Tải bản đầy đủ (.doc) (109 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.41 MB, 109 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng ta trong các văn kiện Đại hội lần thứ VIII đến lần thứ XI đều nêu
ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu đó phải đẩy mạnh CNH,
HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi
hỏi phải tích luỹ, thu hút các nguồn vốn đầu tư phát triển. Vốn đầu tư rất quan
trọng vì đây là yếu tố vật chất quyết định trực tiếp đến tốc độ tăng trưởng kinh
tế nói chung, nhịp độ CNH, HĐH nói riêng.
Nguồn vốn đầu tư ở nước ta gồm: Nguồn vốn trong nước và nguồn vốn
đầu tư nước ngoài, trong đó vốn đầu tư trong nước là quyết định, vốn đầu tư
nước ngoài là rất quan trọng. Trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài có vốn đầu
tư trực tiếp (FDI), nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, và nguồn vốn đầu
tư gián tiếp (FII), trong đó FDI là chủ yếu và đây là nguồn vốn dài hạn. Kể từ
khi thực thi luật đầu tư nước ngoài (1988) đến cuối năm 2009 tổng nguồn vốn
đầu tư nườc ngoài đăng ký là 192.726,5 triệu USD, vốn thực hiện là 66.945,5
triệu USD [34, tr.72].
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; trong khung
cảnh nền kinh tế thế giới đang có sự cơ cấu lại sau khủng hoảng kinh tế, tài
chính toàn cầu năm 2008, vấn đề thu hút FDI của Việt Nam đang đặt ra
những cơ hội thuận lợi mới, đồng thời lại có những khó khăn mới, thách thức
mới (nhất là cạnh tranh gay gắt trên thị trường đầu tư) cần phải có những nỗ
lực mới để vượt qua khó khăn, thách thức đó.
Vĩnh Phúc là tỉnh mới được thành lập năm 1997, là một tỉnh nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có nhiều tiềm năng và điều kiện thuận lợi
cho thu hút đầu tư nước ngoài như: Gần Thủ đô Hà Nội, cận kề cảng hàng
không Quốc tế Nội Bài, có hệ thống giao thông đường thuỷ, đường bộ khá
1
thuận lợi, có lực lượng lao động khá dồi dào, lại có nhiều quỹ đất phát triển
công nghiệp.
Trong những năm qua, Vĩnh Phúc đã thu hút được một lượng vốn đầu


tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ và
phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Tính từ năm 1988 đến tháng 12/2009,
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc là
2.279,4 triệu USD. Tỷ lệ vốn thực hiện trên vốn đăng ký đạt khoảng 37%.
Nhờ đó diện mạo kinh tế - xã hội Vĩnh Phúc đã thay đổi đáng kể, đã sớm đưa
Vĩnh Phúc tham gia vào câu lạc bộ 1000 tỷ. Tuy nhiên đầu tư trực tiếp nước
ngoài ở Vĩnh Phúc vẫn còn có những hạn chế, khó khăn nhất định, nhất là sau
khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) năm 2007 và
sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008.
Để giúp phần giải toả những hạn chế, khó khăn ấy, cần thiết phải có
nghiên cứu về các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển kinh
tế - xã hội nói chung, phát triển công nghiệp nói riêng. Với ý tưởng đó, học
viên chọn đề tài "Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển công
nghiệp Vĩnh Phúc" để làm luận văn thạc sỹ Kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều
tác giả nghiên cứu với nhiều khía cạnh khác nhau, chủ yếu tập trung phân tích
thực trạng thu hút FDI của Việt Nam cũng như các địa phương đối với phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, đã có một số công trình khoa học đề cập đến
vai trò của FDI đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển
công nghiệp, thương mại, dịch vụ có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu
như sau:
1. Trần Xuân Tùng (2005), Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam.
Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2
2. TS Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
3. TS Lê Bá Xuân (2006), Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học Kỹ thuật, Hà Nội.

4. PGS.TS Đỗ Đức Bình (2005), Đầu tư của các công ty xuyên quốc
giai (TNC
S
) tại Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. PTS. Nguyễn Khắc Thân - PGS.TS: Chu văn Cấp (đồng chủ biên,
1996), Những giải pháp chính trị, kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. PGS.TS Nguyễn Bích Đạt (2006), Khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
7. Thu hút FDI từ các nước trong khu vực nhằm đẩy mạnh kinh tế Việt
Nam - thực trạng và giải pháp (2004), luận văn thạc sỹ của Đinh Văn Cường,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia HCM.
8. Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tỉnh Vĩnh Phúc theo hướng phát
triển bền vững (2008), luận văn thạc sỹ của Trần Thị Tuyết Lan, Học viện
Chính trị - Hành chính quốc gia HCM.
9. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp trên địa bàn Hà
Nội (2006), luận văn thạc sỹ của Trần Văn Lưu, Học viện Chính trị - Hành
chính quốc gia HCM.
10. Thạc sỹ Vũ Văn Hưởng (2007), “Tác động của FDI đến tăng trưởng
kinh tế: Nhìn từ mô hình kinh tế lượng” (2007), Tạp chí Tài chính, (12).
11. Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển công nghiệp Tây Ninh
đến 2010 (2003), luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tấn Vinh, Học viện Chính trị -
Hành chính quốc gia HCM.
3
12. Phát triển công nghiệp gắn với bảo vệ môi trường ở Vĩnh Phúc
(2006), luận văn thạc sỹ của Hà Huy Bắc, Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia HCM.
Nhìn chung các công trình khoa học nêu trên đã đề cập khá toàn diện
và phân tích sâu sắc từng mặt của nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, chưa có công

trình nào đề cập vấn đè đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển công nghiệp
Vĩnh Phúc. Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các công trình đã có, luận văn
này tiếp tục nghiên cứu để góp phần làm sáng tỏ những lý luận cơ bản về thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc. Như
vậy, đề tài luận văn vẫn là cần thiết, có ý nghĩa lý luận thực tiễn và không
trùng lặp với các công trình khoa học đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
* Mục đích:
- Trên cơ sở hệ thống hoá những lý luận cơ bản về thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài, luận văn phân tích, đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc trong thời gian qua.
- Đề xuất mục tiêu, phương hướng phát triển công nghiệp và thu hút
FDI vào phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc đến năm 2020.
* Nhiệm vụ:
- Hệ thống những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút FDI để phát triển công
nghiệp, nhất là các nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI vào phát triển công nghiệp.
- Tìm hiểu kinh nghiệm thu hút FDI vào phát triển công nghiệp của
một số địa phương từ đó rút ra bài học kinh nghiệm có thể vận dụng vào thu
hút FDI để phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc.
- Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát triển
công nghiệp Vĩnh Phúc trước và sau khi Việt Nam gia nhập WTO, từ đó đánh
giá khái quát kết quả đã đạt được, những mặt hạn chế, nguyên nhân của hạn
chế và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục giải quyết.
4
- Đề xuất một số mục tiêu, phương hướng phát triển công nghiệp tạo cơ
sở nhằm đẩy mạnh thu hút FĐI vào phát triển công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc và
đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường thu hút FDI vào phát triển công
nghiệp Vĩnh Phúc giai đoạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng:

Luận văn nghiên cứu vấn đề thu hút FDI vào phát triển công nghiệp ở
Vĩnh Phúc dưới góc độ kinh tế chinh trị. Tập trung chủ yếu vào làm rõ vai trò
của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển công nghiệp; thực trạng thu
hút FDI vào phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc và nghiên cứu đề xuất các giải
pháp nhằm tăng cường thu hút FDI để phát triển công nghiệp trong thời gian tới.
* Phạm vi nghiên cứu:
- Địa bàn nghiên cứu là tỉnh Vĩnh Phúc. Cụ thể là các ngành công
nghiệp khai thác, chế biến, sản xuất và phân phối điện, ga, và các khu công
nghiệp trên địa bàn.
- Mốc thời gian để thu thập thông tin, số liệu phục vụ cho việc đánh giá
thực trạng là từ năm 2000 đến nay (chủ yếu từ 2006 - nay).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng lý luận kinh tế
chính trị Mác-Lênin, đường lối chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, và một số lý thuyết kinh tế học
hiện đại về đầu tư quốc tế và quan hệ kinh tế đối ngoại
* Phương pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác-Lênin, luận văn sử dụng phương pháp thống kê kinh tế, phân tích tổng
hợp, so sánh, tổng kết thực tiễn thông qua các tài liệu để hiểu và làm rõ các
vấn đề nghiên cứu của luận văn.
5
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ vai trò của FDI đối với sự phát triển công
nghiệp Vĩnh Phúc, phân tích tình hình phát triển công nghiệp và quá trình thu
hút vốn FDI cho phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc, đề xuất các giải pháp cơ
bản để tiếp tục thu hút FDI cho phát triển công nghiệp trong giai đoạn 2011
-2015, tầm nhìn dến 2020.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho

các cấp lãnh đạo, các nhà đầu tư, các doanh nghiệp về vốn để đầu tư nước
ngoài nói riêng, kinh tế đối ngoại nói chung.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo
cho việc nghiên cứu, học tập các chuyên đề kinh tế liên quan.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết
cấu luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về thu hút đầu tư trực tiếp vào
phát triển công nghiệp.
Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào phát
triển công nghiệp Vĩnh Phúc.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài để phát triển công nghiệp Vĩnh Phúc giai đoạn 2011-2020.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP
1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và vai trò của nó trong phát
triển công nghiệp
1.1.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài: Khái niệm, đặc trưng và các hình thức
1.1.1.1. Khái niệm
Đầu tư nước ngoài là một trong những hình thức cơ bản của kinh tế
quốc tế gắn liền với sự di chuyển vốn từ nước này sang nước khác. Đầu tư
nước ngoài xuất hiện trong thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền, mà Lênin gọi
là xuất khẩu tư bản và được coi là một trong những đặc điểm của chủ nghĩa tư
bản độc quyền. Ngày nay giao lưu kinh tế quốc tế ngày càng phát triển, việc
dịch chuyển các dòng vốn đầu tư giữa các nước ngày càng mạnh mẽ và đa
dạng, không chỉ các nước tư bản phát triển mà cả các nước đang phát triển
cũng xuất khẩu tư bản, và hiện tượng này được gọi là đầu tư nước ngoài.
Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển vốn đầu tư sang lãnh thổ của một

nước (nước nhận đầu tư) và được thực hiện dưới các hình thức như thành lập
công ty hay một doanh nghiệp, mua cổ phiếu và hình thức góp vốn khác: Trái
phiếu, giấy ghi nợ, các quyền theo hợp đồng tài sản hữu hình và tài sản vô
hình, quyền sở hữu trí tuệ.
Đầu tư nước ngoài gồm 2 hình thức là đầu tư trực tiếp (đầu tư các hoạt
động sản xuât kinh doanh nhằm thu lợi nhuận và các lợi ích khác) đầu tư gián
tiếp (cung cấp tín dụng, cho vay, đầu tư vào thị trường chứng khoán…).
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là loại hình di chuyển vốn giữa các
nước, trong đó người chủ sở hữu vốn đồng thời là người trực tiếp quản lý và
điều hành hoạt động sử dụng vốn. FDI là một trong những hình thức đầu tư
chủ yếu của hoạt động đầu tư quốc tế.
7
Theo Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, FDI (Foreiga Direct investment) được
định nghĩa là:
Một khoản đầu tư với những quan hệ lâu dài, theo đó một tổ chức trong
một nền kinh tế (nhà đầu tư trực tiếp) thu được lợi ích lâu dài từ một doanh
nghiệp đặt tại một nền kinh tế khác, mục đích của nhà đầu tư trực tiếp là
muốn có nhiều ảnh hưởng trong việc quản lý doanh nghiệp đặt tại nền kinh tế
khác đó [46, tr.31].
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đưa ra định nghĩa về FDI như
sau: FDI xẩy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư) có được
một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với quyền quản lý tài
sản đó, phương tiện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các công cụ tài chính
khác. Trong phần lớn trường hợp cả nhà đầu tư lẫn tài sản mà người đó quản
lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những trường hợp đó nhà đầu
tư thường hay gọi là "Công ty mẹ" và các tài sản được gọi là "Công ty con"
hay "chi nhánh Công ty" [50].
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) đưa ra khái niệm "một
doanh nghiệp đầu tư trực tiếp là một doanh nghiệp có tư cách pháp nhân trong
đó nhà đầu tư trực tiếp sở hữu ít nhất 10% cổ phiếu thường hoặc có quyền

biểu quyết, điểm mấu chốt của đầu tư trực tiếp là chủ định thực hiện quyền
kiểm soát công ty" [46 tr.31]. Tuy nhiên không phải tất cả quốc gia nào cũng
đều sử dụng mốc 10% làm mốc xác định FDI. Trong thực tế có những trường
hợp tỷ lệ sở hữu tài sản trong doanh nghiệp của chủ đầu tư nhỏ hơn 10%
nhưng họ vẫn được quyền điều hành quản lý doanh nghiệp, trong khi nhiều
lúc lớn hơn nhưng vẫn chỉ là người đầu tư gián tiếp.
Theo Luật đầu tư nước ngoài năm 2005 của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam thì: "Đầu tư nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa
vào Việt Nam vốn bằng tiền và các tài sản hợp pháp khác để tiến hành hoạt
8
động đầu tư” [31, tr.10] và đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư do nhà đầu tư
bỏ vốn đầu tư và tham gia quản lý hoạt động đầu tư [31, tr.10].
Từ những khái niệm trên luận văn đi đến thống nhất với khái niệm như
sau: Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại một quốc gia là việc nhà đầu tư ở một
nước đưa vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào vào quốc gia nào đó để có
được quyền sở hữu và quản lý hoặc quyền kiểm soát một thực thể kinh tế tại
quốc gia đó với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của mình.
1.1.1.2. Các đặc trưng chủ yếu của FDI
Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển tiền và tài sản giữa các quốc
gia trên thế giới nó bao gồm tài sản hữu hình (máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu) và tài sản vô hình (bí quyết, sáng chế, kiểu dáng, nhãn hiệu, kỹ năng
quản lý). Hoạt động FDI không chỉ là sự di chuyển vốn thuần tuý mà còn bao
gồm cả hoạt động chuyển giao công nghệ, kinh nghiệm quản lý, cơ chế bảo
hộ quyền sở hữu của nhà đầu tư. Do đó, với từng loại tài sản khác nhau đòi
hỏi những nước tiếp nhận đầu tư phải có cơ chế chính sách bảo hộ quyền của
chủ đầu tư sao cho phù hợp với tính chất và đặc điểm của từng loại.
Thứ hai, FDI thường được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh
nghiệp mới, mua toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc
mua cổ phiếu để thôn tính hoặc sáp nhập các doanh nghiệp lại với nhau.
Thứ ba, quyền quản lý FDI phụ thuộc vào mức độ góp vốn của chủ đầu

tư, theo đó, FDI sẽ là người chủ sở hữu hoàn toàn hoặc đồng chủ sở hữu với
một tỷ lệ góp vốn nhất định, đủ mức khống chế và trực tiếp tham gia quản lý
hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, thông qua FDI, nước chủ nhà có thể tiếp nhận được công nghệ,
kinh nghiệm quản lý, mạng lưới marketing rộng lớn. Các yếu tố này có vai trò
quan trọng đối quá trình CNH, HĐH ở các nước đang phát triển nói chung và
Việt Nam nói riêng.
9
Thứ năm, chủ thể của FDI chủ yếu là các công ty xuyên quốc gia, đa
quốc gia. Đây là những tập đoàn có hệ thống các chi nhánh sản xuất ở nước
ngoài, có tiềm lực lớn về vốn, công nghệ, nhãn hiệu sản phẩm có uy tín và
danh tiếng trên toàn cầu, đội ngũ các nhà quản lý có trình độ cao, có khả năng
điều hành các hoạt động sản xuất và phân phối trên toàn cầu, có năng lực
cạnh tranh cao. Hiện nay các công ty đa quốc gia nắm giữ khoảng 90% lượng
FDI trên thế giới.
Thứ sáu, FDI đảm bảo cho nhà ĐTNN tham gia kiểm soát, điều hành
quá trình đầu tư và kinh doanh của doanh nghiệp. Việc trực tiếp điều hành và
quản lý, trực tiếp ra quyết định đầu tư là điều kiện để các nhà đầu tư thực hiện
chiến lược kinh doanh một cách chủ động và tối ưu. Tuy nhiên, trên thực tế
lại thường xảy ra sự không ăn khớp giữa mục tiêu thu hút FDI của nước tiếp
nhận đầu tư với chiến lược kinh doanh của nhà ĐTNN. Nếu sự bất cân xứng
ngày càng lớn thì hiệu quả đầu tư đạt được sẽ càng thấp.
* Đầu tư trực tiếp nước ngoài còn có những đặc điểm khác so với đầu tư
gián tiếp, thể hiện ở những điểm dưới đây:
(1) FDI là loại vốn đầu tư chủ yếu có thời hạn dài.
Vốn FDI là nguồn vốn chủ yếu trong vốn đầu tư nước ngoài và là nguồn
vốn dài hạn nên không dễ rút đi trong thời gian ngắn kể cả trường hợp bên
ngoài khủng hoảng thì nó chỉ vào ít hơn chứ không bị rút ra. Bởi vậy nước sở
tại nhận được nguồn vốn lớn bổ sung cho vốn đầu tư trong nước trong một
thời gian dài mà không phải lo trả nợ. Đây là đặc điểm phân biệt FDI với đầu

tư gián tiếp (protffolioinvestment) đầu tư gián tiếp thường là các dòng vốn có
thời gian hoạt đông ngắn và có thu nhập thông qua cung cấp tín dụng, việc
mua trái phiếu chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu).
(2) Chủ đầu tư có quốc tịch nước ngoài: Đặc điểm này có liên quan đến
khía cạnh về xuất cảnh, luật pháp, phong tục tập quán… đây là các yếu tố làm
tăng thêm tính rủi ro và chi phí đầu tư của các nhà đầu tư.
10
(3) Chủ sở hữu vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình sản
xuất kinh doanh. Việc phân chia thành viên hội đồng quản trị, việc điều hành
quá trình sử dụng vốn tuỳ thuộc vào tỷ lệ góp vốn.
(4) Vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ đầu tư
nước ngoài dưới hình thức vốn pháp định (hoặc vốn điều lệ) mà nó còn bao
gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai và mở rộng dự án cũng như
vốn đầu tư trích từ lợi nhuận thu được trong quá trình hoạt động của doanh
nghiệp. Vấn đề cần lưu ý đối với các nhà quản lý là khi tính lượng vốn FDI
thu hút được chỉ tính phần vốn do bên ngoài đưa vào. Do vậy, trong các dự án
liên doanh với nước ngoài, vốn FDI của dự án chỉ tính phần vốn của đầu tư
nước ngoài và phần vốn doanh nghiệp liên doanh vay nước ngoài.
(5) Vốn FDI là của tư nhân nên ít chịu sự chi phối của chính phủ nước
đầu tư, đặc biệt ít bị phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa nước chủ đầu
tư và nước tiếp nhận đầu tư so với các hình thức di chuyển vốn quốc tế khác.
1.1.1.3. Một số hình thức FDI chủ yếu
Thứ nhất, hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh,
hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh là hình thức được đầu tư ký kết giữa
các nhà đầu tư nhằm hợp tác kinh doanh phân chia lợi nhuận, phân chia tài
sản mà không thành lập pháp nhân mới [31, tr.10]. Thời hạn hợp đồng do các
bên thoả thuận và có quân có thẩm quyền của nước nhận đầu tư chuẩn y. Hợp
đồng hợp tác kinh doanh rất đa dạng, nhưng không còn đòi hỏi vốn lớn, thời
gian hợp đồng thường không dài nên những nhà đầu tư có tiềm năng không
lớn thường chọn hình thức này.

Thứ hai, doanh nghiệp liên doanh là loại doanh nghiệp do hai bên hay
nhiều bên phía nước ngoài và nước nhận đầu tư (nước chủ nhà) hợp tác cùng
góp vốn, cùng kinh doanh, cùng hưởng lợi nhuận, cùng chia sẻ rủi ro theo tỷ
lệ góp vốn.
11
Hình thức này thường được các nước chủ nhà ưa chuộng vì thông qua
doanh nghiệp này nước chủ nhà có điều kiện tiếp thu kỹ thuật, công nghệ
mới, học tập kinh nghiệm quản lý đào tạo đội ngũ lao động và tiếp cận thị
trường quốc tế, nhưng yêu cầu đặt ra đối với nước chủ nhà là phải đáp ứng
được những yêu cầu về vốn, trình độ quản lý doanh nghiệp cùng với bên nước
ngoài thì mới đạt hiệu quả như mong muốn.
Thứ ba, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của
nhà đầu tư nước ngoài, do nhà ĐTNN thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý
và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là một thực thể kinh doanh có tư
cách pháp nhân, được thành lập dựa trên các mục đích của chủ đầu tư và nước
sở tại, hoạt động theo sự điều hành quản lý của chủ đầu tư nước ngoài. Doanh
nghiệp 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới dạng Công ty TNHH hoặc
Công ty cổ phần.
Hình thức này được phía nước ngoài ưu chuộng vì họ tự mình độc lập
ra các quyết định quản lý và hưởng lợi nhuận do kết quả đầu tư mang sại sau
khi đã làm tròn nghĩa vụ nộp thuế cho nước chủ nhà. Một số lĩnh vực đầu tư
cần vốn lớn thời gian thu hồi vốn dài thường được nước chủ nhà chấp nhận
đối với hình thức doanh nghiệp 100% vốn ĐTNN.
Thứ tư, đầu tư theo hợp đồng
Hợp đồng BOT là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng, kinh doanh công trình kết cấu hạ
tầng trong một thời hạn nhất định. Sau khi hết thời hạn, nhà đầu tư chuyển
giao không bồi hoàn công trình đó cho Nhà nước Việt Nam [31, tr.11].

Hình thức BOT có các dạng thức:
Hợp đồng BTO là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng. Sau khi
12
xây dựng xong nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam. Chính phủ dành cho nhà đầu tư quyền kinh doanh công trình đó trong
một thời hạn nhất định để thu hồi vốn đầu tư và lợi nhuận [31, tr.11].
Hợp đồng BT là hình thức đầu tư được ký kết giữa cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình kết cấu hạ tầng sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư chuyển giao công trình đó cho Nhà nước Việt
Nam. Chính phủ tạo điều kiện cho nhà đầu tư thực hiện dự án khác để thu hồi
vốn đầu tư và lợi nhuận hoặc thanh toán đầy đủ cho nhà đầu tư theo thoả
thuận trong hợp đồng BT [31, tr.11].
1.1.2. u t tr c ti p n c ngo i v i phát tri n công nghi pĐầ ư ự ế ướ à ớ ể ệ
1.1.2.1. Khái niệm công nghiệp và đặc trưng của nó
* Khái niệm công nghiệp:
Theo Giáo trình Kinh tế học phát triển của Học viện Chính trị quốc gia
HCM: "Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất của nền kinh tế quốc dân, có
các loại hoạt động chủ yếu là khai thác, chế biến" [23, tr.209].
Theo Giáo trình Kinh tế học phát triển của Học viện Tài chính thì
"Công nghiệp là ngành sản xuất vật chất to lớn và độc lập của nền kinh tế
quốc dân, có chức năng khai thác các tài nguyên thiên nhiên, chế biến các tài
nguyên đó cũng như sản phẩm của nông, lâm, ngư nghiệp và sửa chữa các sản
phẩm công nghiệp có thời gian sử dụng lâu dài" [43, tr.130].
Công nghiệp là một ngành kinh tế thuộc lĩnh vực sản xuất vật chất có
phạm vi hoạt động hết sức rộng lớn, bao gồm từ việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên (công nghiệp khai thác) đến việc chế biến các loại khoáng sản và
nông lâm thủy sản (công nghiệp chế biến) công nghiệp sản xuất tất cả các loại
tư liệu lao động (máy móc thiết bị dụng cụ) nhiều loại đối tượng lao động
(nhiên nguyên vật liệu năng lượng) và vật phẩm tiêu dùng đáp ứng các yêu

cầu của sản xuất và đời sống công nghiệp còn thực hiện việc sửa chữa một số
tư liệu sản xuất và vật phẩm tiêu dùng (dịch vụ mang tính chất công nghiệp).
13
Cùng với sự phát triển của xã hội loài người, lịch sử phát triển công
nghiệp là một quá trình diễn ra có tính quy luật phổ biến đó là: công nghiệp từ
vị trí phụ thuộc nằm trong nông nghiệp sản xuất tự cấp tự túc tách ra khỏi
nông nghiệp thành một ngành sản xuất độc lập tự sản xuất nhỏ, thô sơ đến
hiện đại. Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia phát triển cũng như các quốc gia
đang phát triển, công nghiệp có vị trí hàng đầu trong cơ cấu kinh tế của mỗi
nước, đối với những nước đang phát triển mà nền kinh tế phổ biến ở nông
nghiệp đi lên công nghiệp được coi là ngành kinh tế chủ đạo, sự phát triển của
công nghiệp sẽ có ý nghĩa phát triển đến ý nghĩa quyết định đến tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế.
* Phân loại công nghiệp:
Sự ra đời và phát triển của công nghiệp gắn liền với sự tiến bộ kỹ thuật
và phân công lao động xã hội. Trong thời kỳ đầu của xã hội loài người đã có
một số hoạt động mang tính chất công nghiệp, sản xuất các loại sản phẩm đáp
ứng nhu cầu sản xuất, đời sống. Những hoạt động sản xuất này tồn tại trong
khuôn khổ nền kinh tế tự túc, tự cấp với trình độ hết sức thấp kém, quá trình
phát triển của phân công lao động, chuyên môn sản xuất đã đưa đến là một số
người được chuyên môn hóa vào các hoạt động mang tính công nghiệp và trở
thành người thợ thủ công chuyên nghiệp. Sản phẩm của họ sản xuất ra là hàng
hóa được sản xuất để trao đổi, mua bán trên thị trường.
Ngày nay, công nghiệp đã trở thành một ngành sản xuất vật chất lớn
của xã hội và có một cơ cấu hết sức phức tạp.
Dựa trên những tiêu trí khác nhau, người ta chia công nghiệp thành các
loại hình khác nhau. Có một số cách phân chia phổ biến thường gặp trong
thực tế:
- Căn cứ vào tính chất tác động vào đối tượng lao động, công nghiệp
được chia thành công nghiệp khai thác và công nghiệp chế biến.

14
- Căn cứ vào công dụng của sản phẩm, công nghiệp được chia thành hai
nhóm ngành: Nhóm A -

tư liệu sản xuất, nhóm B -

tư liệu tiêu dùng.
- Căn cứ vào trình độ kỹ thuật, công nghiệp được chia thành công
nghiệp hiện đại và tiểu, thủ công nghiệp.
- Căn cứ vào quan hệ sở hữu người ta chia thành công nghiệp quốc
doanh (nhà nước), công nghiệp ngoài quốc doanh và công nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài.
- Căn cứ vào tính chất của vùng lãnh thổ, tầm quan trọng và đối tượng
phục vụ, người ta chia công nghiệp thành; công nghiệp thành thị và công
nghiệp nông thôn; ngành công nghiệp chủ lực, công nghiệp mũi nhọn và công
nghiệp phụ trợ; công nghiệp dân dụng và công nghiệp quốc phòng, công
nghiệp môi trường.
Ngoài ra, trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại, phát triển kinh tế tri thức, người ta đã nói đến ngành công nghiệp
sáng tạo (quảng cáo, ngành công nghiệp phần mềm, các ngành công nghiệp
sáng tạo khác: Kiến trúc, thiết kế, nghệ thuật, phim ảnh, âm nhạc, phát thanh
và truyền hình).
Mỗi cách phân loại trên có tác dụng riêng trong công tác quản lý công
nghiệp và chúng được sử dụng đồng thời trong quản lý nhằm đạt được những
mục tiêu cụ thể.
* Đặc trưng của công nghiệp:
Sản xuất công nghiệp có nhiều đặc điểm khác biệt với các ngành sản
xuất khác, đó là:
- Quá trình sản công nghiệp có thể chia ra làm nhiều công đoạn khác
nhau, mỗi công đoạn do một bộ phận trong dây chuyền sản xuất hoặc do một

bộ phận độc lập thực hiện. Sau đó chúng sẽ được kết nối, lắp ráp lại với nhau
thành một sản phẩm hoàn chỉnh theo thiết kế kỹ thuật. Do đó tính kế hoạch là
khá cao, lao động được chuyên môn hóa và hợp tác hóa trên cơ sở kỹ thuật.
15
- Về công nghệ sản xuất, công nghiệp chủ yếu là quá trình tác động
bằng phương pháp cơ lý hóa làm thay đổi các đối tượng lao động thành các
sản phẩm thích ứng với nhu cầu của con người.
Công nghệ sản xuất trong công nghiệp do con người tạo ra. Quá trình
tạo ra sản phẩm công nghiệp được thực hiện thông qua hệ thống máy móc,
thiết bị với đội ngũ công nhân có trình độ tay nghề cao. Hay nói cách khác lao
động tạo ra sản phẩm trong công nghiệp là lao động có kỹ thuật lao động
bằng máy móc.
Vì vậy mỗi quốc gia tùy vào khả năng và hoàn cảnh cụ thể mà có chiến
lược đầu tư đổi mới và hiện đại hóa công nghệ cũng như đào tạo đội ngũ công
nhân lành nghề trong quá trình phát triển công nghiệp. Đây là vấn đề có ý
nghĩa quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các ngành công nghiệp trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
- Sản xuất công nghiệp có khả năng tập trung với mật độ rất cao, với
không gian hạn chế, vì vậy tính chủ động trong sản xuất công nghiệp rất cao ít
bị ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên (trừ công nghiệp khai thác). Nhận thức
đặc điểm này đòi hỏi trong chính sách phát triển công nghiệp phải quan tâm
xây dựng các khu, cụm công nghiệp tập trung với các điều kiện kết cấu hạ
tầng kỹ thuật thuận lợi cho sản xuất công nghiệp.
- Hoạt động công nghiệp liên quan đến môi trường. Một mặt, các
nguyên, nhiên, vật liệu Yếu tố đầu vào của sản xuất công nghiệp, suy cho
cùng đều có nguồn gốc từ tự nhiên, có loại không thể tái tạo được. Vì thế nếu
không sử dụng hợp lý, có hiệu quả sẽ làm cạn kiệt các nguồn tài nguyên, gây
ra sự hủy hoại môi trường. Hoạt động sản xuất công nghiệp còn là tác nhân
gây ra các chất thải làm ô nhiễm môi trường, nước, không khí
Mặt khác, công nghiệp lại tạo ra được các công nghệ, thiết bị hiện đại

để xử lý môi trường, góp phần bảo vệ, cải thiện chất lượng môi trường.
16
* Vai trò của ngành công nghiệp.
Ngành công nghiệp có vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, thực
chất vai trò chủ đạo của ngành công nghiệp chính là sự ảnh hưởng quyết định
của công nghiệp đến phát triển lực lượng sản xuất của các ngành kinh tế.
Công nghiệp là cơ sở tái sản xuất mở rộng cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân
thông qua việc công nghiệp tạo ra và trang bị cơ sở vật chất cho tất cả các
ngành. Công nghiệp tạo điều kiện để không ngừng đổi mới các phương tiện
sản xuất, kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân, góp phần thực hiện CNH, HĐH
đất nước.
Trong quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam, công nghiệp được coi là “đầu
tàu kinh tế” của đất nước. Từ nhiều năm nay, công nghiệp là ngành có mức
đóng góp lớn nhất và tăng trưởng kinh tế, là lực lượng trụ cột của nền kinh tế,
là ngành đóng góp cho xuất khẩu thông qua việc tạo ra các nhóm hàng công
nghiệp xuất khẩu chủ lực và công nghiệp còn là ngành thu hút nhiều vốn FDI
do những lợi thế về tài nguyên, nhân lực, sự ổn định chính trị - xã hội và vị trí
địa lý. Đồng thời, công nghiệp là lĩnh vực thu hút nhiều lao động và giải
quyết nhiều việc làm cho người lao động (sau lĩnh vực dịch vụ).
1.1.2.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với phát triển công
nghiệp
* Trong những thập kỷ gần đây, với xu hướng ngày càng tự do hơn
trong việc di chuyển các luồng vốn quốc tế, vốn FDI ngày càng chiếm tỷ lệ
cao trong tổng vốn đầu tư tại mỗi quốc gia. Năm 1988, FDI chiếm tới trên
50% các luồng vốn tư nhân vào các nước đang phát triển, sở dĩ như vậy là do
có sự thay đổi chiến lược phát triển tại các nước đang phát triển, nhằm mục
tiêu thu hút FDI, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng nợ vào những năm 1980 và
tình trạng đầu tư tài chính nước ngoài tại các nền kinh tế mới nổi (Trung
Quốc, Ấn Độ, Brazil, Nga, Mêhicô ).
17

* Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong 25 năm qua
(1986-2011) ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của FDI trong công
cuộc hiện đại hoá nền kinh tế và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Do đó, Đảng và
Nhà nước ta đã thực thi nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút FDI. Riêng với
lĩnh vực công nghiệp FDI có vai trò to lớn như sau:
Một là, FDI trong ngành công nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong tổng
FDI được thu hút vào các ngành kinh tế; điều này được lý giải bởi:
- Công nghiệp là một trong những ngành có sức hấp dẫn căn bản đối
với các nhà đầu tư; FDI thường tập trung chủ yếu ở các khu công nghiệp, khu
công nghệ cao vì các khu công nghiệp (KCN) khu công nghệ cao (KCNC)
thường ở những vị trí đắc địa, có vị trí thuận lợi cho quá trình giao lưu kinh tế
với nước ngoài, mở rộng được các hoạt động du lịch và dịch vụ quốc tế. Ở
một số nước chậm phát triển, trong giai đoạn đầu phát triển thì lao động phổ
thông, giá rẻ có thể là ưu thế để phát triển các ngành công nghiệp sử dụng
nhiều lao động giản đơn: May mặc, giày dép, lắp giáp điện tử, sản xuát đồ
chơi, chế biến lương thực thực phẩm
FDI năm 2008 phân theo nhóm ngành: Công nghiệp - xây dựng chiếm
54,1%, dịch vụ chiếm 45,5%, nông - lâm nghiệp - thuỷ sản chiếm 0,4%. Tính
từ 1988 đến nay (2008) tương ứng là: 58,2%, 39%, 2,8%. FDI đăng ký chia
theo nhóm ngành và các ngành đạt trên 1tỷ USD vốn đăng ký (tính đến cuối
năm 2008) như sau: Lâm nghiệp - thuỷ sản: 4.221,0 triệu USD, công nghiệp -
xây dựng: 105.091,9 triệu USD (trong đó công nghiệp 97.304,4 triệu USD,
xây dựng là 7.787,4 triệu USD); dịch vụ: 83.413,6 triệu USD [34, tr.30] [34,
tr.72].
- FDI là nguồn vốn gắn với khoa học kỹ thuật hiện đại, có sự hậu thuẫn
mạnh mẽ của các công ty mẹ ở nước ngoài, có thế mạnh về vốn, lao động chất
lượng cao, trình độ quản lý tiên tiến, hệ thống tiêu thụ rộng lớn
18
Bên cạnh vai trò là một nguồn vốn phát triển những lợi ích lan toả ngày
càng khẳng định tầm quan trọng của FDI đối với sự phát triển công nghiệp;

năm 2008, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 40,3% giá trị sản xuất
công nghiệp, 55% tổng kim ngạch xuất khẩu, thu hút trên 1,8 triệu lao động
(chiếm 4,1% tổng số lao động đang làm việc của toàn bộ nền kinh tế) và đóng
góp gần 2 tỷ USD vào ngân sách nhà nước.
Hai là, FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành công nghiệp
theo hướng hiện đại.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tạo ra một số
ngành công nghiệp mới góp phần nâng cao năng lực sản xuất của nhiều ngành
kinh tế, đặc biệt FDI đã góp phần chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp theo
hướng tiến bộ và hiệu quả phù hợp với xu hướng khách quan của phát triển
công nghiệp. Tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến, giảm dần tỷ trọng công
nghiệp khai thác, tăng dần các ngành có hàm lượng khoa học và công nghệ
cao, tăng tỷ trọng lao động xã hội, gắn sự phát triển công nghiệp của đất nước
với nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế.
Cùng với việc phát triển có trọng điểm công nghiệp khai thác các loại
tài nguyên có trữ lượng lớn và giá trị kinh tế cao (dầu khí, than đá, apatit) để
đáp ứng nhu cầu trong nước và tạo nguồn hàng xuất khẩu, phát triển một số
ngành công nghiệp nặng mà trong nước có nhu cầu và khả năng (điện, cơ khí
chế tạo và lắp ráp, vật liệu xây dựng, hoá chất công nghiệp), các ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng được chú trọng phát triển vừa đáp ứng nhu
cầu hàng tiêu dùng trong nước thay thế hàng nhập khẩu và phục vụ xuất khẩu.
Ba là, FDI đối với chuyển giao công nghệ, nâng cao trình độ kỹ thuật
và công nghệ của công nghiệp và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm công
nghiệp. Các nhà kinh tế cho rằng FDI có những tác động tích cực với quá
trình chuyển giao công nghệ (dây chuyền sản xuất, kỹ năng quản lý, kiến thức
về thị trường, đào tạo nhân lực, ) và tăng năng suất lao động.
19
Công nghệ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình phát triển kinh tế -
xã hội của một quốc gia, đối với các nước đang phát triển thì vai trò của công
nghệ lại càng khẳng định rõ, FDI được coi là kênh quan trọng để phát triển

công nghệ của nước chủ nhà trong dài hạn, đây chính là lợi ích căn bản nhất
đối với nước tiếp nhận đầu tư.
Bên cạnh chuyển giao các công nghệ, các dự án FDI lớn còn tham gia
nghiên cứu và phát triển (R&D) công nghệ của nước chủ nhà, nhờ đó mà
năng lực công nghệ của nước tiếp nhận FDI ngày càng phát triển hơn. Mặt
khác trong quá trình sử dụng các công nghệ hiện đại của nước ngoài, đội ngũ
chuyên gia cũng như công nhân trong nước học được rất nhiều kinh nghiệm.
Muốn học được công nghệ hiện đại như vậy đòi hỏi lực lượng lao động trong
nước (chuyên gia và công nhân) phải nỗ lực rất nhiều mới có thể nhanh chóng
tiếp thu được công nghệ hiện đại, sau đó cải biến cho phù hợp với điều kiện
của nước mình và biến chúng thành công nghệ của mình, công nghệ của nước
tiếp nhận đầu tư được cải thiện làm cho năng suất lao động ngày càng được
tăng lên thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bên cạnh những tác động thuận lợi, chuyển giao công nghệ thông qua
FDI cũng đặt ra nhiều vấn đề trong việc tiếp nhận công nghệ chuyển giao
hoặc là nhập công nghệ lạc hậu, hoặc là máy móc thiết bị đã qua sử dụng…
Điều đó đã từng xảy ra ở Việt Nam trong những năm qua.
Một nghiên cứu về chuyển giao công nghệ vào Việt Nam cho thấy, trên
727 thiết bị và 3 dây chuyền sản xuất nhập khẩu của 42 xí nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thì có tới 76% thiết bị được sản xuất từ những năm 1950-1960,
50% là các máy móc đã qua sử dụng. Vì thế, cần phải có sự chuyển biến về tư
duy và chiến lược hợp lý để tiếp nhận công nghệ chuyển giao.
Bốn là, FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực tạo việc làm và nâng
cao mức sống cho người lao động.
20
Việc thu hút FDI của các nước có nhiều mục tiêu, trong đó có mục tiêu
giải quyết việc làm và phát triển nguồn nhân lực của nước tiếp nhận đầu tư để
các dự án của mình hoạt động ngày càng hiệu quả hơn, các nhà đầu tư FDI
buộc phải đào tạo đội ngũ công nhân, cán bộ quản lý làm việc cho mình đã
tiết kiệm cho nước chủ nhà một phần ngân sách của Nhà nước để đào tạo

trong nước như trợ giúp về tài chính mở các lớp đào tạo dạy nghề trung và dài
hạn, mở các lớp huấn luyện nâng cao nghiệp vụ quản lý. Ngoài ra để đáp ứng
được yêu cầu về nguồn lực trong các dự án doanh nghiệp FDI thường đưa
người lao động đi đào tạo nước ngoài để họ tiếp cận với công nghệ và kinh
nghiệm quản lý hiện đại.
Trong khi làm việc ở các doanh nghiệp FDI các chuyên gia kỹ thuật,
quản lý trong nước có cơ hội tiếp cận với các chuyên gia nước ngoài, học
được các kinh nghiệm thực hành từ các chuyên gia này. Mặt khác do sức ép
cạnh tranh nên thị trường lao động người lao động trong nước không ngừng
nâng cao trình độ chuyên môn của mình qua học tập và qua công việc, từ đó
chất lượng nguồn nhân lực trong nước được nâng lên.
FDI là kênh quan trọng tạo việc làm cho người lao động của nước chủ
nhà. Hiện nay ở Việt Nam lực lượng lao động làm trong khu vực FDI hầu hết
là lao động giản đơn tập trung chủ yếu trong các ngành công nghiệp chế biến,
may mặc, số lượng lao động trực tiếp trong các dự án FDI ngày càng tăng, số
lượng lao động trực tiếp trong các dự án FDI ngày càng tăng nhờ các hoạt
động cung ứng dịch vụ và gia công cho các đối tác nước ngoài.
Tính đến nay khu vực có vốn FDI đã tạo ra việc làm cho khoảng trên
1,2 triệu lao động trực tiếp và hàng triệu lao động gián tiếp ở Việt Nam. Bên
cạnh đó thông qua hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI, Việt Nam đã
và đang từng bước hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật có
trình độ cao, có tay nghề tiếp cận được khoa học kỹ thuật, công nghệ cao của
21
thế giới Đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò quan trọng trong việc tạo ra
việc làm và cải thiện chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam.
Từ khi có Luật Đầu tư nước ngoài, dòng vốn đầu tư nước ngoài vào
Việt Nam ngày càng tăng, trở thành thành phần kinh tế quan trọng trong cơ
cấu kinh tế đa thành phần ở nước ta, góp phần to lớn vào tăng trưởng kinh tế,
tạo việc làm có chất lượng và giá trị cao, phát triển nguồn nhân lực và nâng
cao chất lượng nguồn lao động.

Tính đến cuối năm 2008, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tạo việc
làm trực tiếp cho gần 1,2 triệu lao động. Nếu tính độ lan tỏa của nó (hiệu ứng
tràn lan) thì khả năng thu hút lao động còn lớn hơn nhiều. Theo một nghiên
cứu của Viện Khoa học và Lao động và Xã hội - Bộ Lao động Thương binh
và Xã hội, hệ số lan tỏa của khu vực đầu tư nước ngoài từ 1,3 - 1,5. Nếu giữ
lại tỷ lệ nội địa hóa trong gia công cho nước ngoài phát triển mạnh công
nghiệp phụ trợ thì hệ số này có thể còn cao hơn thông qua tạo ra các tầng lao
động khác nhau. Theo hệ số này, khu vực đầu tư nước ngoài thu hút gần 02
triệu lao động (kể cả trực tiếp và gián tiếp). Xu hướng tăng trưởng việc làm
khu vực đầu tư nước ngoài cũng rất lớn, bình quân 10 - 15%/năm do mở rộng
hoặc xây dựng mới các doanh nghiệp theo dự án đuợc cấp phép.
Khu vực đầu tư nước ngoài là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ
thuật trình độ cao (các nhà quản lý, chuyên gia và lao động lành nghề) phù
hợp với kỹ thuật mới và công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ
quốc tế. Do đó, khu vực này đóng vai trò rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực,
nhất là lao động lành nghề cho Việt Nam để hình thành đội ngũ lao động lành
nghề của một nền công nghiệp Việt Nam hiện đại. Hiện nay các doanh nghiệp
đầu tư nước ngoài tham gia tích cực vào dạy nghề (xây dựng các trường nghề
tại các KCN); đặc biệt đã hình thành mô hình liên kết đào tạo nghề và sử
dụng nhân lực giữa các KCN và trường cao đẳng, đại học, trường nghề để giải
quyết tình trạng thiếu lao động chuyên môn kỹ thuật như hiện nay. Tính
22
chung khu vực đầu tư nước ngoài đã tham gia đào tạo cho khoảng hơn 1,5
triệu lao động Việt Nam, trong đó 65% là kèm cặp tại doanh nghiệp, 35%
được đào tạo bổ sung kỹ năng mới cho phù hợp với cộng nghệ áp dụng trong
sản xuất.
Tiền lương cao trong khu vực FDI đã tạo ra sức cạnh tranh trên thị
trường sức lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong nước, lao
động làm việc trong khu vực FDI có chất lượng cao hơn hẳn so với các khu
vực khác, thể hiện qua những tiêu chí như: ý thức kỷ luật lao động, trình độ

lao động, khả năng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Điều kiện việc làm tốt hơn do áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, hệ
thống quản lý khoa học, đây là những nguyên nhân làm cho năng suất lao
động ở khu vực FDI cao hơn so với các khu vực khác trong nước.
1.1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI vào phát triển công
nghiệp
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến thu hút FDI vào phát triển công
nghiệp. Đó là:
Thứ nhất, sự ổn định chính trị - xã hội.
Thực tiễn phát triển kinh tế trên thế giới cho thấy sự ổn định về mặt
chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển và là mối quan tâm hàng
đầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Bởi trong các hoạt động đầu tư, nguyên
tắc hàng đầu của các nhà đầu tư là "an toàn về vốn đầu tư" và có lợi nhuận.
Sự mất ổn định về chính trị - xã hội tất yếu kéo theo môi trường đầu tư, môi
trường kinh doanh không được đảm bảo, điều đó làm “nản lòng”, sự không
yên tâm đối với các nhà đầu tư. Điều này giải thích tại sao dòng vốn FDI ít
vào các khu vực có sự bất ổn về chính trị - xã hội. Tình hình chính trị - xã hội
ổn định và với quyết tâm của Chính phủ trong việc ưu tiên cho ổn định kinh tế
vĩ mô, tinh thần tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, và những nỗ lực cải
23
cách kinh tế theo hướng thị trường là những yếu tố hấp dẫn nhất của nền kinh
tế Việt Nam đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài.
Trong những năm qua Việt Nam được quốc tế đánh giá là một trong
những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất trong khu vực, tạo lòng tin cho
các nhà đầu tư nước ngoài, do đó đã thu hút được lượng FDI đáng kể để thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong Văn kiện Đại hội lần thứ
IX và lần thứ X của Đảng đã khẳng định: Sự ổn định chính trị - xã hội ở nước
ta là một lợi thế để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, độ mở của nền kinh tế.
Các thước đo của độ mở của nền kinh tế có thể bao gồm: Tỷ lệ kim

ngạch xuất khẩu trên GDP; tỷ lệ kim ngạch nhập khẩu trên GDP; tỷ lệ FDI
trên tổng đầu tư và tỷ trọng khu vực nước ngoài trong GDP… Các thước đo
này có tính không ổn định nên tồn tại hiện tượng sai số phép đo. Trong số các
thước đo ấy, thì tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu trên GDP là thước đo
cơ bản nhất thường được sử dụng cho độ mở của nền kinh tế. Chỉ số các
thước đo ấy cao cho thấy độ mở của nền kinh tế trong nước là lớn.
Độ mở của nền kinh tế trong nước có thể góp phần nâng cao trình độ
công nghệ thông qua thúc đẩy nhập khẩu kỹ thuật và công nghệ tiên tiến cũng
như kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài vào nền kinh tế trong nước.
Mặt khác có thể mang nhiều ngoại tệ để nhập khẩu nhiều thiết bị máy móc và
các loại hàng hoá trung gian, hình thành nên vốn vật chất góp phần thúc đẩy
tăng trưởng thông qua xuất khẩu.
Độ mở của nền kinh tế lớn là một yếu tố làm gia tăng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài. Có thể minh chứng điều này qua các số liệu sau đây: Năm
2007, một năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, GDP theo giá hiện hành đạt
1.143 nghìn tỷ VND (tương đương 71,3 tỷ USD), tổng kim ngạch xuất khẩu
hàng hoá của Việt Nam đạt trên 109 tỷ USD. Đem so sánh 109 tỷ USD/71,3
tỷ USD thì độ mở của nền kinh tế là 150%. Từ đó vốn FDI thu hút vào Việt
24
Nam là 20,3 tỷ USD, tăng 69,1% so với năm 2006 (năm 2006 thu hút là 12 tỷ
USD, đây là coi là mức kỷ lục từ khi Việt Nam ban hành Luật Đầu tư trực
tiếp nước ngoài) [31, tr.21], [31, tr.43]. Dĩ nhiên đi liền với độ mở của nền
kinh tế là việc cải thiện môi trường đầu tư, hoàn thiện thể chế kinh tế… Tạo
nên sự hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài.
Thứ ba, môi trường đầu tư, môi trường kinh doanh và các chính sách
đầu tư.
- Môi trường kinh doanh.
Môi trường kinh doanh tổng thể của một quốc gia bao gồm nhiều yếu
tố từ vĩ mô đến vi mô, từ kinh tế đến kỹ thuật. Có nhiều cách tiếp cận đánh
giá về môi trường kinh doanh của một quốc gia:

(1) Đánh giá mức độ thuận lợi về môi trường kinh doanh dựa trên 10
yếu tố: Hoạt động kinh doanh, gia nhập thị trường, giải quyết giấy phép, sử
dụng lao động, đăng ký tài sản, vốn vay tín dụng, bảo vệ nhà đầu tư, đóng
thuế thương mại quốc tế, thực hiện hợp đồng và đóng cửa doanh nghiệp.
(2) Đánh giá theo chỉ số năng lực cạnh tranh quốc gia, gồm:
+ Năng lực cạnh tranh tổng hợp, theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF)
gồm: Thể chế, hạ tầng, kinh tế vĩ mô, y tế và giáo dục cơ bản, đào tạo và giáo
dục bậc cao, hiệu quả thị trường, sự sẵn sàng về kỹ thuật, trình độ kinh doanh,
đổi mới và sáng tạo.
+ Năng lực cạnh tranh tăng trưởng (GCT), theo WEF chỉ số GCT được
xây dựng trên 3 thành tố cơ bản: (1) chỉ số xếp hạng môi trường kinh tế vĩ mô
(chỉ số ổn định kinh tế vĩ mô, chỉ số về mức độ chi tiêu lãng phí của Chính
phủ,chỉ số tín nhiệm tài chính của đất nước). (2) chỉ số xếp hạng về thể chế
công (chỉ số thi hành pháp luật và hợp đồng, chỉ số về tham nhũng). (3) chỉ số
xếp hạng về công nghệ (chỉ số sáng tạo công nghệ, chỉ số về công nghệ thông
tin, chỉ số về chuyển giao công nghệ).
25

×