CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Tên viết tắt Tên đầy đủ
CBGVCNV Cán bộ giáo viên công nhân viên
CSVC Cơ sở vật chất
GDĐH Giáo dục đại học
GD&ĐT Giáo dục đào tạo
GDTX Giáo dục thường xuyên
KH-CN Khoa học – công nghệ
KH-KT Khoa học –Kỹ thuật
KTXH Kinh tế xã hội
LKĐT Liên kết đào tạo
NT Nhà trường
QLGD Quản lý giáo dục
QLNT Quản lý nhà trường
THPT Trung học phổ thông
UBND Ủy ban nhân dân
VLVH Vừa làm vừa học
1
MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Bước vào kỷ nguyên mới, trước những thách thức về sự cạnh tranh của
nền kinh tế toàn cầu, cùng với những biến đổi to lớn trong thế giới ngày nay
đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự phát triển về giáo dục. Đảng ta xác định
giáo dục là quốc sách hàng đầu, để nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn
nhân lực có trình độ ngày càng cao không chỉ là nhiệm vụ của giáo dục chính
quy mà còn có phần đóng góp không nhỏ của các loại hình đào tạo khác nữa
như đào không chính quy, giáo dục thường xuyên, liên thông, liên kết. Muốn
thực hiện mục tiêu của GD&ĐT, thực hiện công bằng giáo dục và mọi người
được đi học, học thường xuyên và học suốt đời thì phải mở rộng các loại hình
đào tạo.
Trong những năm gần đây giáo dục thường xuyên ngày càng có vị trí,
vai trò nhất định trong hệ thống giáo dục quốc dân nước ta. Luật giáo dục
2005 đã nêu:" Hệ thống giáo dục quốc gồm giáo dục chính quy và giáo dục
thường xuyên", "giáo dục thưòng xuyên giúp mọi người vừa học, vừa làm,
học liên tục, học suốt đời nhằm hoàn thiện nhân cách, mở rộng hiểu biết, nâng
cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ để cải thiện chất lượng, tìm việc
làm, tự tạo việc làm và thích nghi với đời sống xã hội. Nhà nước có chính
sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây
dựng xã hội học tập". Giáo dục thường xuyên, đặc biệt bằng hình thức đào tạo
liên kết của các nhà trường, các cơ sở đào tạo đã góp phần nâng cao mặt bằng
dân trí và đáp ứng nhu cầu cung cấp nguồn lao động chất lượng cao cho nền
kinh tế hiện nay.
Xuất phát từ việc học tập, nghiên cứu lý luận về khoa học quản lý giáo
dục(QLGD), từ thực tiễn công tác tôi thấy việc liên kết đào tạo cũng là một
trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà trường, cần tìm ra những giải pháp
2
quản lý nhằm nâng cao chất lượng các lớp đào tạo theo hình thức liên kết nên
tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu" Quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở
trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật tỉnhThái Bình" làm đề tài luận văn của
mình
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận văn đề xuất những biện
pháp Quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
thuật tỉnhThái Bình.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động liên kết đào tạo tại trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Quản lý hoạt động liên kết đào tạo tại trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
thuật Thái Bình.
4.Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất và thực thi từng bước các biện pháp quản lý đối với các
hoạt động liên kết trên cơ sở lý thuyết quản lý giáo dục hiện đại và phù hợp
với thực tiễn của địa phương Thái Bình thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng
đào tạo hệ liên kết ở Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở cơ sở
giáo dục đại học, cao đẳng.
5.2. Khảo sát thực trạng quản lý các hoạt động liên kết đào tạo ở Trường Cao
đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình.
5.3. Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở Trường Cao
đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình trong giai đoạn hiện nay.
6. Giới hạn đề tài
3
Luận văn tập trung nghiên cứu đánh giá thực trạng công tác quản lý
liên kết đào tạo đại học hệ vừa làm vừa học của Trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
thuật Thái Bình. Các số liệu thống kê được sử dụng trong luận văn là các số
liệu của Trung tâm tại chức nhà trường giai đoạn từ năm 2000 – 2011
7. Phương pháp nghiên cứu
Kết hợp các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận
Tìm hiểu và phân tích các quan điểm lý luận thể hiện trong các văn
kiện của Đảng, văn bản của Chính phủ, nghiên cứu trên sách, báo chí, các tài
liệu chuyên môn liên quan đến nội dung của đề tài.
7.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Chủ yếu là thu thập, xử lý các dữ liệu, tìm hiểu thực trạng. Các phương
pháp cơ bản: Phân tích, tổng hợp, đánh giá, nêu vấn đề và đề xuất những giải
pháp kết hợp với trao đổi, phỏng vấn, điều tra, thử nghiệm.
7.3. Phương pháp bổ trợ
Ngoài các phương pháp trên tác giả còn sử dụng các phương pháp xử
lý số liệu thống kê để bổ trợ, bổ sung việc xử lý kết quả.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo và các phụ lục, luận văn được trình bày trong 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở
trường cao đẳng, đại học.
Chương 2: Thực trạng quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở Trường
Cao đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình.
Chương 3: Biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo ở trường Cao
đẳng Kinh tế Kỹ thuật Thái Bình trong giai đoạn 2000- 2011.
4
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG LIÊN KẾT ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề nghiên cứu
UNESCO đã có khuyến cáo đúng đắn khi coi giáo dục của thế kỷ 21 là
nền giáo dục của xã hội học tập và học suốt đời cho mọi người. Quan điểm
này thực ra có từ rất sớm, nó xuất phát từ quan điểm “Giáo dục bình đẳng”
trong tư tưởng của Mác – Ăng ghen cho đến tư tưởng Hồ Chí Minh đó là
“Mọi người ai cũng được học hành”. Như vậy Giáo dục không thể tách rời xã
hội mà giáo dục và xã hội là một khối thống nhất. Xã hội học tập bao gồm các
hình thức: giáo dục chính qui và giáo dục không chính qui.
Nghị quyết của HĐBT đã cho phép thành lập trung tâm đào tạo, bồi
dưỡng tại chức cấp tỉnh trên cơ sở các tổ chức đa dạng ở địa phương đã hình
thành từ trước đó. Đây là các mô hình cơ sở giáo dục mới dựa trên sự liên kết
của các trường đại học với các tỉnh, thành trong cả nước. Đây là một bước đột
phá trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đại học tại chức, từ xa. Việc liên kết
này là một kinh nghiệm quý báu, thiết thực cần được tổng kết, phát huy và
nâng cao vai trò của các cơ sở đào tạo trong việc đào tạo, liên kết đào tạo với
nhiều hình thức học tập khác nhau.
Đại hội Đảng VI năm 1986, với đường lối đổi mới trong lĩnh vực Giáo
dục, nghị quyết đã chỉ rõ: " Phải bố trí hợp lý cơ cấu hệ thống giáo dục, thể
hiện tính thống nhất của quá trình giáo dục, bao gồm nhiều hình thức đào tạo,
bồi dưỡng chính quy và không chính quy, tập trung, tại chức "
Hệ đào tạo đại học không chính quy với nhiều hình thức mới, tên gọi
mới như đại học mở, đào tạo từ xa, tự học có hướng dẫn đã được mở ra. Từ
năm 1988 đến năm 1991 đã có 2 Viện đại học mở được thành lập ở Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh.
5
Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: " Hệ thống giáo dục quốc dân
bao gồm giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên", " nhà nước có chính
sách phát triển giáo dục thường xuyên, thực hiện giáo dục cho mọi người, xây
dựng xã hội học tập" [3].
Những năm gần đây, trong các báo, tạp chí thuộc chuyên ngành giáo
dục, tạp chí phát triển giáo dục, tạp chí dạy và học, báo giáo dục và thời đại,
trong các báo cáo tổng kết công tác giáo dục thường xuyên hàng năm của bộ
Giáo dục và Đào tạo cũng đã đề cập tới công tác quản lý các lớp đại học hệ
liên kết.
Trong quá trình học tập tôi đã tham khảo một số luận văn cao học của
các khoá đào tạo tại trường như tác giả Đào Thị Lợi với đề tài " Những biện
pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng các lớp đào tạo bậc Đại học theo hình
thức liên kết tại Trung tâm Giáo dục thường xuyên tỉnh Bắc Giang", tác giả
Nguyễn Khánh Thọ với đề tài " Biện pháp quản lý hệ vừa làm vừa học tại các
cơ sở liên kết đào tạo của trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội, đề tài " Biện pháp
quản lý hoạt động liên kết đào tạo văn bằng 2 hệ đại học ở trường Cán bộ
thanh tra thuộc thanh tra Chính Phủ của tác giả Công Văn Hướng, đề tài "
Biện pháp quản lý học tập của học viên các lớp liên kết đào tạo hệ không
chính quy ở trung tâm đào tạo bồi dưỡng tỉnh Nam Định" của tác giả Nguyễn
Đức Hiển và đề tài " Quản lý hoạt động liên kết đào tạo hệ đại học vừa làm
vừa học tại Trung tâm đào tạo bồi dưỡng tỉnh Nam Định"của tác giả Nguyễn
Thị Hoà. Các đề tài của các anh(chị) lớp trước đã nêu được một số giải pháp
để nâng cao chất lượng đào tạo đại học( hệ vừa làm vừa học), biện pháp quản
lý hoạt động giảng dạy của giáo viên, hoạt động học tập của học viên
Tuy nhiên hiện nay còn có rất ít công trình nghiên cứu có hệ thống, có
thực nghiệm tại một cơ sở giáo dục cụ thể, với những hiểu biết trên trong luận
văn này chúng tôi mạnh dạn phân tích một cách tương đối toàn diện, có hệ
thống thực trạng của sự liên kết đào tạo giữa trường Cao đẳng Kinh tế Kỹ
6
thuật Thái Bình với các trường Cao đẳng, Đại học mà nhà trường đã liên kết.
Đồng thời bước đầu đề xuất và khảo nghiệm các biện pháp quản lý nhằm kết
hợp chặt chẽ giữa đơn vị chủ trì đào tạo và đơn vị phối hợp đào tạo để nâng
cao hiệu quả hoạt động quản lý liên kết đào tạo tại nhà trường. Đề tài mong
muốn đúc rút được những kinh nghiệm để góp phần đề ra các biện pháp quản
lý LKĐT một cách đồng bộ, có tính khả thi cao, phù hợp với xu thế phát triển
của xã hội và đáp ứng được mục tiêu phát triển của nhà trường.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. Đào tạo
Theo từ điển bách khoa Việt Nam: Đào tạo là quá trình tác động đến
một con người nhằm làm cho người đó lĩnh hội và nắm vững tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo một cách hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với
cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công nhất định, góp phần của mình
vào việc phát triển xã hội, duy trì phát triển nền văn minh của loài người [33].
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: Đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích, có tổ chức, nhằm hình thành và phát triển hệ thống các tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, thái độ để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân tạo tiền đề
cho họ có thể vào đời hành nghề một cách năng suất, hiệu quả [14].
Như vậy có thể hiểu đào tạo là một quá trình trang bị kiến thức, kỹ
năng nghề nghiệp, đồng thời giáo dục phẩm chất đạo đức, thái độ cho học
sinh, sinh viên và người học để họ trở thành người công dân, người lao động
có chuyên môn và nghề nghiệp nhất định nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và
phát triển của mỗi cá nhân, đáp ứng yêu cầu nhân lực của xã hội trong một
giai đoạn lịch sử nhất định. Quá trình này diễn ra trong các cơ sở đào tạo như
các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, trung tâm dạy nghề,
trung tâm GDTX theo một kế hoạch, nội dung chương trình quy định cho
từng ngành nghề cụ thể, nhằm giúp người học đạt được một trình độ nhất định
trong hoạt động lao động nghề nghiệp.
7
1.2.2. Liên kết
Liên kết là "kết, buộc lại với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau" (từ điển
Từ và Ngữ Hán Việt). Theo Đại từ điển Tiếng Việt, nhà xuất bản Văn hoá -
Thông tin năm 2005( Nguyễn Như Ý chủ biên) thuật ngữ liên kết cũng được
định nghĩa là:" Kết lại với nhau từ nhiều thành phần hoặc tổ chức riêng rẽ
nhằm mục đích nào đó"[33]. Khái niệm liên kết phản ánh các mối quan hệ
chặt chẽ, ràng buộc, gắn kết lẫn nhau giữa các thành phần hướng đến một
mục đích chung nào đó. Tính hướng đích là tiêu điểm, là cơ sở và động lực
của các mối liên kết giữa chúng.
Tiền nhân có câu " Một cây làm chẳng lên non
Ba cây chụm lại lên hòn núi cao"
Sự liên kết giữa các tổ chức theo một lợi ích chung, giải quyết một vấn
đề chung tạo nên một sức mạnh mới, khả năng mới mà từng thành phần hoặc
tổ chức riêng rẽ không thể có. Tuỳ theo từng loại hình mà có các mối liên kết
bên trong hoặc bên ngoài của một tổ chức trong bối cảnh và môi trường kinh
tế - xã hội nhất định như trong nhà trường, trong doanh nghiệp, trong trường
đại học. Nói đến vấn đề liên kết ta có thể đề cập đến các nội dung sau:
Mục đích, mục tiêu liên kết, các thành phần, tổ chức liên kết, các hình
thức liên kết, các nội dung liên kết, cơ chế liên kết, sản phẩm liên kết, môi
trường và các điều kiện liên kết.
Mục đích, mục tiêu liên kết: phản ánh lợi ích, mong muốn chung và cụ
thể của từng tổ chức thành phần tham gia liên kết như lợi ích kinh tế, lợi ích
xã hội, lợi ích môi trường phát triển
Các thành phần, tổ chức liên kết: bao gồm các thành phần, tổ chức độc
lập, có tư cách pháp nhân thuộc nhiều loại hình, tổ chức kinh tế xã hội, giáo
dục- đào tạo, cơ quan quản lý nhà nước tham gia với những vai trò, vị trí
nhất định trong liên kết.
8
Các hình thức liên kết: Tuỳ theo mục đích và tính chất liên kết mà có
thế có theo hình thức tổ chức các khoá đào tạo liên kết, thoả thuận phối hợp
thực hiện các dự án nghiên cứu hay phát triển các sản phẩm dịch vụ, các hợp
đồng kinh tế trong hợp tác nghiên cứu, đào tạo và bồi dưỡng nhân lực, nghiên
cứu và sản xuất các sản phẩm mới
Các nội dung liên kết: Tuỳ thuộc vào mục đích, đối tượng và hình thức
liên kết mà có các nội dung liên kết khác nhau bao gồm các nội dung, các
hoạt động liên kết như: đầu tư, hỗ trợ tài chính, đào tạo và bồi dưỡng nhân
lực, nghiên cứu KH&CN đến các hoạt động sản xuất kinh doanh với vị trí, vai
trò, trách nhiệm của các bên tham gia liên kết.
Cơ chế liên kết: Là cách tổ chức, quản lý và các nguyên tắc vận hành
các mối liên kết bảo đảm đạt được mục tiêu, quyền hạn, trách nhiệm của các
bên tham gia liên kết. Trên thực tế có nhiều cơ chế khác nhau như có chế hợp
tác, liên kết mở, liên kết toàn diện
Môi trường và các điều kiện liên kết: Là tập hợp các nhân tố bên ngoài
(môi trường chính trị- xã hội, kinh tế, văn hoá, các tổ chức có ảnh hưởng
khác và môi trường bên trong của mối liên kết giữa các đối tác ( các quan hệ
nội bộ, các điều kiện, đặc tính bên trong của từng đối tác )
1.2.3. Liên kết đào tạo
Trong xã hội hiện đại không có một tổ chức nào tồn tại mà không có
mối liên hệ, liên kết với các tổ chức kinh tế, xã hội khác.
Trong đào tạo, liên kết là hình thức phối hợp, hỗ trợ, tạo sự gắn bó chặt
chẽ với nhau giữa các cơ sở đào tạo hoặc giữa các cơ sở đào tạo với các đối
tác khác nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của cơ sở đào tạo.
Năm 2008 Bộ Giáo dục và Đào tạo nước ta đã ban hành quyết định số
42/2008/QĐ-BGDĐT về liên kết đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp,
cao đẳng, đại học [2]. Tại văn bản này liên kết đào tạo được hiểu là sự hợp tác
9
giữa các bên để tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo, cấp bằng tốt
nghiệp trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học.
Đối với một tổ chức như nhà trường thì việc liên kết lại càng quan
trọng, mang lại hiệu quả rất lớn. Sự liên kết đào tạo phát huy được sức mạnh
tổng hợp về nguồn lực vật chất và trí thức, nó gắn kết giữa học và hành, bởi
ngay bản thân sản phẩm mà nhà trường tạo ra chính là nguồn lực cho xã hội.
Nguồn lực này có mặt trong tất cả các lĩnh vực kinh tế xã hội. Liên kết sẽ tạo
ra một sức mạnh mới, một chất lượng làm việc mới cho tổ chức.
1.2.4. Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường
1.2.4.1. Quản lý
Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào sự nỗ lực của một tổ chức, từ một nhóm nhỏ
đến phạm vi rộng lớn hơn, đều phải thừa nhận và chịu một sự quản lý nào đó.
Một cách hình ảnh C. Mác đã lột tả bản chất của quản lý và các hoạt
động lao động để điều khiển lao động. Ông đã nói: "Một người độc tấu vĩ cầm
thì tự điều khiển mình, còn dàn nhạc thì cần nhạc trưởng" để nêu bật lên sự tất
yếu và vô cùng quan trọng của hoạt động quản lý trong quá trình phát triển
của xã hội loài người.
Có thể nói hoạt động quản lý vừa là một khoa học, vừa là một nghệ
thuật. Nó điều khiển một hệ thống xã hội ở tầm vĩ mô cũng như vi mô.
Ngày nay thuật ngữ quản lý đã trở nên phổ biến nhưng chưa có một
định nghĩa thống nhất. Khái niệm quản lý có nội dung rất chung, tổng quát,
nó dùng cho cả quá trình xã hội, quá trình sinh vật cũng như quá trình kỹ
thuật. Mỗi một định nghĩa thường dùng đúng với một lĩnh vực quản lý cụ thể
và tuỳ theo cách tiếp cận khác nhau.
Theo cách tiếp cận trên phương diện hoạt động của tổ chức thì: " Quản
lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể quản lý nhằm thực hiện
các mục tiêu dự kiến".
10
Hoặc " Hoạt động quản lý là tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể
quản lý ( người quản lý) đến khách thể quản lý ( người bị quản lý) trong một
tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức".
Với cách tiếp cận tình huống thì: "Quản lý là thiết kế và duy trì một
môi trường trong đó các cá nhân làm việc với nhau trong các nhóm có thể
hoàn thành các nhiệm vụ và các mục tiêu đã định"[9].
Theo tác giả Nguyễn Thị Mỹ Lộc thì quản lý là quá trình đạt đến mục
tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ
đạo, lãnh đạo và kiểm tra [9].
Bất luận một tổ chức nào, có mục đích gì, cơ cấu và quy mô ra sao đều
cần phải có sự quản lý và có người quản lý để tổ chức hoạt động và đạt được
mục đích của mình. Người quản lý là nhân vật có trách nhiệm phân bố nhân
lực và nguồn lực khác, chỉ dẫn sự vận hành của một bộ phận hay toàn bộ tổ
chức để tổ chức hoạt động có hiệu quả và đạt đến mục đích.
Theo tác giả Đặng Quốc Bảo: Hoạt động quản lý bắt nguồn từ sự phân
công, hợp tác lao động. Chính sự phân công, hợp tác lao động nhằm đạt đến
hiệu quả nhiều hơn, năng suất lao động cao hơn. Trong công việc đòi hỏi phải
có sự chỉ huy, phối hợp, điều hành, kiểm tra, chỉnh lý[4].
Có thể nói: Quản lý là sự tác động liên tục, có định hướng của chủ thể
quản lý( người quản lý hay tổ chức quản lý) lên khách thể quản lý về mặt
chính trị, văn hoá, xã hội, kinh tế bằng một hệ thống các luật, chính sách,
nguyên tắc, phương pháp và biện pháp cụ thể nhằm tạo ra môi trường và điều
kiện cho sự phát triển của đối tượng
Xét về bản chất, các định nghĩa trên về quản lý bao gồm những điều
chủ yếu sau đây: Quản lý là một loại hình hoạt động có đối tượng, là một
dạng hoạt động có chủ hệ thống, nhằm đạt được những mục đích nhất định.
Quản lý là thuộc tính tồn tại khách quan trong hoạt động con người. Quản lý
luôn đặt trong mối quan hệ tác động qua lại giữa chủ thể quản lý và khách thể
11
quản lý, trong sự tác động của môi trường. Cho nên " Quản lý phải đặt trong
điều kiện có sự thay đổi, bắt nguồn từ những biến động, mà cuộc sống thì
không bao giờ đứng yên" [18]
Ngày nay hoạt động quản lý thường được định nghĩa cụ thế hơn: "Quản
lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động
(chức năng) kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra"[9].
Qua những định nghĩa trên ta thấy quản lý có những đặc trưng cơ
bản sau:
Quản lý bao gồm hai thành phần: chủ thể và khách thể quản lý.
Chủ thể và khách thể quản lý có mối quan hệ tác động qua lại, tương hỗ
nhau, chủ thể làm nảy sinh các tác động quản lý, còn khách thể thì nảy sinh
các giá trị vật chất và tinh thần, có giá trị sử dụng, trực tiếp đáp ứng nhu cầu
của con người, thoả mãn mục đích của chủ thể quản lý.
Quản lý là hoạt động nhằm đảm bảo sự hoàn thành công việc thông qua
sự nỗ lực của người khác. Cũng có ý kiến cho rằng quản lý là quá trình lập kế
hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra công việc các thành viên thuộc một hệ
thống đơn vị và việc sử dụng các nguồn lực phù hợp để đạt được các mục
đích đã định. Tuy vậy, theo nghĩa rộng, quản lý là hoạt động có mục đích của
con người. Quản lý với tư cách là một hành động, có thể định nghĩa:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản
lý tới khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Dù được hiểu theo cách nào về quản lý cũng cần quan tâm một số điểm sau:
Quản lý bao giờ cũng là một tác động hướng đích, có mục tiêu xác định.
Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai bộ phận của chủ thể quản lý và khách
thể quản lý, là quan hệ không đồng cấp, có tính bắt buộc.
Quản lý là sự tác động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với quy
luật khách quan.
Quản lý xét về mặt công nghệ là sự vận động của thông tin.
12
Tóm lại, những khái niệm về quản lý nêu trên đều có các đặc trưng chủ
yếu là: tính tự giác, tính mục đích và tính quần chúng trong quản lý. Đây
được xem là cơ sở phương pháp luận của mọi hoạt động quản lý.
Như vậy, có thể nói, quản lý là một quá trình tác động có định hướng
(có chủ đích), có tổ chức, có lựa chọn trong số các tác động có thể có, dựa
trên các thông tin về tình trạng của đối tượng và môi trường nhằm giữ cho sự
vận hành của đối tượng được ổn định và làm cho nó phát triển tới mục tiêu
đã định.
Trong các diễn đạt trên đây đều cho thấy những điểm chung như sau:
+ Quản lý là thuộc tính bất biến nội tại của mọi quá trình, hoạt động xã
hội loài người. Lao động quản lý là điều kiện quan trọng để làm cho xã hội
loài người tồn tại, vận hành và phát triển.
+ Hoạt động quản lý được thực hiện với một tổ chức hay một nhóm
xã hội.
+ Yếu tố con người, trong đó chủ yếu bao gồm người quản lý và người
bị quản lý, họ giữ vai trò trung tâm trong hoạt động quản lý.
Bản chất của hoạt động quản lý là sự tác động có mục đích của người
quản lý (chủ thể quản lý) đến người bị quản lý (khách thể quản lý) nhằm đạt
mục tiêu chung.
1.2.4.2. Chức năng quản lý
Khi bàn về hoạt động quản lý và người quản lý, chúng ta cần tìm hiểu
người quản lý phải làm những gì, hay nói cách khác là tìm hiểu các chức năng
quản lý. Để đạt được mục tiêu của tổ chức, người quản lý phải biết cách vận
dụng các chức năng quản lý. Trong thực tế tuỳ từng hoàn cảnh, từng đối
tượng mà vận dụng các biện pháp quản lý thích hợp. Tiềm năng của người
quản lý là biết lựa chọn biện pháp hữu hiệu áp dụng cho từng đối tượng,
người quản lý phải có lý trí sáng suốt và trái tim nhân hậu, phải có trình độ
chuyên môn cao và kinh nghiệm quản lý phong phú sao cho việc lựa chọn
13
biện pháp quản lý phù hợp với thực trạng đơn vị, tình huống quản lý và có
những bước đi thích hợp.
Có nhiều quan điểm khác nhau về việc phân chia các chức năng quản
lý: Theo Henri Fayol (1841- 1925) là một kỹ nghệ gia người Pháp, cống hiến
lớn nhất của Fayol là xuất phát từ các loại hình " hoạt động quản lý"ông là
người đầu tiên phân biệt chúng thành 5 chức năng cơ bản gồm: Kế hoạch hoá,
Tổ chức, Chỉ huy, Phối hợp và Kiểm tra [9,tr.31].
Viện sĩ V.G Afanaxiep của Liên Xô, một nhà lý luận quản lý xã hội đã
nêu 5 chức năng cơ bản của quản lý là: Xử lý và thông qua quyết định, tổ
chức, điều chỉnh, sửa chữa, kiểm kê và kiểm tra.
Các chức năng cơ bản của quản lý là sự nhóm gộp các hoạt động quản
lý trong mỗi công đoạn của quá trình đạt đến mục tiêu. Với những quan điểm
và thể hiện dưới dạng khác nhau về phân chia các chức năng quản lý.
Theo tác giả Nguyễn Quốc Chí và Nguyễn Thị Mỹ Lộc có thể phân
chia theo 4 chức năng cơ bản sau:
Kế hoạch hoá (Planning); Tổ chức (Organizing); Lãnh đạo-chỉ đạo
(Leading); Kiểm tra (Controling). Bốn chức năng cơ bản này liên quan chặt
chẽ với nhau tạo thành một chu trình quản lý. Chúng đều cần đến thông tin.
Chức năng kế hoạch hoá (Planning) Kế hoạch hoá có nghĩa là xác
định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và các con
đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Đây là chức
năng giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động quản lý. Có ba nội dung chủ yếu của
chức năng kế hoạch hóa: (a) xác định, hình thành mục tiêu ( phương hướng)
đối với tổ chức; (b) xác định và đảm bảo (có tính chắc chắn, có tính cam kết)
về các nguồn lực của tổ chức để đạt được các mục tiêu này và; (c) quyết định
xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đó.Chuẩn
song hành cùng với hai công việc quan trọng của kế hoạch hoá: Xác định mục
14
tiêu "đúng" và lựa chọn những biện pháp " đúng" để đạt được mục tiêu. Cả
hai công việc đó đều có ý nghĩa sống còn đối với quá trình quản lý.
Các nhà lý thuyết gia về quản lý cho rằng: Kế hoạch hoá là cái khởi
nguyên của mọi hoạt động, mọi chức năng quản lý khác. Người ta ví kế hoạch
hoá như một chiếc đầu tầu kéo theo các toa "tổ chức", "chỉ đạo", " kiểm tra",
hoặc ví quản lý như một thân cây, trên đó các chức năng "tổ chức", "chỉ đạo",
" kiểm tra" đâm cành - sinh nhánh. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế
hoạch hoá:
i- Kế hoạch hoá là một chức năng quản lý
- Xác định, hình thành mục tiêu đối với tổ chức.
- Xác định và đảm bảo, có tính chắc chắn về các nguồn lực của tổ chức
để đạt được các mục tiêu này.
- Quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các
mục tiêu đó.
ii- Các loại kế hoạch
Sự phân loại kế hoạch gắn liền với sự phân loại mục tiêu. Có ba loại
mục tiêu chính sau đây: Mục tiêu chiến lược, mục tiêu chiến thuật, mục tiêu
tác nghiệp.
Xuất phát từ ba loại mục tiêu trên có ba loại kế hoạch:
- Kế hoạch chiến lược: Là các bước hoạt động chi tiết được vạch ra để
đạt được mục tiêu chiến lược. Những kế hoạch này hướng vào những vấn đề
lớn như: cần phải hoạt động như thế nào để đáp ứng các điều kiện đang thay
đổi; cần phân phối nguồn lực như thế nào trong phạm vi toàn bộ tổ chức;
những hành động nào cần tiến hành để tạo nên một nỗ lực chung, thống nhất
và có sức mạnh trong toàn bộ tổ chức để có thể đạt được mục tiêu chiến lược.
Kế hoạch chiến lược thường có thời hạn từ 3 đến 5 năm cho một tổ chức và
dài hạn hơn 10 năm hoặc 15 năm cho một ngành hoặc một quốc gia, kế hoạch
chiến lược được xây dựng ở cấp quản lý cao nhất.
15
- Kế hoạch trung hạn (giai đoạn): Là những cách thức được vạch ra để
hỗ trợ cho việc triển khai kế hoạch chiến lược cũng như đạt được các mục tiêu
trung hạn cụ thể. Kế hoạch này có thời hạn từ 1 đến 3 năm cho một tổ chức,
từ 3 đến 5 năm cho một ngành hoặc một quốc gia, kế hoạch này được xây
dựng bởi cấp quản lý trung gian.
- Kế hoạch tác nghiệp: Là các biện pháp được hoạch định để triển khai
kế hoạch chiến thuật và đạt được mục tiêu tác nghiệp. Nói chung loại kế
hoạch này có thời hạn dưới một năm, thậm chí thời hạn tính theo tháng, tuần,
ngày và do cấp quản lý thấp nhất xây dựng.
Để phân biệt các loại kế hoạch cần dựa vào các tiêu chí sau: khung thời
gian, phạm vi, độ phức tạp và ảnh hưởng, tính độc lập tương đối.
Bảng: 1.1. Tám lĩnh vực cần quan tâm khi xác định mục tiêu chiến lược
(tác giả Drucker đề xuất)
Tám lĩnh vực cho tổ chức sinh lời Tám lĩnh vực cho tổ chức không sinh lời
1. Thị phần cần chiếm lĩnh
2. Sự đổi mới về sản phẩm và
những đổi mới công nghệ cần
thiết.
3. Nguồn nhân lực
4. Nguồn tài chính
5. Nguồn vật lực
6. Năng suất lao động
7. Trách nhiệm xã hội
8. Lợi nhuận
1. Nhu cầu xã hội cần đáp ứng
2. Sự đổi mới về sản phẩm dịch vụ xã
hội và đổi mới phương thức hoạt động
tương ứng.
3. Nguồn nhân lực
4. Nguồn tài chính
5. Nguồn vật lực
6. Hiệu quả hoạt động
7. Trách nhiệm xã hội
8. Lợi ích của tổ chức.
iii- Quá trình lập kế hoạch
Bước 1: Xác định mục tiêu
16
Xác định mục tiêu đòi hỏi phải xem xét và hiểu rõ sứ mệnh của tổ chức
và sau đó xác định những mục tiêu cụ thể, những mục tiêu này là sự chuyển
dịch sứ mệnh của tổ chức mà thành, những mục tiêu này cũng đòi hỏi các
nguồn lực lớn và đồng thời quản lý rất nhiều hoạt động. Vì thế nên việc xác
định đúng mục tiêu là một trong những khâu quan trọng mang tính quyết định
của quá trình lập kế hoạch.
Bước 2: Làm rõ các mục đích và chiến lược hiện tồn tại, đang phát huy
tác dụng đến hoạt động của tổ chức.
Bước 3: Phân tích môi trường
Cần làm rõ cách thức mà những biến đổi về môi trường chính trị pháp
lý, văn hoá, xã hội, kinh tế có thể ảnh hưởng gián tiếp đến tổ chức đồng thời
xác định những ảnh hưởng trực tiếp của các tổ chức, các cơ quan, chính
quyền, các đoàn thể xã hội khác
Bước 4: Phân tích nguồn lực
Mục tiêu và chiến lược của tổ chức cũng là điều kiện để phân tích các
nguồn lực của nó. Từ việc phân tích này cần làm rõ những ưu thế, mặt mạnh,
mặt yếu của tổ chức.
Bước 5: Xác định vận hội và nguy cơ có tính chiến lược
Tổ chức nào cũng luôn luôn phải đối đầu với những vận hội và nguy
cơ, những yếu tố này ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của tổ chức.
Những vận hội là những khả năng khách quan và chủ quan thúc đẩy tổ chức
phát triển, những nguy cơ đến từ bên trong hoặc bên ngoài luôn đe doạ sự tồn
tại cũng như sự hưng thịnh của tổ chức.
Bước 6: Xác định việc mở rộng những biến đổi có tính chiến lược
Bước 7: Ra quyết định chiến lược
Bước 8: Triển khai chiến lược
Bước 9: Đo lường và kiểm tra những tiến bộ
17
Trong khi chiến lược đang tiếp diễn người quản lý cần tiến hành kiểm
tra những tiến bộ của việc triển khai chiến lược định kỳ hoặc kiểm tra ở
những giai đoạn then chốt. Việc kiểm tra cần trả lời được câu hỏi là chiến
lược có được triển khai theo kế hoạch hay không? Chiến lược đang triển khai
có đạt hiệu quả mong muốn hay không?
Chức năng tổ chức (Organizing)
Khi người quản lý đã lập xong kế hoạch, họ cần phải chuyển hóa những
ý tưởng khá trừu tượng ấy thành hiện thực. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý
nghĩa quyết định đối với sự chuyển hóa như thế. Xét về mặt chức năng quản
lý, tổ chức là sự hình thành nên cấu trúc các mối quan hệ giữa các thành viên,
giữa các bộ phận với nhau nhằm thực hiện thành công kế hoạch, đạt được
mục tiêu, mục đích của tổ chức. Đây là chức năng quan trọng quyết định sự
thành bại trong việc đạt được mục tiêu của tổ chức. Nhờ công tác tổ chức có
hiệu quả mà người quản lý có thể phối hợp và điều phối tốt hơn các nguồn
lực. Một tổ chức hoạt động tốt phụ thuộc nhiều vào năng lực của người quản
lý, sử dụng nguồn lực một cách hiệu quả nhất.
Nội dung của tổ chức là tạo nên một bộ máy quản lý trong đó gồm
nhiều bộ phận được chuyên môn hoá, có quan hệ với nhau nhằm thực hiện
các chức năng quản lý vì một mục tiêu chung. Vì thế tổ chức chính là việc
xây dựng cơ cấu tổ chức quản lý của hệ thống được hình thành trên cơ sở kế
hoạch hoá. Một cơ cấu tổ chức được cho là phù hợp khi nó đạt được nguyên
tắc thống nhất trong mục tiêu, mỗi thành viên đều góp công sức vào các mục
tiêu của hệ thống.
Tác giả Emest Dale mô tả chức năng tổ chức như một quá trình gồm 5
bước:
Lập danh sách các công việc cần phải hoàn thành để đạt được mục tiêu
của tổ chức.
18
Phân chia toàn bộ công việc thành những nhiệm vụ để các thành viên
hay các bộ phận (nhóm) trong tổ chức thực hiện một cách thuận lợi và hợp
lôgic. Đây gọi là bước phân công lao động.
Kết hợp các nhiệm vụ một cách lôgíc và hiệu quả, đây là bước phân
chia bộ phận.
Thiết lập một cơ chế điều phối. Sự liên kết hoạt động của các cá nhân,
các nhóm, các bộ phận một cách hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi để tổ chức
đạt được mục tiêu một cách dễ dàng và hiệu quả hơn.
Chức năng lãnh đạo- chỉ đạo (Leading)
Sau khi kế hoạch đã được lập, cơ cấu bộ máy tổ chức đã hình thành,
nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có người nào đó đứng ra lãnh đạo, dẫn
dắt tổ chức làm sao cho các thành viên, các bộ phận hoạt động đồng bộ, đồng
thời động viên cổ vũ họ hoàn thành kế hoạch. Đây chính là quá trình chỉ đạo
hay tác động vào các thành viên của tổ chức cần tập trung vào các ưu tiên sau:
Nhận thức lãnh hội quan điểm, xây dựng tầm nhìn, lý tưởng, sứ mệnh
của hệ thống.
Làm sáng tỏ được thực trạng vận động của hệ thống (gồm phân tích các
mâu thuẫn quá trình phát triển), phát hiện ra nhân tố mới.
Tổng kết được quy luật, tính quy luật xu thế phát triển của hệ thống.
Đề xuất các phương án chiến lược phát triển hệ thống.
Chức năng kiểm tra (Controling)
Kiểm tra là một chức năng quản lý, thông qua đó một cá nhân, một
nhóm hoặc một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến
hành những hoạt động uốn nắn, sửa chữa đi đến hoàn thành kế hoạch, đạt
được mục tiêu, thích ứng với môi trường, đảm bảo tính khả thi và tính thực
tiễn của kế hoạch, tiến tới hoàn thành mục tiêu, mục đích của tổ chức trong
môi trường biến đổi.
19
Kiểm tra trong hoạt động quản lý là một nỗ lực có hệ thống nhằm xác
định những chuẩn mực ( tiêu chuẩn) của thành tựu khi đối chiếu với các mục
tiêu đã được kế hoạch hoá; thiết kế một hệ thống thông tin phản hồi; so sánh
thành tựu hiện thực với các chuẩn mực đã định; xác định những lệch lạc nếu
có và đo lường ý nghĩa, mức độ của chúng; tiến hành những hành động cần
thiết để đảm bảo rằng những nguồn lực của tổ chức được sử dụng một cách
hiệu nghiệm và hiệu quả để đạt được mục tiêu của tổ chức.
Tác giả Rorbert J. Mockler chia kiểm tra thành bốn bước:
Xác định tiêu chuẩn (chuẩn mực) và phương hướng đo lường thành
tựu, các tiêu chuẩn thành tựu phải đủ tường minh để các thành viên liên quan
lĩnh hội được một cách dễ dàng, thống nhất. Phương pháp đo lường chuẩn
mực phải đảm bảo so sánh chính xác và công bằng giữa thành tựu với chuẩn
mực đặt ra.
Đo lường thành tựu là một quá trình lặp đi lặp lại và diễn biến liên tục,
với tần xuất thực hiện phụ thuộc vào các dạng hoạt động và cấp độ quản lý
khác nhau. Xác định mức độ đáp ứng phù hợp của thành tựu so với tiêu chuẩn
hoặc chuẩn mực đồng thời tiến hành những hoạt động uốn nắn, sửa chữa. Khi
phát hiện những sai lệch của thành tựu so với tiêu chuẩn/ chuẩn mực đề ra,
các nhà quản lý có thể điều chỉnh các sai lệch bằng cách thay đổi các hoạt
động của từng cá nhân thành viên hay các nhiệm vụ - hoạt động của một bộ
phận nào đó trong tổ chức, hoặc là sửa đổi các chuẩn mực của thành tựu nếu
thấy chúng không thể thực hiện được. Kiểm tra là một chức năng quản lý
thông qua đó một cá nhân, tổ chức theo dõi giám sát các thành quả hoạt động,
và tiến hành các hoạt động sửa chữa, điều chỉnh cần thiết. Một kết quả hoạt
động phải phù hợp với những chi phí bỏ ra, nếu không tương ứng thì phải tiến
hành điều chỉnh, uốn nắn. Đó chính là quá trình tự điều chỉnh diễn ra mang
tính chu kỳ. Người quản lý đặt ra các chuẩn mực thành đạt của hoạt động;
người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả, sự thành đạt đó so với các chuẩn
20
mực đã đặt ra; người quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch; người quản
lý có thể hiệu chỉnh sửa lại các chuẩn mực nếu thấy cần.
Bốn chức năng cơ bản của quản lý có quan hệ mật thiết hữu cơ với
nhau, biện chứng với nhau, cả bốn chức năng trên đều được triển khai khi tiến
hành các hoạt động quản lý.
Tóm lại: Con người là độc đáo và phức tạp, họ có thể hoặc là đóng góp
cho sự tiến bộ của tổ chức hay là nguyên nhân làm cho tổ chức bị tiêu huỷ.
Do đó, quản lý vừa là một khoa học vừa có tính nghệ thuật, nó đóng một vai
trò vô cùng quan trọng trong mọi hoạt động của đời sống con người. Quản lý
là sự chi phối và dẫn dắt mọi hoạt động của cá nhân, tổ chức đi đến một đích
nhất định trong từng giai đoạn, hay xuyên suốt thời gian – không gian và ở đó
tồn tại những đối tượng điều khiển được và cả những đối tượng không điều
khiển được.
1.2.4.3 Quản lý giáo dục, quản lý nhà trường 1ển được.
Theo Trần Khánh Đức quản lý nhà trường (cơ sở giáo dục) là một bộ
phận trong quản lý giáo dục. Trường học là tổ chức giáo dục mang tính chất
nhà nước - xã hội, trực tiếp làm công tác giáo dục - đào tạo, thực hiện chức
năng giáo dục cho thế hệ đang dần lớn lên. Nhà trường là tế bào cơ sở, là đối
tượng quản lý của tất cả các cấp quản lý giáo dục từ trung ương đến các địa
phương. Đồng thời nhà trường lại là một tổ chức giáo dục có tính độc lập
tương đối và tự quản của xã hội. Do đó quản lý trường học nhất thiết phải có
tính nhà nước, tính xã hội và tính sư phạm [13].
Trong tác phẩm “Cơ sở lý luận của khoa học quản lý giáo dục”
M.I.Kônđacốp đã viết: Không đòi hỏi một định nghĩa hoàn chỉnh, chúng ta
hiểu quản lý nhà trường là một hệ thống xã hội – sư phạm chuyên biệt. Hệ
thống này đòi hỏi những tác động có ý thức, có kế hoạch và hướng đích của
chủ thể quản lý đến tất cả các mặt của đời sống nhà trường, nhằm đảm bảo sự
21
vận hành tối ưu về các mặt xã hội – kinh tế, tổ chức – sư phạm của quá trình
dạy học và giáo dục thế hệ đang trưởng thành.
Quản lý các hoạt động giáo dục trong nhà trường chính là xây dựng
một quan hệ hợp lý giữa các hình thức công tác tập thể đối với các học sinh
và giáo viên. Do con đường giáo dục lâu dài, đặc biệt hàm xúc về trí tuệ và
cảm xúc, do các tình huống trong đời sống nội tại, tâm hồn, đời sống tập thể
trong nhà trường có sự biến đổi liên tục. Tất cả những cái đó đặt ra yêu cầu
cao đối với việc quản lý nhà trường, việc tổ chức hợp lý các quá trình giáo
dục – đào tạo, việc xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật tổ chức sư phạm và các
điều kiện khác của lao động, của giáo viên và học sinh.
Quản lý trực tiếp trường học bao gồm quản lý quá trình dạy học, giáo
dục, tài chính, nhân lực, hành chính và quản lý môi trường giáo dục. Nhà
quản lý ở mỗi loại hình nhà trường. Ở mỗi bậc học sẽ phải đảm bảo vấn đề
cốt yếu đó là: xác định mục tiêu quản lý của nhà trường, xác định cụ thể các
mục tiêu quản lý.
Trong quản lý và thực tiễn quản lý nhà trường gồm 2 loại quản lý:
Một là: Quản lý của chủ thể bên trên và bên ngoài nhà trường nhằm
định hướng cho nhà trường, tạo điều kiện cho nhà trường hoạt động và phát
triển.
Hai là: Quản lý của chính chủ thể bên trong nhà trường, hoạt động tổ
chức các chủ trương, chính sách giáo dục thành các kế hoạch hoạt động. tổ
chức, chỉ đạo và kiểm tra để nhà trường đạt tới những mục tiêu đã đề ra.
Mục tiêu quản lý của nhà trường thường được cụ thể hóa trong kế
hoạch năm học, những mục tiêu này là các nhiệm vụ chức năng mà tập thể
nhà trường thực hiện suốt năm học. Trên cơ sở hoạch định các mục tiêu
một cách cụ thể, quản lý nhà trường phải cụ thể hóa cho từng mục tiêu.
Những nội dung này là sức sống cho mục tiêu, là điều kiện để mục tiêu trở
thành hiện thực.
22
Hiện nay các nhà quản lý trường học quan tâm đến các thành tố mục
tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lý và kết quả, đó là các thành tố
trung tâm của quá trình sư phạm, nếu quản lý và tác động hợp quy luật sẽ đảm
bảo cho một chất lượng tốt trong nhà trường.
Các nghiên cứu về tổ chức trường học đã khái quát những nhân tố cấu
trúc cần quan tâm khi tổ chức nhà trường như dưới đây.
Nhóm nhân tố thứ nhất:
Mục tiêu đào tạo (M) chịu sự quy định của mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội.
Nội dung đào tạo (N) được xác định từ mục tiêu đào tạo và thành quả
của khoa học kỹ thuật, văn hóa.
Phương pháp đào tạo (P) được hình thành từ thành quả của khoa học
giáo dục và quy định bởi mục tiêu, nội dung giáo dục.
Nhóm nhân tố thứ hai:
Lực lượng đào tạo (Người dạy – Th) trong mối quan hệ với lao động
xã hội của đất nước và cộng đồng.
Đối tượng đào tạo (Người học – Tr) trong mối quan hệ với dân số học
đường (các độ tuổi tương ứng với cấp học, bậc học).
Nhóm nhân tố thứ ba:
Hình thức tổ chức đào tạo (H).
Điều kiện đào tạo (Đ).
Môi trường đào tạo (môi trường tự nhiên và môi trường xã hội)-Mô.
Bộ máy đào tạo (Bô).
Quy chế đào tạo(Qi).
Có thể bố trí mười nhân tố trên trong một hình sao (để dễ hình dung)
mà nút bấm quản lí ở trung tâm ngôi sao (sơ đồ 1.1). Quản lí liên kết các nhân
tố làm cho chúng vận động tạo ra sự phát triển toàn vẹn của quá trình đào tạo.
23
Sơ đồ: 1.1. Sơ đồ mối liên hệ các yếu tố cấu thành quản lý NT
Hiện nay, các nhà quản lí trường học quan tâm nhiều đến các thành
tố mục tiêu, nội dung, phương pháp, tổ chức quản lí và kết quả; đó là các
thành tố trung tâm của quá trình sư phạm, quá trình giảng dạy. Nếu quản lí và
tác động hợp qui luật sẽ đảm bảo cho một chất lượng tốt trong nhà trường.
Quản lý nhà trường mà trong đó có quản lý đào tạo được hiểu là quản
lý mức độ đạt được mục tiêu giáo dục và thoả mãn nhu cầu của người học; là
quản lý kết quả của quá trình giáo dục được biểu hiện ở mức độ nắm vững
kiến thức, hình thành những kỹ năng tương ứng, những thái độ cần thiết và
được đo bằng các chuẩn mực xác định.
1.2.5. Quản lý hoạt động liên kết đào tạo
+ Quản lý cơ sở vật chất(CSVC) và các nguồn lực tạo nên sự vận
hành và phát triển hoạt động liên kết đào tạo theo quy định của pháp luật.
+ Xây dựng, củng cố các cơ cấu cần thiết giữa các bên tham gia liên
kết và các lực lượng hữu quan có điều kiện tham gia trực tiếp vào tất cả các
hoạt động liên kết.
24
M : Mục tiêu đào tạo.
N : Nội dung đào tạo.
P : Phương pháp ĐT.
Th : Thày – Lực lượng đào tạo.
Tr: Trò – Đối tượng đào tạo.H : Hình thức đào
tạo.
Đ : Điều kiện đào tạo.
Mô : Môi trường ĐT.
Bô : Bộ máy đào tạo.
Qi : Quy chế đào tạo.
Đ
Quả
n
lý
H
M
Bô
Th
Tr
Mô
Qi
N
P
+ Nâng cao trách nhiệm và quyền hạn của các bên tham gia vào quá
trình liên kết kể cả cải tiến nội dung, phương pháp dạy học phù hợp với đặc
điểm cụ thể của thời điểm liên kết.
+ Quản lý hoạt động giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục
khác theo mục tiêu chương trình giáo dục trên cơ sở quản lý nhà giáo, cán
bộ, nhân viên tuyển sinh và quản lý người học.
+ Quản lý môi trường sư phạm trong nhà trường và xây dựng nhà
trường thành hệ thống mở nhằm xã hội hoá và công khai hoá các hoạt động
giáo dục, đào tạo của nhà trường hướng vào các mục tiêu cấp học.
+ Quản lý và hoàn thiện hệ thống thông tin giữa các lực lượng chủ
thể và khách thể trong và ngoài nhà trường, phục vụ cho hoạt động dạy,
học và thiết chế đánh giá kết quả hoạt động sư phạm của nhà trường.
1.3. Trường Cao đẳng trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.3.1. Nhiệm vụ nhà trường
Nhà trường có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
- Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục
tiêu, chương trình giáo dục; xác nhận hoặc cấp văn bằng, chứng chỉ
theo thẩm quyền;
- Tuyển dụng, quản lý nhà giáo, cán bộ, nhân viên; tham gia vào quá
trình điều động của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đối với
nhà giáo, cán bộ, nhân viên;
- Tuyển sinh và quản lý người học;
- Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực theo quy định của pháp luật;
- Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật theo yêu cầu chuẩn hóa; hiện đại hóa
- Phối hợp với gia đình người học, tổ chức, cá nhân trong hoạt động giáo
dục;
- Tổ chức cho nhà giáo, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các
hoạt động xã hội;
25