Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến việc làm của người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.03 KB, 104 trang )

MỤC LỤC
Danh mục từ viết tắt i
Danh mục bảng biểu ii
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Số thứ tự Ký hiệu Nguyên nghĩa
1 CCKT Cơ cấu kinh tế
2 CM- KT Chuyên môn kỹ thuật
3 CN- XD Công nghiệp- Xây dựng
4 CN và DV Công nghiệp và dịch vụ
5 CNH, HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
6 GQVL Giải quyết việc làm
7 KCN Khu công nghiệp
8 KT- XH Kinh tế- xã hội
9 NSNN Ngân sách Nhà nước
10 TB- XH Thương binh- Xã hội
11 TM- DV Thương mại- Dịch vụ
12 UBND Ủy ban nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
STT Số hiệu Tên bảng Trang
1 2.1 Cơ cấu giá trị sản xuất theo ngành 44
2 2.2 Nhu cầu sử dụng lao động của các doanh nghiệp
năm 2012
49
3 2.3 Ngành nghề mới và việc làm được tạo ra tính đến
9/2012
52
4 2.4 Cơ cấu lao động theo ngành 53
5 2.5 Cơ cấu lao động theo trình độ chuyên môn kỹ
thuật
55


6 2.6 Khảo sát nhu cầu tiêu dùng của người dân huyện
Quốc Oai
59
7 2.7 Cơ cấu thu nhập của người lao động huyện Quốc
Oai phân theo ngành nghề
62
8 2.8 Thực trạng việc làm trước và sau khi thu hồi đất 64
9 2.9 Cơ cấu lao động theo giới và nhóm tuổi của lao
động huyện Quốc Oai
66
10 2.10 Tình hình tệ nạn xã hội trên địa bàn huyện Quốc
Oai
69
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn là
một quá trình tất yếu để chuyển một nền nông nghiệp lạc hậu thành một nền
nông nghiệp hiện đại. Trên thế giới, quá trình này diễn ra và đã thành công ở
nhiều nước. Ở Việt Nam, cho đến nay, nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế quan
trọng, đóng góp khoảng 20% trong GDP và là nguồn tạo việc làm cho khoảng
50% lao động xã hội, và nông thôn vẫn là địa bàn sinh sống của gần 70% dân
cư. Tuy nhiên, một quốc gia không thể phát triển mạnh nếu chỉ dựa chủ yếu
vào sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhiệm vụ chiến lược, có tầm quan
trọng đặc biệt cả trước mắt cũng như lâu dài. Tại Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X chỉ rõ: “Nông nghiệp,
nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị, bảo
đảm an ninh, quốc phòng…Các vấn đề nông nghiệp, nông thôn phải được giải
quyết đồng bộ gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa đất nước…Giải

quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của hệ thống
chính trị và toàn xã hội [12] ”.
Sau gần 30 năm đổi mới nền kinh tế, nông nghiệp đã có sự phát triển
vượt bậc giúp cho Việt Nam từ chỗ là một nước nhập khẩu lương thực đã trở
thành một trong những quốc gia hàng đầu về sản xuất và xuất khẩu lúa gạo.
Đặc biệt, tỷ lệ nghèo đói ở khu vực nông thôn giảm nhanh, mức sống chung
của đông đảo người dân cũng đã được cải thiện; đời sống kinh tế- xã hội ở
nông thôn đã có những chuyển biến quan trọng trên con đường hình thành và
phát triển một nông thôn mới, hiện đại.
Tuy nhiên, trong quá trình CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn nói riêng cũng kéo theo nhiều hệ lụy, làm nảy sinh nhiều
vấn đề bất cập đe dọa đến sự phát triển trong tương lai của nông nghiệp, nông
thôn, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang hội nhập ngày càng sâu vào nền
kinh tế thế giới. Có thể kể đến một số bất cập lớn như: chất lượng và hiệu quả
tăng trưởng kinh tế nông nghiệp thấp, năng lực cạnh tranh quốc tế của các mặt
hàng nông sản Việt Nam hạn chế, và đặc biệt là tình trạng lao động thuần
nông bị mất việc làm ngày càng gia tăng…Tất cả những điều đó đang trở
thành những vấn đề quan trọng cần được đặt lên hàng đầu để giải quyết vấn
đề kinh tế- xã hội có tính toàn cầu là giải quyết việc làm cho người lao động.
Quốc Oai là một huyện ngoại thành Hà Nội. Cùng với quá trình phát
triển chung của cả nước, của toàn thành phố thì kinh tế- xã hội của Huyện
cũng đang phát triển rất sôi động. Với những thành tựu đạt được trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, nông dân
huyện Quốc Oai cũng phải chịu sức ép nặng nề của quá trình đó. Đó là: diện
tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp, phân hóa giàu nghèo ngày càng xa,
ô nhiễm môi trường ngày càng nặng, …và đặc biệt là tình trạng thất nghiệp,
thiếu việc làm gia tăng, theo đó là sự tăng lên của các tệ nạn xã hội.
Để giải quyết vấn đề này, chính quyền địa phương cũng đã thực hiện
nhiều giải pháp: đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, cụm công nghiệp; phát
triển các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đẩy mạnh chuyển

dịch cơ cấu kinh tế, tạo mở việc làm mới, Dù vậy, thất nghiệp và thiếu việc
làm đối với lao động nông thôn vẫn đang và sẽ tiếp diễn rất phức tạp cùng với
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Vậy nên, việc tìm ra những giải pháp hiệu
quả để thúc đẩy các tác động tích cực, hạn chế các tác động tiêu cực của
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những yêu cầu cấp thiết đối
với cả nước nói chung và huyện Quốc Oai nói riêng.
Từ cách đặt vấn đề trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Tác động của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến việc làm của người
lao động (Nghiên cứu trường hợp huyện Quốc Oai, Hà nội)” làm luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ kinh tế chính trị của mình.
Câu hỏi nghiên cứu của luận văn là: CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
đã tác động thế nào đến việc làm của người lao động tại huyện Quốc Oai? Và
chính quyền Huyện đã và sẽ phải làm gì để hạn chế tác động đó?
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình, bài viết về CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn cũng như về tác động của CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn ở các góc độ, khía cạnh khác nhau. Trong đó, các công trình tiêu
biểu liên quan trực tiếp đến nội dung luận văn có thể chia thành 2 nhóm:
Nhóm 1, gồm những bài nghiên cứu về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
và nhóm 2, là những bài viết về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
trong quá trình CNH ở Việt Nam và tại các địa phương.
Các công trình nghiên cứu thuộc nhóm 1 có thể kể đến là:
- Những vấn đề kinh tế- xã hội ở nông thôn trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, của Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý
luận chính trị, Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà nội,
2010. Cuốn sách là tuyển tập các bài viết của các giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ,
các nhà nghiên cứu đầu ngành của cả nước về vấn đề “ Tam nông” mà hiện
nay đang rất được quan tâm: GS. TS Chu văn Cấp với bài “Một số vấn đề xã
hội nảy sinh từ tác động của chính sách thu hồi đất đai đối với nông dân
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”; TS. Dương văn Duyên: “Một

số vấn đề về lối sống văn hóa ở nông thôn nước ta trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” hay là bài viết “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất” của Thạc sỹ Nguyễn thị Thu
Hoài,…Các bài viết đã phân tích những tác động tích cực cũng như những hệ
lụy không thể tránh khỏi của quá trình CNH, HĐH nói chung, quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng tới việc làm, đời sống của người lao
động ở nông thôn Việt Nam; một số bài viết khác như: “ Quan điểm và giải
pháp đảm bảo việc làm, thu nhập và đời sống cho người dân bị thu hồi đất
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa” của Vũ Trường Giang; “ Đào
tạo nghề cho nông dân- yêu cầu cấp bách của quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” của PGS. TS Bùi Thị Ngọc Lan,… thì lại tập trung đưa ra và
phân tích một số giải pháp cho những vấn đề đang tồn tại trong nông nghiệp,
nông thôn; ngoài ra, còn một số các bài viết phân tích về vai trò, quan điểm,
chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp phát triển nông
nghiệp, nông thôn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn từ lý luận
tới thực tiễn ở Việt nam hiện nay” của Phạm Ngọc Dũng (Chủ biên), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011. Trong cuốn sách này, các tác giả đưa ra
khái niệm về công nghiệp hóa, chỉ ra những đặc điểm của công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay. Các tác giả có một cái nhìn xâu chuỗi về
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiêp, nông thôn từ Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ III (1960) đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
(2011). Từ định hướng của Đảng về quan hệ công – nông nghiệp, qua các Đại
hội và các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, các tác giả làm rõ sự
thay đổi tư duy lãnh đạo của Đảng qua các thời kỳ.
Từ việc trình bày các chủ trương của Đảng và Nhà nước về vấn đề
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, các tác giả cũng chỉ rõ
thực trạng một số vấn đề xã hội bức xúc nảy sinh trong thực hiện công nghiệp
hóa ở nông thôn Việt Nam như: tình trạng thất nghiệp, thiếu việc làm, phân
hóa giàu - nghèo, bất bình đẳng xã hội, ô nhiễm môi trường và suy thoái văn

hóa ở nông thôn. Các tác giả đã đề xuất các giải pháp chung, và các giải pháp
cụ thể để khắc phục các bức xúc trên.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở Bắc Trung
Bộ( qua khảo sát các tỉnh Thanh- Nghệ- Tĩnh) của Mai Thị Thanh Xuân,
NXB Chính trị Quốc Gia, Hà Nội, 2004. Trong cuốn sách này tác giả đã trình
bày những vấn đề lý luận cơ bản nhất về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
Qua nghiên cứu thực trạng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở các tỉnh
Thanh- Nghệ- Tĩnh, đưa ra những đánh giá chung về thành tựu cũng như hạn
chế mà các tỉnh này đạt được để từ đó đưa ra những định hướng, mục tiêu và
các giải pháp chủ yếu để thúc đẩy tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở các tỉnh trên.
Một số công trình thuộc nhóm thứ hai gồm có:
- Giải quyết việc làm cho lao động ở khu vực nông thôn ở Hà Nội, của
Phạm Thị Thanh Hương, luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Đại học quốc gia
Hà nội, 2010. Luận văn đưa ra những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thực tiễn
giải quyết việc làm ở một số tỉnh trên cả nước. Đưa ra thực trạng giải quyết
việc làm ở khu vực Hà Nội đồng thời đề xuất những định hướng và giải pháp
để khắc phục những hạn chế còn tồn tại đối với vấn đề giải quyết việc làm
cho lao động ở khu vực nông thôn Hà nội trong thời gian tới.
- Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, của Phạm Mạnh Hà, luận án tiến sỹ kinh
tế chính trị, Học viện chính trị hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2012. Luận
án đã đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đánh giá thực trạng
giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Ninh Bình trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời gian qua đồng thời đưa ra những phương
hướng chủ yếu và giải pháp cơ bản giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn tỉnh Ninh Bình trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đến năm 2020.
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của Nguyễn Hữu Dũng,
Trần Hữu Trung, Nxb Chính trị quốc gia,1997. Các tác giả đã phân tích vị trí,

vai trò của chính sách việc làm trong hệ thống chính sách xã hội ở Việt nam,
đồng thời đưa ra các khái niệm về lao động, thị trường lao động, việc làm,
thực trạng vấn đề việc làm ở Việt nam và phương hướng giải quyết, khuyến
nghị, định hướng một số chính sách cụ thể về việc làm và mô hình tổng quát
về chương trình quốc gia xúc tiến việc làm.
- Dạy nghề cho nông dân là giải pháp quan trọng phát triển tam nông
bền vững, của Cao Văn Sâm, Tạp chí Lao động xã hội số tháng 9/ 2012. Trên
cơ sở số liệu thực tế đạt được tại các vùng nông thôn, bài viết đánh giá những
thành tựu căn bản đạt được ở khu vực nông nghiệp nông thôn trong quá trình
CNH, HĐH, trong đó, phân tích sâu phương diện chất lượng nguồn nhân lực
và chất lượng đời sống nông dân. Bài viết cho rằng để làm tăng thêm hiệu quả
của những chủ trương, chính sách, đề án của Đảng và Nhà nước thì dạy nghề
cho nông dân là một giải pháp cần phải đặc biệt quan tâm. Đồng thời tác giả
cũng đã đưa ra một số những khó khăn, thách thức gặp phải khi thực hiện chủ
trương này.
Nhìn chung, các công trình trên đã nêu ra được những vấn đề lý luận và
thực tiễn của CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn; việc làm và thị trường lao
động; thực trạng và những giải pháp để giải quyết vấn đề việc làm cho người
lao động ở nông thôn. Đó là nguồn tài liệu quý giá để chúng tôi kế thừa trong
quá trình thực hiện luận văn này. Tuy vậy, vấn đề tác động của quá trình
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tới việc làm của người lao động nhất là
tại địa bàn huyện Quốc Oai thì vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu một
cách toàn diện và hệ thống. Đây là khoảng trống kiến thức mà luận văn này
mong muốn tìm hiểu và giải đáp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là từ sự nghiên cứu, phân tích tác động của quá
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tới việc làm của nông dân đặc biệt
là tại huyện Quốc Oai, đề xuất những quan điểm, định hướng và giải pháp hạn
chế tác động tiêu cực của CNH, HĐH đến việc làm của người lao động trên

địa bàn huyện.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa và bổ sung, phát triển, làm rõ thêm những căn cứ lý
luận, kinh nghiệm thực tiễn về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
trong quá trình CNH, HĐH.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tác động của CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn đến việc làm của người lao động tại huyện Quốc Oai từ năm 2008
đến năm 2012; chỉ ra những hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân cơ bản
của những hạn chế, yếu kém đó.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng chủ yếu và một số giải pháp
cơ bản giải quyết việc làm cho lao động nông thôn huyện Quốc Oai trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến
năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là tác động của quá trình CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn đến việc làm của người lao động nói chung và
của huyện Quốc Oai nói riêng. Cùng với đó là những chính sách, biện pháp
của Đảng bộ và chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm cho người
lao động chịu tác động của quá trình này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn và tác động của nó tới việc làm của người lao động.
- Phạm vi không gian: luận văn tập trung nghiên cứu nội dung trên tại
huyện Quốc Oai. Tuy nhiên, luận văn cũng nghiên cứu tại một số địa phương
trong nước để học tập kinh nghiệm trên cả hai mặt: tác động tích cực và tác
động tiêu cực.
- Phạm vi thời gian: từ khi Hà Tây sáp nhập vào với Hà Nội (2008) đến nay
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính sách của
Nhà nước Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Phương pháp chung của luận văn là sử dụng: luận văn dựa trên
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử và phương pháp trừu tượng hóa khoa học.
- Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng một số phương pháp cụ thể khác, như:
+ Phương pháp thống kê- so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp này
để thống kê về thực trạng lao động nông thôn trong huyện cơ cấu làm việc
trong những ngành nghề nào, trình độ lao động,…
+ Phương pháp phân tích - tổng hợp: Luận văn trên cơ sở phân tích,
chia ra thành nhiều lĩnh vực khác nhau để từ đó tổng hợp lại, đưa ra những
đánh giá khái quát tới cụ thể nhất về tình hình việc làm của lao động nông
thôn trong huyện.
6. Đóng góp mới của luận văn
- Hệ thống hóa và làm rõ thêm những vấn đề lý luận dưới góc độ kinh
tế học chính trị về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và tác động của nó tới
việc làm của người lao động đặc biệt là đối với nông dân.
- Đánh giá tác động của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp nông thôn tới việc làm của nông dân trên địa bàn huyện Quốc Oai
trong thời gian qua trên cả hai mặt: tác động tích cực và tác động tiêu cực;
những biện pháp của chính quyền địa phương trong giải quyết việc làm cho
người lao động, rút ra những hạn chế trong vấn đề này và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất quan điểm, định hướng và một số giải pháp hạn chế tác động
tiêu cực của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
tới việc làm của nông dân và nâng cao hiệu quả công tác giải quyết việc làm
cho nông dân trên địa bàn huyện trong thời gian tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

luận văn gồm 3 chương, 8 tiết:
Chương 1: Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn đến việc làm của người lao động: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn
Chương 2: Thực trạng tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn đến việc làm của người lao động tại huyện Quốc Oai
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hạn chế tác động tiêu cực của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đến việc làm của người
lao động tại huyện Quốc Oai
Chương 1
TÁC ĐỘNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG
NGHIỆP, NÔNG THÔN ĐẾN VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Những vấn đề chung về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
1.1.1. Khái niệm và tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Đã có nhiều người nghiên cứu về vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn dưới những góc độ khác nhau cho nên cách hiểu về
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng có sự khác nhau ít nhiều. Tuy vậy,
các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng: công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn là một khái niệm rộng, liên quan đến bốn khái niệm
khác nhau nhưng lại có mối quan hệ với nhau rất chặt chẽ.
Công nghiệp hóa nông nghiệp là quá trình chuyển nền nông nghiệp
truyền thống, lạc hậu sang nền nông nghiệp hàng hóa lớn gắn với thị trường,
dưới tác động của công nghiệp còn Công nghiệp hóa nông thôn là quá trình
biến đổi nền kinh tế nông thôn thuần nông sang nền kinh tế công nghiệp- dịch
vụ, và cùng với nó là lối sống nông nghiệp chuyển sang lối sống công nghiệp
Công nghiệp hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn là hai

phạm trù có mối quan hệ với nhau, trong đó, công nghiệp hóa nông thôn bao
hàm cả công nghiệp hóa nông nghiệp; còn công nghiệp hóa nông nghiệp chỉ
là một mặt và là mặt chủ yếu của công nghiệp hóa nông thôn. Hay nói cách
khác thì công nghiệp hóa nông nghiệp mới chỉ phản ánh được một lĩnh vực
của công nghiệp hóa nông thôn là nông nghiệp. Thực ra công nghiệp hóa
nông thôn còn phản ánh sự phát triển của các ngành kinh tế khác trên địa bàn
nông thôn.
Hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình ứng dụng những tiến bộ khoa
học công nghệ tiên tiến vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao
năng suất, chất lượng và hiệu quả còn Hiện đại hóa nông thôn là quá trình
biến đổi cơ cấu kinh tế nông thôn từ trạng thái kinh tế thuần nông thành khu
vực nông thôn phát triển toàn diện, hiện đại dựa trên nền tảng của sự phát
triển khoa học công nghệ, phân công lao động và hợp tác quốc tế.
Giữa hiện đại hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn có sự khác
nhau nhất định. Nếu hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình làm tăng năng suất
lao động, tăng chất lượng và giá trị sản phẩm nông nghiệp, thì hiện đại hóa
nông thôn, ngoài việc đó ra còn phải tạo sự phát triển của công nghiệp, dịch
vụ và mọi mặt của đời sống kinh tế- xã hội nông thôn như: phát triển hệ thống
điện, đường, trường, trạm,…và cả đời sống văn hóa- tinh thần.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung Ương Đảng
khóa IX đã chỉ ra nội dung tổng quát của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
gồm hai quá trình là: công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn. Văn kiện ghi: “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường;
thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu khoa
học công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học, đưa thiết bị, kỹ thuật và công
nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất,
chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa trên thị trường.
CNH, HĐH nông thôn là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo

hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công
nghiệp và dịch vụ; giảm dần tỷ trọng và lao động nông nghiệp; xây dựng kết
cấu hạ tầng kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi
trường sinh thái; tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp;
xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [14]”.
Như vậy, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một
khái niệm ghép, và có thể hiểu đó là quá trình hoàn thiện phương thức tổ
chức, phương thức quản lý và ứng dụng tiến bộ khoa học- công nghệ vào hoạt
động sản xuất kinh doanh, nhằm xóa bỏ cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông
thôn truyền thống, xây dựng cơ cấu kinh tế và kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội
nông thôn hiện đại, đưa nông thôn phát triển nhanh và bền vững.
1.1.1.2. Tính tất yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Mỗi phương thức sản xuất xã hội chỉ có thể được xác lập vững chắc
trên cơ sở vật chất- kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất- kỹ thuật của một xã
hội là toàn bộ các yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với
trình độ kỹ thuật tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất
ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu xã hội. Nhiệm vụ quan trọng nhất của
nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội không qua chủ nghĩa tư bản
là phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, trong đó công
nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Muốn thực
hiện thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên, nhất thiết phải tiến hành công
nghiệp hóa, tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh tế công
nghiệp, chuyển nông thôn truyền thống thành nông thôn văn minh, hiện đại.
Đại hội lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định : “ Từ
nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp [13]”. Để đạt được mục tiêu đó, thực hiện CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là điều tất yếu. Đó là do:
Thứ nhất, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo tiền đề và cơ sở

vững chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình CNH, HĐH nền kinh tế đất nước . Ở các
nước chậm và đang phát triển trong đó có Việt Nam, nguồn đóng góp của
nông nghiệp vào GDP là rất quan trọng để phát triển kinh tế. Nếu như không
có các dòng đầu tư nước ngoài, chiến lược phát triển công nghiệp ở các nước
này trong giai đoạn đầu tất nhiên phải dựa vào tích luỹ từ nông nghiệp. Hơn
nữa, khi nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được nâng cao thì họ mới
có sức mua để tiêu thụ hàng hoá công nghiệp và dịch vụ nội địa. Do vậy,
riêng đối với Việt Nam, là một đất nước đang phát triển, để thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH nền kinh tế đất nước thì ta phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH
nông nghiệp nông thôn.
Mặt khác, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là mũi đột phá quan
trọng nhằm giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân, tạo điều kiện khai
thác tốt nhất tiềm năng dồi dào về đất đai và lao động. Việt Nam có nguồn lao
động dồi dào, đây là một lợi thế tương đối quan trọng để tiến hành CNH,
HĐH ở nông thôn. Ngược lại, khi quá trình đó diễn ra, nó lại giải phóng sức
lao động ở nông thôn tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động. Ngoài lợi
thế về nguồn lao động thì nước ta có một nguồn tài nguyên về đất đai vô cùng
phong phú, trước đây mới chỉ khai thác bằng những kỹ thuật lạc hậu, qua kinh
nghiệm lâu đời. Thực hiện CNH, HĐH nông thôn ta có thể khai thác tốt nhất
tiềm năng về đất đai để phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ hai, do vai trò của nông nghiệp, nông thôn trong phát triển kinh
tế- xã hội.
Nông nghiệp, nông thôn có vai trò rất quan trọng trong phát triển KT-
XH, nhất là đối với một nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu như Việt Nam.
Các vai trò cơ bản của nông nghiệp, nông thôn là: cung cấp lương thực- thực
phẩm cho xã hội; cung cấp nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến sản
phẩm; cung cấp nguồn nhân lực cho công nghiệp và dịch vụ; tích lũy vốn cho
nền kinh tế và là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho CN và DV. Các vai trò đó sẽ
được nâng cao nếu nông nghiệp và nông thôn được CNH, HĐH. Cụ thể:
+ CNH, HĐH nông nghiệp sẽ làm tăng sản lượng lương thực, thực

phẩm, do đó việc thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng được
nâng cao.
Nhu cầu lương thực là nhu cầu cơ bản, hàng đầu của con người. Xã hội
có thể thiếu nhiều loại sản phẩm nhưng không thể thiếu lương thực, thực
phẩm đặc biệt là với một nước có truyền thống tiêu dùng lúa gạo như Việt
Nam. Do đó, việc thoả mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành
điều kiện khá quan trọng để ổn định kinh tế, chính trị, xã hội, nhờ đó thúc đẩy
nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn. Nhưng sự phát triển đó
của nông nghiệp chỉ có thể có được khi nó được CNH, HĐH.
+ CNH, HĐH NN sẽ làm tăng nguồn nguyên liệu cung cấp cho công
nghiệp chế biến, nhờ đó, công nghiệp sẽ có cơ hội phát triển nhanh hơn.
Các ngành công nghiệp nhẹ như : chế biến lương thực thực phẩm, chế
biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường … phải dựa vào nguồn nguyên
liệu chủ yếu là nông nghiệp. Quy mô, tốc độ tăng trưởng của các nguồn
nguyên liệu là nhân tố quan trọng quyết định quy mô, tốc độ tăng trưởng của
các ngành công nghiệp này. Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn còn là địa bàn
rộng lớn tiêu thụ các sản phẩm của công nghiệp từ tư liệu sản xuất, vật tư thiết
bị đến các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng; là nơi cung cấp nguồn
nhân lực dồi dào cho các ngành công nghiệp nhẹ và dịch vụ.
Bên cạnh đó, khi nông nghiệp, nông thôn được CNH, HĐH, năng suất
lao động nông nghiệp tăng lên, một bộ phận lao động nông nghiệp được giải
phóng. Đây là nguồn lao động bổ sung quan trọng cho các hoạt động CN và
DV. Do vậy, cơ cấu lao động ở nông thôn sẽ có sự chuyển dịch theo hướng
hiện đại.
+ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ làm tăng sản lượng và giá trị
hàng hóa đặc biệt là giá trị kim ngạch xuất khẩu, nhờ đó, phần đóng góp vốn
của nông nghiệp, nông thôn cho nền kinh tế ngày càng cao.
Công nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một mặt
sẽ cho phép khai thác triệt để và có hiệu quả tiềm năng của nông, lâm, ngư

nghiệp nhằm tạo ra giá trị thu nhập cao mặt khác sẽ tạo ra hàng hóa có giá trị
gia tăng cao, do đó tổng giá trị hàng hóa nông sản nói chung và giá trị kim
ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản sẽ tăng nhanh. Đây là nguồn vốn tích lũy
quan trọng cho quá trình CNH, HĐH.
+ Nông nghiệp, nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn của hàng hóa
CN và DV.
Một khi nông nghiệp và nông thôn được CNH, HĐH, đời sống của
người dân nông thôn được nâng cao, tất yếu sẽ làm tăng sức mua của thị
trường. Khi đó, CN và DV có cơ hội đẩy mạnh tiêu thụ hàng hóa tại thị
trường nông thôn. Vậy là, nông thôn đã thực sự trở thành động lực thúc đẩy CN
và DV mở rộng sản xuất, kinh doanh, nhờ đó, KT- XH cũng sẽ được phát triển.
+ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đời sống dân cư được nâng
cao, là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội
Nông thôn là khu vực kinh tế rộng lớn, tập trung phần lớn dân cư của
đất nước. Phát triển kinh tế nông thôn một mặt đảm bảo nhu cầu lương thực
thực phẩm cho xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ, là thị trường của CN
và DV … Mặt khác , phát triển kinh tế nông thôn trực tiếp nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho người dân nông thôn. Hơn thế nữa, cư dân nông thôn
chủ yếu là nông dân, người bạn đồng minh, là chỗ dựa đáng tin cậy của giai
cấp công nhân trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa. Phát triển nông nghiệp, nông thôn góp phần củng cố liên
minh công nông, tăng cường sức mạnh của chuyên chính vô sản.
1.1.2. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn
1.1.2.1. Trang bị kỹ thuật hiện đại cho sản xuất nông nghiệp và ngành
nghề ở nông thôn
Để trang bị kỹ thuật cho nông nghiệp và ngành nghề ở nông thôn,
CNH, HĐH có nội dung cơ bản là phải thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa,
thủy lợi hóa, sinh học hóa và tin học hóa.
Cơ khí hóa:

Trong hoạt động sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng các công cụ cơ
giới ngày càng hiện đại cũng là điều kiện trực tiếp để tăng năng suất lao động,
và do đó tăng thặng dư nông nghiệp. Việc sử dụng công cụ cơ giới cho nông
nghiệp trong tất cả các khâu từ sản xuất đến thu hoạch, vận chuyển và chế
biến không phải chỉ với mục tiêu tăng năng suất lao động, mà còn làm tăng
năng suất cây trồng. Bởi vì một khi năng suất lao động tăng lên, tính chất thời
vụ sẽ được đảm bảo và do đó cây sinh trưởng tốt hơn, khắc phục được những
thảm họa do khí hậu và thời tiết gây ra. Việc cơ khí hóa trong tất cả các khâu
của sản xuất nông nghiệp đều mang lai hiệu quả thiết thực. Ví dụ như trong
khâu làm đất nếu cày bừa bằng máy sẽ đảm bảo được độ sâu và độ mịn cần
thiết, cây trồng có cơ hôi hút được nhiều chất dinh dưỡng hơn, tạo ra sản
lượng cao hơn. Hay trong các khâu thu hoạch, vận chuyển và chế biến nếu
được cơ giới hóa thì cũng không chỉ làm tăng năng suất, đảm bảo tính thời vụ
mà còn tăng chất lượng sản phẩm, đồng thời hạn chế được hư hao thất thoát.
Đẩy mạnh cơ giới hóa sản xuất nông nghiệp còn có tác động đến
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn thông qua việc giải phóng
một bộ phận lao động nông thôn ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp để chuyển sang
các hoạt động ngoài nông nghiệp. Hơn nữa khi năng suất lao động tăng lên,
đất trồng sớm được giải phóng, do đó lại có thể tăng thêm mùa vụ, tăng sản
lượng và giá trị thu nhập. Với những tác động đó thì cơ khí hóa là một nội
dung quan trọng của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
Thủy lợi hóa:
Nước là một trong bốn điều kiện và là điều kiện cơ bản nhất của sản
xuất nông nghiệp, đặc biệt là đối với nền nông nghiệp lúa nước như Việt
Nam. Năng suất cây trồng, vật nuôi cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào việc
có cung cấp đầy đủ nước cho nó một cách thật sự khoa học hay không, bởi dù
công cụ lao động có hiện đại đến mấy, dù phân bón có tốt đến mấy mà tưới
tiêu không chủ động được thì năng suất cây trồng vẫn bị hạn chế. Một ví dụ
điển hình là ở miền Trung Việt Nam do thường xuyên bị nắng hạn nên năng
suất cây trồng rất thấp, thậm chí nhiều năm còn bị mất mùa lớn. Nguyên nhân

chủ yếu là do không chủ động được nguồn nước tưới tiêu hợp lý.
Như vậy, muốn đạt hiệu quả sản xuất nông nghiệp cao cần phải phát
triển mạnh hệ thống thủy lợi, thủy nông để đảm bảo việc tưới tiêu chủ động,
khoa học. Nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn về mặt này có nhiệm
vụ quan trọng và cấp bách là phải tăng cường hệ thống trạm bơm, tu bổ hệ
thống kênh mương, hồ đập, hệ thống đập ngăn mặn để giải quyết về cơ bản
yêu cầu nước tưới và tiêu úng, thoát lũ cho các vùng nông nghiệp. Đối với
vùng sản xuất tập trung chuyên canh trên một diện tích rộng như trong các
trang trại cà phê, hồ tiêu, cam, chè…thì cần phải trang bị công nghệ hiện đại
như hệ thống các dàn phun mới đảm bảo được hệ thống tưới nước một cách
khoa học, mang lại hiệu quả cao hơn.
Điện khí hóa:
Đây là điều kiện để các công cụ cơ giới phát huy tác dụng. Ở Việt
Nam, vai trò của điện khí hóa nông thôn mặc dù đã được đặt ra khá lâu,
nhưng thực tế mới chỉ được ứng dụng một cách rộng rãi vào cuối thập kỷ 90
của thế kỷ XX, khi mạng lưới điện quốc gia đã về tới các vùng nông thôn
Thực hiện nội dung điện khí hóa nông thôn trong những năm trước
mắt là đẩy mạnh xây dựng các trạm điện với công suất khác nhau không chỉ
đến các huyện mà còn phải đến các xã, thôn. Đối với nông thôn vùng sâu,
vùng xa do có khó khăn về vốn và đường điện thì cần chú trọng phát triển các
loại máy phát điện cỡ nhỏ, động cơ điện dùng trong nông nghiệp và nông thôn.
Đây là một quá trình khó khăn, lâu dài nên phải thực hiện dần dần từng bước.
Sinh học hóa:
Sự phát triển của công nghệ sinh học có vai trò ngày càng lớn đối với
kinh tế nông nghiệp. Nó không chỉ có tác động đến việc cải tạo giống cây,
giống con hay tạo ra những giống mới có năng suất, chất lượng cao mà còn có
tác động to lớn đến khâu chế biến, bảo quản giá trị của sản phẩm. Vì vậy,
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn hiện nay có nội dung là: áp dụng nhanh
các thành tựu của cách mạng sinh học để tạo và nhân nhanh giống cây trồng,
vật nuôi đặc biệt là áp dụng thành tựu về giống có ưu thế lai như kỹ thuật cấy

truyền hợp tử, kỹ thuật gen hocmon sinh trưởng; áp dụng công nghệ sản xuất
các loại phân vi sinh cố định Nito để thay thế dần phân đạm hóa học; sản xuất
các chế phẩm vi sinh để bảo vệ cây trồng thay thế dần các loại hóa chất độc
hại cho cả người và gia súc,…
Tin học hóa:
Trong thời đại hiện nay khi công nghệ thông tin và mạng internet phát
triển như vũ bão thì việc đưa người nông dân tiếp cận với những phương tiện
này là một việc làm hết sức cần thiết. Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp
từ lâu đời, muốn hiện đại hóa thành công nông nghiệp, nông thôn thì không
chỉ hiện đại về mặt kết cấu hạ tầng, đưa máy móc kỹ thuật hiện đại vào trong
sản xuất mà phải đưa người nông dân tiếp cận với những tri thức mới, những
phương pháp sản xuất tiên tiến hiện đại thông qua việc truy cập thông tin từ
mạng internet- mạng thông tin toàn cầu. Đây sẽ là một nguồn thông tin, một
công cụ hữu hiệu để giúp cho nông dân Việt Nam không chỉ tìm ra cách thức
để tạo ra năng suất lao động cao hơn trong sản xuất nông nghiệp, mà còn giúp
họ tìm được thông tin tiêu thụ nông sản hàng hóa một cách bền vững.
1.1.2.2. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
hiện đại
Biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại là một quá trình căn bản
của sự phát triển. Một xu hướng biến đổi được coi là hợp lý, hiện đại khi tỷ
trọng giá trị của các ngành phi nông nghiệp, nhất là dịch vụ trong tổng sản
phẩm quốc dân ngày càng tăng còn tỷ trọng giá trị của nông, lâm nghiệp, thủy
sản ngày càng giảm; và trong nội bộ ngành nông nghiệp thì tỷ trọng giá trị
lâm nghiệp và thủy sản ngày càng tăng còn gía trị nông nghiệp thuần túy ngày
càng giảm.
Để tạo sự thay đổi tích cực trong cơ cấu kinh tế theo hướng đó, tiến
trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay phải thực hiện
nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển nền nông nghiệp độc canh sang nền nông nghiệp đa
canh đi đôi với hình thành các vùng sản xuất tập trung quy mô lớn

Tình trạng độc canh, thuần nông là đặc trưng của nền sản xuất nhỏ, tự
cấp tự túc. Hậu quả của nó là không tạo được một sức bật cho sự phát triển
nông thôn. Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, cơ cấu nông
nghiệp ở nước ta được bố trí theo ý đồ chủ quan, đưa ra những mô hình cây
trồng, vật nuôi thoát ly thực tế các mối quan hệ kinh tế, kỹ thuật, môi trường
và thể chế… do đó ít mang lại hiệu quả. Quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn đòi hỏi phải phá bỏ cơ cấu lạc hậu đó, hướng vào nền nông nghiệp
phát triển đa dạng về cây và con phù hợp với mọi điều kiện của nước ta.
Sự nghiệp CNH, HĐH đất nước đòi hỏi nông nghiệp phải thực hiện ba
nhiệm vụ lớn và trực tiếp là: bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, đảm bảo
tối đa nguồn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và tăng giá trị cho nông
sản đặc biệt là nông sản xuất khẩu. Để thực hiện các nhiệm vụ này thì việc
xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý cho nông nghiệp, nông thôn là một nhu cầu
cấp bách, sẽ cho phép chọn được những công nghệ thích hợp để phù hợp với
thế mạnh vốn có của nông nghiệp, nông thôn, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày
càng cao của xã hội
Thứ hai, chuyển nền nông nghiệp và kinh tế nông thôn từ trạng thái tự
cấp, tự túc sang nền nông nghiệp hàng hóa, hướng mạnh vào xuất khẩu, mở
rộng phân công và hợp tác quốc tế
Đây là xu thế tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển chung của các nước
đang phát triển, mà Việt Nam cũng không nằm ngoài những vấn đề mang tính
quy luật đó. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa là phải
giảm dần tỷ trọng diện tích và tỷ trọng giá trị những cây, con cho năng suất và
giá trị hàng hóa thấp, tăng dần tỷ trọng diện tích và tỷ trọng giá trị các loại
cây và con có giá trị thương phẩm cao, có thị trường tiêu thụ lớn. Trước mắt,
phải giảm tỷ trọng giá trị trồng trọt, tăng tỷ trọng giá trị chăn nuôi; trong trồng
trọt thì giảm tỷ trọng giá trị cây lương thực, tăng tỷ trọng giá trị cây thực
phẩm, cây ăn quả, cây lâm nghiệp và cây công nghiệp, đặc biệt phải mở rộng
diện tích các loại cây đặc sản cho giá trị xuất khẩu cao như: bưởi Năm Roi,
bưởi Phúc Trạch, thanh long Bình Thuận, nhãn lồng Hưng Yên,…giảm tỷ

trọng giá trị sản phẩm thô, tăng tỷ trọng giá trị sản phẩm chế biến…trong tổng
giá trị sản xuất nông nghiệp.
Kinh nghiệm ở nhiều nước có cùng điều kiện như Việt Nam đã cho
thấy, phải phát triển nông nghiệp toàn diện và hiện đại để đạt năng suất cao,
chất lượng tốt, chủng loại phong phú nhằm cải thiện đời sống dân cư nông
thôn, đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên tầm cao mới. Tuy nhiên, nền
nông nghiệp hàng hóa chỉ có thể phát triển được khi có sự tác động mạnh mẽ
của công nghiệp. Bản thân nông nghiệp không thể tự đi lên nếu không có sự
tác động trực tiếp của một nền công nghiệp phát triển. Chỉ có tác động của
công nghiệp mới tạo được các ngành nghề mới trong nông thôn, vì vậy CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn là một tất yếu trong việc xác lập và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, chuyển dịch kinh tế nông thôn thuần nông sang phát triển kinh
tế nông thôn tổng hợp nông- công nghiệp- dịch vụ và chuyển dịch lao động
nông nghiệp sang lĩnh vực phi nông nghiệp.
Một điều có thể dễ nhận thấy là sản xuất nông nghiệp phụ thuộc rất lớn
vào điều kiện tự nhiên nên năng suất lao động và hiệu quả thường rất bấp
bênh.Việc kết hợp phát triển nông nghiệp với công nghiệp (đặc biệt là công
nghiệp chế biến), tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ có ý nghĩa to lớn trong việc
làm tăng hiệu quả kinh tế nông thôn, tạo việc làm cho người lao động, nâng
cao mức thu nhập và đời sống nông dân. Vì vậy, CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn phải tác động tích cực vào nông nghiệp, nông thôn theo hướng phát
triển kinh tế nông thôn tổng hợp, bao gồm cả nông nghiệp, công nghiệp và
thương mại, dịch vụ; trong đó, giảm tỷ trọng giá trị nông nghiệp, tăng tỷ trọng
giá trị các ngành sản xuất ngoài nông nghiệp. Xu hướng này sẽ làm cho nông
thôn thuần nông trở thành một nông thôn với kết cấu đa dạng, phong phú và
năng động
Việt Nam là nước có lợi thế về tính đa dạng của các mặt hàng và chủng
loại nông, lâm, hải sản xuất khẩu, nhưng đang gặp phải một khó khăn lớn là
công nghiệp chế biến phát triển chưa đủ sức để tạo những sản phẩm chế biến

sâu và tinh, gây bất lợi lớn trong cạnh tranh. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cấp
bách cho CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là phải phát triển mạnh mẽ
công nghiệp chế biến để đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp hàng hóa trên cơ sở
khai thác lợi thế về điều kiện sinh thái, tiềm năng đất đai và lao động, thích
ứng với thế mạnh từng vùng. Ngoài ra, cùng với phát triển công nghiệp chế
biến thì việc phát triển các làng nghề truyền thống- với vai trò là cầu nối giữa
nông nghiệp và công nghiệp, giữa nông thôn và thành thị, giữa truyền thống
và hiện đại, cũng là vấn đề hết sức quan trọng.
1.1.2.3. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho sự phát triển nông
nghiệp, nông thôn
Nói đến kết cấu hạ tầng kinh tế xã- hội nông thôn là nói đến những
điều kiện phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt ở nông thôn, bao gồm: hệ thống
hạ tầng kinh tế - kỹ thuật như điện, nước, giao thông, thông tin liên lạc,
phương tiện đi lại,…và hệ thống hạ tầng KT- XH như phòng khám đa khoa,
bệnh viện, các loại hình trường học, các loại hình dịch vụ văn hóa,…
Do nông thôn là những vùng rộng lớn trải khắp đất nước, với trình độ
phát triển KT- XH khác nhau nên cần phải xác định phương án và các bước
tiến hành xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng cho phù hợp với từng vùng nông
thôn, trong từng thời kỳ cụ thể. Cần phải nhận thấy một điều rằng sản xuất
nông nghiệp hàng hóa và phát triển công nghiệp nông thôn không thể thiếu
các công trình thủy lợi, đường sá, hệ thống điện, nước, hệ thống thông tin liên
lạc, chợ và các trung tâm buôn bán,…Việc xây dựng hệ thống này có vai trò
hết sức to lớn và trở thành một nội dung quyết định của sự nghiệp CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng và CNH, HĐH đất nước nói chung.
Khi hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH ở nông thôn được quan tâm phát
triển sẽ tạo sự thay đổi về chất của bộ mặt nông thôn, đặt nền tảng cho tiến
trình phát triển lâu dài, hiện đại. Đó là điều kiện, động lực cho việc nâng cao
năng suất lao động xã hội, chuyển giao công nghệ nói riêng và thực hiện cách
mạng khoa học công nghệ nói chung. Đối với các vùng nông thôn chậm phát
triển thì xây dựng kết cấu hạ tầng còn là cách thức để xóa bỏ sự cách biệt về

địa lý, xã hội, hình thành cơ sở cho việc tăng cường giao lưu kinh tế, văn hóa,
phá bỏ sự khép kín của nông thôn truyền thống đã tồn tại từ bấy lâu nay.
1.2. Tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
đến việc làm của người lao động
1.2.1. Việc làm và đặc điểm của việc làm ở nông thôn
1.2.1.1. Quan niệm về việc làm và giải quyết việc làm
* Việc làm
Việc làm là khái niệm thể hiện sự tổng hợp các yếu tố của quá trình
phát triển KT- XH: nhân khẩu, chất lượng lao động,…Việc làm là một trong
những chỉ tiêu quan trọng của đời sống xã hội, do vậy, đã có nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu và có nhiều cách hiểu khác nhau về việc làm.
Trước đây, ở Việt Nam trong cơ chế cũ, việc làm của người lao động
thường do Nhà nước giải quyết với chế độ “ biên chế” suốt đời. Do vậy,
người làm trong cơ quan hành chính sự nghiệp của Nhà nước, các đơn vị kinh
tế quốc doanh, với quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động.
Chính vì vậy, xã hội không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm
hay việc làm không đầy đủ. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào Nhà nước ở
người lao động khi họ cần việc làm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quan
niệm về việc làm đã thay đổi, được hiểu rộng hơn, đúng đắn và khoa học hơn.
Trong Điều 13, chương II, Bộ luật Lao động Nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam quy định: “ Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không
bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”

×