, thời gian đông máu, công thức máu,
nước tiểu.
+Xét nghiệm dịch tủy: Xác định sự xuất hiện tế bào bạch cầu bất thường trong
máu.
+Chụp X quang: Phát hiện hạch to trong ổ bụng hoặc các vị trí khác.
II. Liệu pháp điều trị
1. Phần chung
Có nhiều biện pháp điều trị khác nhau đối với bệnh bạch cầu như: theo dõi-chờ
đợi, hóa trị liệu, điều trị đích, điều trị sinh học, xạ trị, ghép tế bào gốc hoặc phẫu
thuật cắt bỏ lách to. Có thể phối hợp nhiều biện pháp điều trị.
6
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
Sự lựa chọn biện pháp điều trị tùy thuộc chủ yếu vào: thể bệnh, tuổi của người
bệnh, sự xuất hiện tế bào bạch cầu trong tủy.
Các bệnh nhân bị bạch cầu cấp tính cần được điều trị ngay với mục đích giảm
các triệu chứng của bệnh để đạt hiệu quả lui bệnh. Sau khi đạt lui bệnh, một số
biện pháp được tiến hành nhằm ngăn chặn sự tái phát của bệnh (điều trị củng cố,
duy trì).
Với bệnh bạch cầu mạn tính không có triệu chứng, điều trị có thể được trì hoãn
với sự theo dõi của các bác sỹ và tiến hành điều trị khi các triệu chứng xảy ra. Điều
trị giúp kiểm soát bệnh và các triệu chứng. Bệnh nhân có thể được điều trị duy trì
nhằm tránh tái phát nhưng với phác đồ hóa trị liệu thông thường, rất hiếm bệnh
nhân khỏi bệnh, tuy nhiên ghép tủy có thể mang lại hy vọng điều trị khỏi đối với
bệnh bạch cầu mạn tính.
-Hóa trị
Một số bệnh nhân được điều trị hóa chất giúp tiêu diệt tế bào ung thư. Tùy
thuộc từng thể bệnh mà bác sỹ cho người bệnh dùng đơn hóa chất hoặc phối hợp

đa hóa chất. Có nhiều loại hóa chất khác nhau:
+ Hóa chất đường uống
+Hóa chất đường tĩnh mạch
+ Hóa chất vào tủy sống
+ Hóa chất vào não: Một số hóa chất không thể vượt qua hàng rào máu não
nên sau khi truyền tĩnh mạch thuốc không thể theo máu đến não được. Thông qua
catheter Ommaya người ta đưa thuốc trực tiếp vào hộp sọ.
Hóa chất được điều trị theo chu kỳ với khoảng thời gian dùng thuốc và
khoảng nghỉ. Hóa chất giúp tiêu diệt tế bào ung thư và giảm các triệu chứng nhưng
cũng có thể gây nên tổn thương các tổ chức lành, đặc biệt các tổ chức có tế bào
phân chia nhanh như tế bào máu, tế bào chân tóc, tế bào đường tiêu hóa, buồng
trứng và tinh trùng . Khi đó người bệnh được bác sỹ theo dõi và điều trị hỗ trợ:
+ Khi hóa chất làm giảm các tế bào máu lành tính, sẽ có nguy cơ bị nhiễm
khuẩn, chảy máu, mệt mỏi do thiếu hồng cầu. Các bác sỹ sẽ truyền máu cho người
bệnh nếu thấy thiếu máu nặng.
+ Hóa trị liệu gây rụng tóc. Sau khi ngừng điều trị, tóc mọc trở lại nhưng
kiểu tóc và màu tóc có thể thay đổi.
7
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
+ Hóa trị liệu gây mất cảm giác ngon miệng, buồn nôn, nôn, ỉa chảy, đau
họng miệng. Một số thuốc có thể giúp giảm các triệu chứng này.
+ Một số hóa chất gây vô sinh do làm tổn thương tinh trùng và trứng. Có
một số hóa chất không gây nên biến chứng này. Cần thiết trao đổi với bác sỹ về
nguyện vọng sinh đẻ sau điều trị để bác sỹ cân nhắc lựa chọn thuốc và cách bảo
quản tinh trùng, trứng trong ngân hàng mô.
-Điều trị đích
Điều trị đích ngăn chặn sự phát triển của tế bào ác tính thông qua ức chế
hoạt động protein bất thường làm kích thích sự phát triển của tế bào ung thư.
Các bệnh nhân bị bệnh bạch cầu dòng tủy mạn tính và một số thể bạch cầu

dòng tủy cấp tính có thể được điều trị bằng thuốc điều trị đích Glivec. Hiện nay có
thêm một số thuốc điều trị đích khác được chỉ định.
-Điều trị sinh học
Điều trị sinh học giúp kích thích sự miễn dịch tự nhiên của cơ thể chống lại
tế bào ung thư. Có nhiều biện pháp điều trị sinh học khác nhau: một số gắn kết với
tế bào bạch cầu ác tính, một số vận chuyển các chất gây độc tế bào, một số khác
giúp cải thiện hệ thống miễn dịch kích thích cơ thể chống lại tế bào ung thư.
Trong một số trường hợp bệnh bạch cầu dòng tủy mạn tính, điều trị thuốc
kích thích miễn dịch interferon tiêm dưới da hoặc tiêm bắp giúp làm chậm sự phát
triển của tế bào ung thư.
Với một số trường hợp bệnh bạch cầu dòng tủy mạn, có thể điều trị trong
giai đoạn duy trì theo một trong hai phương pháp:
+ Miễn dịch không đặc hiệu: BCG, Corynebacterium parvum, levsmisone
+ Miễn dịch đặc hiệu: các tế bào bạch cầu được xử lý tia xạ
-Ghép tế bào gốc
Điều trị ghép tế bào gốc giúp tạo điều kiện cho hóa chất liều cao thực hiện
được. Hóa chất liều cao giúp tiêu diệt tế bào ung thư nhưng cũng làm tổn thương tế
bào lành trong tủy. Vì vậy, tế bào nguồn sẽ được tiêm vào cơ thể (giống truyền
máu) sau khi điều trị bằng hóa chất, nhờ đó các tế bào máu bình thường được phát
triển từ các tế bào gốc này. Có nhiều biện pháp ghép tế bào gốc khác nhau:
+ Ghép tế bào gốc tự thân: Sử dụng tế bào gốc của chính mình. Trước khi
được điều trị hóa chất liều cao, tủy xương sẽ được lấy đi. Các tế bào này có thể
8
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
được điều trị để tiêu diệt các tế bào ung thư và sau đó được giữ lạnh rồi truyền lại
vào cơ thể sau khi được điều trị hóa chất liều cao.
+ Ghép tủy dị thân: Tế bào gốc được lấy từ tủy xương của thành viên trong
gia đình hoặc từ người cho khác phù hợp với cơ thể của bệnh nhân.
Hiện nay, phương pháp điều trị bệnh ung thư máu chủ yếu vẫn là thay tủy

xương của người bệnh bằng tủy xương của một người hiến phù hợp (thích hợp nhất
là người cùng huyết thống với người bệnh) để thay thế phần tủy xương đã bị hư
hỏng và kích thích sinh ra hồng cầu cũng như kìm hãm sự gia tăng đột biến của
bạch cầu. Tuy nhiên, khả năng thành công rất thấp, chỉ khoảng 10% và khả năng
bệnh tái phát cũng rất lớn (khoảng từ 3 đến 5 năm).
-Ghép tủy:
Hiện nay, ghép tủy chưa phải là phương pháp được sử dụng rộng rãi ở nước
ta bởi chi phí còn quá cao. Chúng ta hy vọng trong tương lai sẽ có thể thực hiện
được phương pháp này ở một số trung tâm hàng đầu về ung thư.
Các kết quả từ các thí nghiệm trên thế giới cho thấy đây là phương pháp khả
quan, cải thiện thời gian sống rõ rệt cho trẻ em. Đối với các bệnh nhân lớn tuổi,
thời gian sống có phần cải thiện nhưng kém hơn.
Có hai cách ghép tủy hay dùng là:
+ Ghép tủy đồng loại: Người cho tủy có nhóm HLA phù hợp với bệnh nhân.
Sau khi dùng hóa chất liều rất cao hoặc tia xạ toàn thân sẽ được ghép tủy của người
cho kèm với thuốc ức chế miễn dịch. Nếu trong cơ thể bệnh nhân xảy ra hiện
tượng mảnh ghép chống bệnh bạch cầu thì nguy cơ tái phát rất cao.
+ Ghép tủy tự thân: Sau khi được điều trị hóa chất đạt lui bệnh hoàn toàn,
tủy của bệnh nhân được lấy ra làm sạch, loại bỏ các tế bào ác tính và bảo quản.
Ghép tủy trở lại cho bệnh nhân sau khi điều trị hóa chất liều cao.
-Điều trị tia xạ:
+ Tia xạ vào lách: Một số bệnh nhân bi thể bạch cầu tủy mạn đã điều trị hóa
chất mà lách không thu nhỏ lại được nhiều hoặc khi chưa điều trị ung thư lách quá
to gây đau hoặc chèn ép vào các cơ quan khác trong ổ bụng thì tia xạ vào lách
được đặt ra. Ngoài tác dụng co nhỏ lách, phương pháp này còn giảm số lượng bạch
cầu và tăng hồng cầu, do đó cải thiện được tình trạng bệnh trong một thời gian nhất
định. Tia xạ thường được chiếu dựa trên kích thước của lách. Lách co nhỏ lại thì
9
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085

thường chiếu cũng phải thu lại. Trong quá trình điều trị cần kiểm tra thường xuyên
số lượng bạch cầu, chỉ ngừng tia khi số lượng bạch cầu xuống đến 6000/mm
3
hoặc
không sờ thấy lách.
+ Tia xạ vào ổ bệnh ngoài tủy: một số bệnh nhân có các khối u bạch cầu
ngoài tủy như xương, phần mềm cần được tia xạ tại chỗ kết hợp với điều trị hóa
chất toàn thân.
-Điều trị hỗ trợ:
Trong quá trình điều trị bệnh ung thư máu việc chăm sóc hỗ trợ luôn đóng
vai trò quan trọng, đảm bảo sự sống còn của bệnh nhân. Đối với từng trường hợp
cụ thể cần có những chỉ định cụ thể riêng, sau đây là một số biện pháp chung:
+ Chống thiếu máu và chống xuất huyết: Do bệnh nhân thường giảm cả tiểu
cầu và hồng cầu truyền máu là thích hợp nhất. Một số trường hợp chỉ cần truyền
một thành phần nào đó như: khối hồng cầu, khối tiểu cầu(hóa chất điều trị ung thư)
+ Chống nhiễm trùng: sử dụng kháng sinh phổ rộng hoặc phối hợp kháng
sinh.
+ Phòng ngừa bệnh thận do tăng acid uric: Allopurinol được dùng và điều
chỉnh liều theo kết quả xét nghiệm acid uric máu kết hợp bù nước và thuốc lợi tiểu
nếu cần.
+ Đông máu nội mạch rải rác và tiêu fibrin quá mức (thường xảy ra ở bệnh
bạch cầu tiền tủy bào – M3) cần điều trị tích cực bằng truyền khối tiểu cầu, các yếu
tố đông máu, heparin. Nếu không kiểm soát được cần dùng thêm acid epsilon-
aminocaproic và acid tranexamic.
+ Bù nước và điện giải đầy đủ.
+ Đảm bảo dinh dưỡng: Nếu lượng thức ăn hàng ngày không đủ, cần nuôi
dưỡng thêm qua đường tiêm truyền tĩnh mạch. Với các vitamin cũng rất cần thiết,
đặc biệt vitamin C liều cao có tác dụng thải độc rất tốt.
2. Một số phác đồ hóa chất điều trị ung thư máu
2.1. Bệnh bạch cầu tủy cấp:

- Phác đồ 7+3(Ara-C/Dauno) dùng điều trị tấn công:
Cytarabine 100mg/m
2
, TM trong 24 giờ trong 7 ngày
Daunorubin 45mg/ m
2
, TM, ngày 1, 2, 3
10
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
*Bắt đầu củng cố khi số lượng bạch cầu hạt trung tính >1.500 và số lượng tiểu cầu
>100.000
- Phác đồ Ara-C/Dauno/Ida dùng điều trị tấn công và củng cố:
Cytarabine 100mg/ m
2
,TM trong 24 giờ trong 7 ngày
Idarubicin 12mg/ m
2
, TM ngày 1, 2, 3
Sau 14 ngày nếu còn tế bào ác tính tại tủy xương, nhắc lại phác đồ điều trị.
+ Củng cố:
Cytarabine 100mg/ m
2
,TM trong 24 giờ trong 7 ngày
Idarubicin 12mg/ m
2
, TM ngày 1
Thioguanine 100mg/ m
2
, uống 12 giờ/lần, ngày 1-5

Nhắc lại mỗi đợt sau 21 - 28 ngày
+ Duy trì:
Cytarabine 100mg/ m
2
,TM trong 24 giờ trong 7 ngày
Idarubicin 12mg/ m
2
, TM ngày 1, 2
Nhắc lại mỗi đợt sau 13 tuần, điều trị 4 đợt
- Phác đồ Mitol/VP-16
+ Tấn công:
Mitroxantrone 10mg/m
2
, TM, ngày 1- 5
Etoposide 100mg/ m
2
, TM, ngày 1- 3
+ Củng cố:
Mitroxantrone 10mg/m
2
, TM, ngày 1- 5
Etoposide 100mg/ m
2
, TM, ngày 1- 5
Cytarabine 75mg/ m
2
,TM, 12 giờ/lần, ngày 1-5
2.2. Bệnh bạch cầu tủy mạn.
Điều trị hóa chất thường áp dụng cho giai đoạn mạn tính
Điều trị hóa chất thường quy, chủ yếu sử dụng hai thuốc: Hydroxyurea và

Busulfan theo đường uống. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh Hydroxyurea
có nhiều ưu điểm hơn Busulfan là: thời gian sống của bệnh nhân kéo dài hơn,
thuốc ít độc tính với tủy hơn, tỷ lệ biến chứng và tử vong khi ghép tủy sau dùng
Hydroxyurea thấp hơn sau dùng Busulfan. Do đó, hiện nay Busulfan được dùng
hàng thứ hai trong điều trị hóa chất.
a. Hydroxyurea:
11
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
-Thuốc có tác dụng giảm nhanh số lượng bạch cầu do đó cần phải theo dõi sát và
kiểm tra số lượng bạch cầu thường xuyên.
-Liều ban đầu có thể từ 1 đến 5g/ngày cho tới khi số lượng bạch cầu giảm xuống
khoảng 10.000/mm
3
. Tiếp sau đó có thể dùng liều 0,5 đến 2 g/ngày hoặc ngừng
thuốc sao cho số lượng bạch cầu đạt từ 5000 đến 10.000/mm
3
.
b. Busulfan
-Thuốc có tác dụng ức chế sự tăng sinh các tế bào gốc. Thời gian đáp ứng của bệnh
với thuốc kéo dài hơn so với Hydroxyurea.
-Liều: 2-10mg/ngày, uống liên tục từ 7 đến 10 ngày. Khi bạch cầu hạ xuống còn
50% cần giảm còn 1/2 liều. Cần lưu ý là bạch cầu tiếp tục hạ trong 1-2 tuần sau
khi ngừng thuốc
2.3. Bệnh bạch cầu lympho cấp
a. Các phác đồ điều trị tấn công:
- Phác đồ VP:
+ Vincristine: 2mg/m
2
(tối đa 2mg) truyền tĩnh mạch, ngày 1, 7, 14, 21, 28, 35, 42.

+ Prednisone: 40mg/ m
2
uống hàng ngày(chia thành liều nhỏ) trong tuần
Có thể dùng hoặc không dùng thuốc sau:
+ Daunorubicin: 25mg/ m
2
truyền tĩnh mạch tuần 1 lần, từ 4 đến 6 tuần cùng với
Vincristine
+ Asparagine: 10.000 UI/ m
2
. Truyền tĩnh mạch tuần 1 lần trong 2 tuần, cùng ngày
với vincristine
-Phác đồ VP DA+ Me:
+ Vincristine: 1.5mg/m
2
truyền tĩnh mạch, ngày 1, 8, 15, 22
+ Prednisone: 60mg/ m
2
uống từ ngày 1 đến ngày 28.
+ Daunorubicin: 30mg/ m
2
truyền tĩnh mạch ngày 1, 8, 15, 22
+ Asparagine: 500 UI/ m
2
. Truyền tĩnh mạch trong 30 phút, ngày 15 và ngày 28
+ Methotrexate: 15mg – tiêm nội tủy, ngày 1
b. Phác đồ điều trị củng cố:
-Phác đồ VM 26-Ara-C
+VM 26(Teniposide): 100mg/m
2

. Truyền tĩnh mạch trong 1 giờ từ ngày 1 đến ngày
5
12
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
+ Ara –C(Cytarabine, Cytosine): 150mg/m
2
. Truyền tĩnh mạch trong 1 giờ từ ngày
1 đến ngày 5
(Chú ý Ara-C truyền tĩnh mạch trước VM 26)
-Phác đồ C-Ara-C:
+Cyclophosphamide: 1000mg/m
2
.Truyền tĩnh mạch ngày 1
+ Ara-C: 500mg/m
2
. Truyền tĩnh mạch trong 24 giờ từ ngày 1
Do phác đồ có Cyclophosphamide liều cao, phải sử dụng Mesna kèm theo.
c. Phác đồ điều trị duy trì:
-Phác đồ 6 MP-MTX
+6 mecraptopurine: 60mg/m
2
/ngày uống hàng ngày
+ Methotrexate: 20mg/m
2
tiêm tĩnh mạch mỗi tuần một lần
II.4. Bệnh bạch cầu lympo thể mạn
a. Chlorambucil+ Prednisolon
+Chlorambucil 0,3mg/kg/ngày.Uống từ ngày 1 đến ngày 5
+ Prednisolon: 40mg/ m

2
uống từ ngày 1 đến ngày 5.
Mỗi tháng dung một đợt
b. CVP
+Cyclophosphamide: 300mg/m
2
/ngày. Uống từ ngày 1 đến ngày 5
+Vincristin: 1mg/m
2.
. Truyền tĩnh mạch ngày 1
+ Prednisolon: 40mg/m
2
/ngày.Uống từ ngày 1 đến ngày 5
Mỗi tháng 1 đợt
C. BÀN LUẬN
Bệnh ung thư máu hiện vẫn là một bệnh khó chữa của y học hiện đại, các
nhà khoa học và các bác sĩ vẫn đang trên con đường tìm ra các liệu pháp điều trị
mới nhằm cứu sống bệnh nhân, kéo dài tuổi thọ. Các nhà khoa học Mỹ đã thành
công trong việc sử dụng virus HIV được biến đổi gen để chống lại căn bệnh ung
thư máu. Tuy nhiên, đây vẫn là một phương pháp điều trị mới chỉ ở giai đoạn thử
nghiệm, thành công của phương pháp phụ thuộc rất nhiều vào sự dung nạp của
bệnh nhân. Trong tương lai hy vọng các nhà khoa học có thể tìm ra được một liệu
pháp điều trị tối ưu cho bệnh nhân ung thư máu kết hợp các biện pháp hóa trị và bổ
sung dinh dưỡng hợp lý, để họ có thể kéo dài sự sống.
Tài liệu tham khảo:
13
Tiểu luận: Ung thư máu và các liệu pháp điều trị Nhóm 9
Học viên: ĐỖ THỊ BÍCH THUẬN CH 17 1211085
1. Bệnh ung thư cách phòng và điều trị- Nguyền Văn Nhương- NXB Y học
2006 trang 6-30

2. Ung thư căn bệnh thế kỷ- TS, Bs Nguyền Thanh Đạm –NXB Y học Hà
Nội 2010 trang 621-638, trang 908-922
3. Hóa chất điều trị ung thư NXB Y học 2003- tái bản lần thứ 2 trang 191-
227
4. Bách khoa toàn thư bệnh học tập 3. NXB Từ điển bách khoa Hà nội
2000, trang 188-193
5. Hóa dược tập 2-Trường Đại học dược Hà Nội 2006. NXB Y học
14

×