Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

Tội đua xe trái phép trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.6 KB, 135 trang )

mục lục
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các bảng
Mở Đầu 1
Chơng 1: Một số vấn đề chung về tội đua xe trái phép
trong luật hình sự việt nam
9
1.1. Sự cần thiết của việc bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công
cộng trong luật hình sự Việt Nam và khái niệm các tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
9
1.1.1. Sự cần thiết của việc bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công
cộng trong luật hình sự Việt Nam
9
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng 13
1.2. Khái niệm tội đua xe trái phép và ý nghĩa của việc quy định
tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam
17
1.2.1. Khái niệm tội đua xe trái phép 17
1.2.2. ý ngha ca vic quy nh tội đua xe trái phép trong lut hình
s Vit Nam
22
1.3. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của luật hình sự
Việt Nam liên quan đến tội đua xe trái phép trớc khi ban hành
Bộ luật hình sự năm 1999
24
1.3.1. Nhận xét chung 24
1.3.2. Quá trình hình thành và phát triển của luật hình sự Việt Nam


liên quan đến tội đua xe trái phép trớc khi ban hành Bộ luật
25
1
hình sự năm 1999
Chơng 2: Tội đua xe trái phép theo quy định của Bộ
luật hình sự Việt Nam năm 1999 và thực tiễn
xét xử
32
2.1. Tội đua xe trái phép theo quy đinh của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999
32
2.1.1. Các dấu hiệu pháp lý hình sự 32
2.1.2. Hình phạt 39
2.2. Phân biệt tội đua xe trái phép với một số tội phạm khác có liên
quan trong luật hình sự Việt Nam
46
2.2.1. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội vi phạm quy định về điều
khiển giao thông đờng bộ
46
2.2.2. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội tổ chức đua xe trái phép 48
2.2.3. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội gây rối trật tự công cộng 49
2.2.4. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội chống ngời thi hành công
vụ
50
2.2.5. Phân biệt tội đua xe trái phép với tội đánh bạc 53
2.3. Thực tiễn xét xử tội đua xe trái phép 54
2.3.1. Nhận xét chung 54
2.3.2 Tình hình xét xử tội đua xe trái phép 59
2.3.3. Vài nét về các đặc điểm tội phạm học của tình hình tội đua xe
trái phép

65
2.2.4. Một số tồn tại, vớng mắc và các nguyên nhân cơ bản 76
Chơng 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp
Nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của bộ luật hình sự Việt Nam về tội đua xe
trái phép
89
3.1. Vài nét dự báo về tình hình đua xe trái phép ở nớc ta trong 78
2
thời gian tới và sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội phạm này
3.1.1. Vài nét dự báo về tình hình đua xe trái phép ở nớc ta trong
thời gian tới
78
3.1.2. Sự cần thiết của việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình
sự Việt Nam về tội đua xe trái phép
93
3.2. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1999 về tội đua xe trái phép
95
3.2.1. Nhận xét chung 95
3.2.2. Nội dung sửa đổi, bổ sung cụ thể 98
3.3. Những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của
Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1999 về tội đua xe trái phép
103
3.1.1. Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đờng bộ, an toàn công cộng
103
3.2.2. Hoàn thiện các quy định của pháp luật trong lĩnh vực xử lý vi
phạm trong lĩnh vực giao thông đờng bộ, an toàn công cộng và

trật tự công cộng
109
3.3.3. Tăng cờng tuần tra, giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời mọi vi
phạm trật tự an toàn giao thông đờng bộ và xét xử nghiêm
minh tội đua xe trái phép
112
3.3.4. Tăng cờng phơng tiện cho cán bộ, chiến sĩ, ngời thi hành công
vụ làm công tác bảo đảm an ninh trật tự, an toàn giao thông đ-
ờng bộ
116
3.3.5. Tổ chức lại mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao
thông đờng bộ, quản lý các phơng tiện và ngời điều khiển ph-
ơng tiện giao thông đờng bộ, cấp giấy phép lái xe, đăng ký ph-
ơng tiện giao thông đờng bộ
120
kết luận 122
3
Danh mục tài liệu tham khảo 124
Danh mục các bảng
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
2.1 Sự khác nhau giữa tội vi phạm quy định về điều khiển
phơng tiện giao thông đờng bộ và tội đua xe trái phép
47
2.2 Sự khác nhau giữa tội đua xe trái phép và tội tổ chức đua
xe trái phép
48
2.3 Sự khác nhau giữa tội gây rối trật tự công cộng và tội đua
xe trái phép

50
2.4 Sự khác nhau giữa tội đua xe trái phép và tội chống ngời
thi hành công vụ
52
2.5 Sự khác nhau giữa tội đua xe trái phép với tội đánh bạc 54
2.6 Tổng số vụ, số bị cáo bị Tòa án xét xử về tội đua xe trái
phép trong 10 năm (2001-2010)
60
2.7 Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tộ đua xe
trái phép trong tơng quan với các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng trong 10 năm (2001-2010)
61
2.8 Tổng số vụ án, số bị cáo do Tòa án xét xử về tội đua xe
trái phép trong tơng quan với tội giết ngời, tội cố ý gây th-
ơng tích, tội gây rối trật tự công cộng và tội chống ngời
thi hành công vụ trong 10 năm (2001-2010)
62
4
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 31/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP
về Tăng cờng công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; đồng thời
Thủ tớng Chính phủ ban hành Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg phê duyệt
Chơng trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Qua nhiều năm thực hiện các
văn bản trên, chúng ta đã đạt đợc những kết quả quan trọng nh: từng bớc nâng
cao nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội
phạm; tạo lập cơ chế phối hợp đồng bộ, phát huy đợc sức mạnh tổng hợp của
hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm;
từng bớc kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, làm giảm một số loại tội
phạm nghiêm trọng; giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, góp

phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc; v.v
Do đó, nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội, góp phần
quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, để tiếp tục
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 09/NQ-CP và Chơng trình quốc gia phòng,
chống tội phạm từ nay đến năm 2010, Thủ tớng Chính phủ đã ra Chỉ thị số
37/2004/Ct-TTg "Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP và
Chơng trình Quốc gia phòng, chống tội phạm của Chính phủ đến năm 2010"
ngày 08/11/2004, trong đó nhấn mạnh: về mục tiêu, yêu cầu:
1. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong
mọi tình huống, tạo ra môi trờng xã hội ổn định phục vụ công cuộc
phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, nâng cao đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân. Giữ vững kỷ cơng pháp luật, sự nghiêm
minh của pháp chế xã hội chủ nghĩa [13].
5
Cùng với các văn bản của Đảng và Nhà nớc, pháp luật hình sự chính là
một trong những công cụ sắc bén và hữu hiệu của Nhà nớc ta trong công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm nhằm bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
duy trì trật tự, an toàn xã hội, đồng thời pháp luật hình sự còn góp phần chống
lại mọi hành vi phạm tội, giáo dục ngời ý thức chấp hành và tuân theo pháp
luật.
Trong những năm vừa qua, nền kinh tế của cả nớc đã có những khởi
sắc đáng mừng, từ đó có những tác động tích cực đến đời sống của toàn bộ
nhân dân cả nớc. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt đợc,
chúng ta không thể không thấy những khó khăn và thách thức to lớn đặt ra với
toàn Đảng và toàn dân, đặc biệt là các thành phố lớn nh Hà Nội (nhất từ sau
khi Hà Nội đợc mở rộng ra bao trùm lên toàn bộ tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh
và bốn xã thuộc huyện Lơng Sơn tỉnh Hòa Bình), Thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ; v.v

Hiện nay, tội phạm hình sự nói chung, các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng nói riêng, cùng với tội gây rối trật tự công cộng, tội tổ
chức đua xe trái phép thì tội đua xe trái phép trên các thành phố, khu đô thị,
tỉnh lộ, thị xã lớn đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm
này không có tính nguy hiểm cao so với các loại tội phạm khác nhng nó có
tính phổ biến, đa dạng hình thức, tính "nhóm", "tổ chức" và có ảnh hởng
không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tội phạm này thể hiện
ở chỗ - hành vi đua xe trái phép đã xâm phạm nghiêm trọng các quan hệ xã
hội trong lĩnh vực công cộng, gây tổn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà nớc và công dân, hành vi này đợc thực hiện công khai và thờng ở
những nơi đông ngời, biểu hiện ý thức coi thờng kỷ cơng xã hội, pháp luật của
Nhà nớc. Hình thức biểu hiện của hành vi này thờng là: tụ tập đi xe máy tốc
độ cao, lạng lách, đánh võng, gây huyên náo đờng phố và ngày càng có xu
6
hớng gia tăng, kèm theo đó là các hành vi hành hung, đánh lộn, đập phá, gây
lộn xộn ở nơi đông ngời, hủy hoại hoặc cố ý làm h hỏng tài sản, chống ngời
thi hành công vụ, cố ý gây thơng tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của ngời
khác, thậm chí là hành vi giết ngời; v.v Đặc biệt, có thể tính trung bình, mỗi
năm ở nớc ta có khoảng 10 nghìn ngời chết, hàng chục nghìn ngời bị thơng và
hàng trăm tỉ đồng bị thiệt hại do những hành vi vi phạm quy định về an toàn
giao thông đờng bộ gây ra trong đó có hành vi đua xe trái phép. Qua các số
liệu thống kê chính thức đợc thu thập từ các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa
án trong cả nớc, đặc biệt là các thành phố lớn cho thấy, diễn biến của loại
hành vi và tội phạm này ngày càng phức tạp nh vụ án đua xe trái phép và gây
rối trật tự công cộng tại quận Hoàn Kiếm, Hà Nội năm 2009, với nhiều hình
thức vi phạm và phạm tội khác nhau, trong đó đáng báo động là số lợng những
ngời phạm tội tham gia ngày một đông hơn, trẻ hơn và trong độ tuổi học sinh,
sinh viên chiếm tỷ lệ cao. Theo số liệu thống kê cha đầy đủ, mặc dù xử lý hình
sự còn cha nhiều, ví dụ: trong 10 năm (2001-2010), tội đua xe trái phép mà
Tòa án phải đa ra xét xử hàng năm cũng không nhiều, cao nhất là năm 2001

có 07 vụ án và 20 bị cáo, còn năm 2007 có 07 vụ án và 13 bị cáo; đến năm
2008 có 05 vụ án với 18 bị cáo, năm 2009 có 05 vụ án với 07 bị cáo, nhng dới
góc độ hành chính lại rất cao, đặc biệt quy mô và tính chất ngày càng phức tạp
nh đua ôtô, đua xe máy kèm theo đánh bạc, tổ chức đánh bạc; hay thực tiễn
còn nhiều trờng hợp nhầm lẫn giữa tội phạm này với một số tội phạm khác nh:
tội gây rối trật tự công cộng, tội chống ngời thi hành công vụ, tội vi phạm các
quy định về điều khiển phơng tiện giao thông đờng bộ; v.v
Hiện nay, trong công cuộc cải cách t pháp, Nhà nớc ta không ngừng
xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật nói chung, các văn bản về pháp
luật hình sự nói riêng. Đó là một xu thế tất yếu khách quan để xây dựng Nhà
nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân, đồng
thời thực hiện tốt các nhiệm vụ mà các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng lần thứ VIII, IX, X và XI đề ra, cũng nh các yêu cầu cấp bách mà ba
7
nghị quyết của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ơng Đảng, đó là Nghị quyết
số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 "Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác t
pháp trong thời gian tới", Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 "Về
Chiến lợc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hớng đến năm 2020" và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005
"Về Chiến lợc cải cách t pháp đến năm 2020" đòi hỏi phải giải quyết. Một
trong những nhiệm vụ đặt ra trong giai đoạn hiện nay của nớc ta là bảo vệ sự
phát triển ổn định kinh tế, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội. Bên cạnh
những thành tựu về sự phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội và khoa học - công
nghệ đạt đợc, chúng ta cũng phải đơng đầu với những thách thức gay gắt nh các
quốc gia khác khi bớc vào thiên niên kỷ mới, đó là vấn đề đấu tranh phòng và
chống tội phạm trong tình hình mới. Do đó, để góp phần làm sáng tỏ các dấu
hiệu pháp lý hình sự của tội đua xe trái phép để chỉ ra nguyên nhân phạm tội
từ đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự về tội phạm này, chúng tôi quyết
định lựa chọn đề tài: "Tội đua xe trái phép trong luật hình sự Việt Nam" làm

luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu về các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
nói chung, tội đua xe trái phép nói riêng đã có một số công trình nghiên cứu ở
các mức độ trực tiếp và gián tiếp khác nhau, cụ thể là:
* Nhóm thứ nhất gồm các giáo trình, sách giáo khoa, sách chuyên khảo
nh: 1) GS.TS. Đỗ Ngọc Quang, Chơng XIX - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm) do GS.TSKH. Lê Cảm chủ biên, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,
2001 (tái bản năm 2003 và 2007); 2) GS.TS. Võ Khánh Vinh, Chơng X - Các
tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Giáo trình
Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) do GS.TS. Võ Khánh Vinh chủ
8
biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Ch-
ơng XXV - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách:
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Tập II) do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ
biên, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 4) TS. Phạm Văn Beo, Bài 10 -
Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Luật hình
sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2010; 5) TS. Trần Minh Hởng (chủ biên), TS. Đỗ Đức Hồng Hà, TS. Trịnh Tiến
Việt và tập thể tác giả, Chơng XIX - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật
tự công cộng, Trong sách: Tìm hiểu Bộ luật hình sự nớc Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và những văn bản hớng dẫn thi hành, Nxb Lao động, Hà Nội,
2010; 6) TS. Nguyễn Đức Mai, Chơng XIX - Các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng, Trong sách: Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999, Tập thể tác giả, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 7) ThS.
Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự - Phần các tội
phạm, Tập VI - Các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh, 2005; 8) ThS. Hoàng Đình Ban, Hoạt động phòng
ngừa tai nạn giao thông đờng bộ ở Việt Nam hiện nay, Nxb Công an nhân dân,

Hà Nội, 2008; 9) Tài liệu tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự 1999, Tài liệu
dành cho Báo cáo viên, Nhà in Bộ Công an, Hà Nội, tháng 6/2000.
* Nhóm thứ hai gồm các luận văn, luận án, bài viết và đề tài khoa học
nh: 1) TS. Trơng Quang Vinh (chủ trì), Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trờng
(Đại học Luật Hà Nội), Tội tổ chức đua xe trái phép, tội đua xe trái phép và
đấu tranh phòng, chống các tội này trên địa bàn thành phố Hà Nội, Hà Nội,
2004; 2) TS. Đỗ Đức Hồng Hà, Thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính đối với
hành vi đua xe và tổ chức đua xe trái phép trên địa bàn thành phố Hà Nội,
Bài viết trong đề tài đã nêu; 3) ThS. Phạm Văn Báu, Tội tổ chức đua xe trái
phép, tội đua xe trái phép và đấu tranh phòng, chống các tội này trên địa bàn
thành phố Hà Nội, Bài viết trong đề tài đã nêu; v.v
9
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các công trình trên cho thấy một số công
trình có phạm vi nghiên cứu rộng, trong đó vấn đề về tội đua xe trái phép chỉ
là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các tác giả nên cha đợc phân
tích sâu về mặt lý luận và thực tiễn; có công trình chỉ xem xét tội đua xe trái
phép với ý nghĩa là một tội phạm để bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự và
hình phạt hoặc chỉ xem xét dới góc độ tội phạm học - phòng ngừa cả nhóm tội
phạm xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng trong Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999; có công trình nghiên cứu (đề tài) về tội phạm này và tội
tổ chức đua xe trái phép, đồng thời đề xuất giải pháp đấu tranh phòng chống
các tội này nhng đã nghiên cứu từ khá lâu (2004), do vậy giá trị về lý luận và
thực tiễn không cao, lại đi sâu về vấn đề tội phạm học, phòng ngừa tội phạm
này trên một địa bàn cụ thể là Thủ đô Hà Nội khi cha mở rộng địa bàn thủ đô, lại
ở cấp độ đề tài nghiên cứu do đó, cho đến nay, vẫn cha có công trình khoa học
nào nghiên cứu độc lập, có hệ thống và ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học dới
góc độ pháp lý hình sự về tội đua xe trái phép. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu
để hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về tội đua xe trái
phép, cũng nh đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về
tội phạm này vẫn còn có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn.

3. Mục đích và đối tợng nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một cách có hệ thống về những vấn đề pháp lý cơ
bản của tội đua xe trái phép nh: khái niệm, các dấu hiệu pháp lý và hình phạt
đối với ngời phạm tội, phân biệt tội đua xe trái phép với một số tội phạm khác
trong Bộ luật hình sự, đồng thời đi sâu vào phân tích thực tiễn xét xử tội đua
xe trái phép ở nớc ta từ năm 2001-2010 trên địa bàn cả nớc, cũng nh nghiên
cứu một số bản án hình sự điển hình để đánh giá, phân tích. Trên cơ sở đó,
luận văn chỉ ra một số vớng mắc, tồn tại trong công tác xử lý, định tội để có
vài nét dự báo, từ đó đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật
10
và những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam về tội đua xe trái phép.
3.2. Đối tợng nghiên cứu
Đối tợng nghiên cứu của luận văn đúng nh tên gọi của nó - Tội đua xe
trái phép trong luật hình sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận văn đợc thực hiện trên cơ sở phơng pháp luận của chủ nghĩa Mác
- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh và những chủ trơng, đờng lối của Đảng, Nhà nớc
ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm.
4.2. Các phơng pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu trong đề tài còn sử dụng các phơng pháp nghiên
cứu cụ thể nh: phân tích, tổng hợp và thống kê xã hội học; phơng pháp so
sánh, đối chiếu; phân tích thuần túy quy phạm pháp luật, khảo sát thực tiễn;
nghiên cứu, điều tra án điển hình để phân tích và luận chứng các vấn đề
khoa học cần nghiên cứu trong luận văn này.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã tiếp thu
có chọn lọc kết quả của các công trình đã công bố; các đánh giá, tổng kết của
các cơ quan chuyên môn và các chuyên gia về những vấn đề có liên quan đến

các vấn đề nghiên cứu trong luận văn.
5. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
5.1. ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về tội
đua xe trái phép trong khoa học luật hình sự Việt Nam. Cụ thể, đã làm rõ các
vấn đề chung về tội này trong luật hình sự Việt Nam, phân tích khái quát lịch
11
sử hình thành và phát triển của các quy định pháp luật hình sự nớc ta về tội
phạm này từ năm 1985 cho đến nay, phân biệt tội đua xe trái phép và một số
tội khác hay có sự nhầm lẫn trong thực tiễn; làm sáng tỏ các quy định của Bộ
luật hình sự năm 1999 về tội đua xe trái phép; phân tích thông qua nghiên cứu
thực tiễn xét xử trên địa bàn toàn quốc từ năm 2001-2010 để đánh giá, qua đó
chỉ ra những mâu thuẫn, bất cập của các quy định hiện hành; chỉ ra các sai sót
trong quá trình áp dụng các quy định đó, cũng nh đa ra nguyên nhân để tìm
giải pháp khắc phục, từ đó đa ra vài nét dự báo về tội phạm này trong thời gian
tới ở nớc ta, đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định
của Bộ luật hình sự về tội đua xe trái phép ở khía cạnh lập pháp và việc áp
dụng trong thực tiễn.
5.2. ý nghĩa thực tiễn
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng
để nghiên cứu, học tập. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn sẽ cung cấp
những luận cứ khoa học phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn
áp dụng Bộ luật hình sự Việt Nam liên quan đến tội đua xe trái phép, qua đó
góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội này hiện nay
và sắp tới.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chơng:
Chơng 1: Một số vấn đề chung về tội đua xe trái phép trong luật hình
sự Việt Nam.

Chơng 2: Tội đua xe trái phép theo quy định của Bộ luật hình sự Việt
Nam năm 1999 và thực tiễn xét xử.
Chơng 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về tội đua xe trái phép.
12
Chơng 1
Một số vấn đề chung về tội đua xe trái phép
trong luật hình sự việt nam
1.1. Sự cần thiết của việc bảo vệ an toàn công cộng, trật
tự công cộng trong luật hình sự Việt Nam và khái niệm các
tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng
1.1.1. Sự cần thiết của việc bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công
cộng trong luật hình sự Việt Nam
Bộ luật hình sự đầu tiên của Việt Nam năm 1985 đã xếp nhóm tội xâm
phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng cùng nhóm tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính tại Chơng VIII - "Các tội xâm phạm an toàn công cộng
trật tự công cộng và trật tự quản lý hành chính". Tuy nhiên, trong quá trình áp
dụng pháp luật hình sự đã nhận thấy rằng có sự khác nhau về khách thể loại
của các nhóm tội phạm về xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng so
với nhóm tội phạm xâm phạm về trật tự quản lý hành chính. Cụ thể là: các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng xâm phạm vào những quy
định, quy tắc bảo đảm an toàn, trật tự trong cuộc sống của mọi công dân. Còn
các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính xâm phạm vào hoạt động bình th-
ờng của cơ quan nhà nớc, tổ chức xã hội. Mặt khác, nhóm các tội xâm phạm
an toàn công cộng, trật tự công cộng chiếm số lợng lớn nhất so với các loại tội
phạm ở các chơng khác Bộ luật hình sự, do đó, cần phải tách riêng nhóm tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng với nhóm tội xâm phạm trật tự
quản lý hành chính cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn áp dụng pháp luật.
Bộ luật hình sự năm 1999 quy định Chơng XIX - "Các tội xâm phạm
an toàn công cộng, trật tự công cộng" để làm cơ sở pháp lý để truy cứu trách

nhiệm hình sự những ngời có hành vi xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
13
công cộng, qua đó gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nớc, của tổ chức, thiệt hại
về tính mạng, sức khỏe, tài sản của công dân, xâm phạm đến các hoạt động
bình thờng, ổn định của xã hội và nơi công cộng. Do đó, an toàn công cộng,
trật tự công cộng chính là khách thể quan trọng cần đợc luật hình sự Việt Nam
bảo vệ trớc các hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến. Bởi lẽ, xâm phạm
đến an toàn công cộng, trật tự công cộng chính là xâm phạm đến trật tự chung
của xã hội, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc của cuộc sống xã hội chủ
nghĩa, làm ảnh hởng đến hoạt động bình thờng, ổn định của những nơi công
cộng. Cụ thể hóa điều này, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm đã nhấn mạnh - "bảo vệ
trật tự, an toàn xã hội bao gồm các nội dung chủ yếu - chống tội phạm, giữ gìn
trật tự công cộng, phòng ngừa tai nạn, bài trừ tệ nạn xã hội, chống ô nhiễm
môi trờng nhằm đảm bảo hoạt động bình thờng yên ổn, hợp pháp của các cơ
quan Nhà nớc, các tổ chức xã hội và mọi công dân" [69, tr. 16]. Do đó, với t
cách là khách thể quan trọng đợc luật hình sự bảo vệ và thuộc về lĩnh vực trật
tự, an toàn xã hội, đòi hỏi cần phải làm rõ hai phạm trù "an toàn công cộng"
và "trật tự công cộng" trớc khi đề cập đến khái niệm các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng và việc phân loại các tội phạm này.
Trớc hết, "an toàn công cộng" không đợc đề cập với t cách là một
thuật ngữ trong các Từ điển, tuy nhiên, xét riêng cụm từ "an toàn" đợc hiểu:
"Yên ổn hoàn toàn không nguy hiểm" [68, tr. 26], còn "công cộng" đợc hiểu là
"chung cho hoặc thuộc về mọi ngời" [68, tr. 345]. Do đó, dới góc độ khoa học
pháp lý, "an toàn công cộng" đợc hiểu là trạng thái ổn định, hoàn toàn không có
nguy hiểm đối với mọi ngời xung quanh hoặc an toàn xã hội đối với mọi ngời.
Trong khi đó, nếu "trật tự" đợc hiểu là "tình trạng ổn định, có tổ chức,
có kỹ thuật" [68, tr. 1641] thì Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý
(Bộ T pháp) lại có giải thích thuật ngữ "trật tự công cộng". Theo đó, trật tự
công cộng đợc hiểu là:
14

Trạng thái ổn định, có tổ chức, có kỷ luật ở nơi công cộng.
Những nơi phục vụ lợi ích công cộng nh đờng phố, quảng trờng,
công viên, bệnh viện, nhà hát, rạp chiếu bóng, bãi biển, khu nghỉ mát
đợc tổ chức sắp xếp ngăn nắp, các quy ớc chung đợc mọi ngời tôn
trọng, thực hiện nghiêm chỉnh. Quy tắc bắt buộc phải tuân theo để
bảo vệ lợi ích chung của xã hội, thể hiện toàn bộ yêu cầu cơ bản của
xã hội về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội [60, tr. 809].
Hay theo nghĩa rộng:
Trật tự công cộng là hệ thống các quan hệ xã hội đợc hình
thành và điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật và các nội quy,
quy tắc về trật tự chung, an toàn chung, mà đòi hỏi mọi thành viên
của xã hội phải tuân theo những quy định chung đó nhằm đảm bảo
cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thờng của mọi ngời trong
xã hội [77].
Nh vậy, xét riêng trong lĩnh vực chung của xã hội, an toàn công cộng,
trật tự công cộng đợc coi là điều kiện bảo đảm cho mọi công dân có cơ hội tồn
tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống hiến của mình để xây dựng một xã
hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và
hạnh phúc. Cho nên, bằng cách này hay cách khác, dới bất kỳ hình thức nào,
việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng không những là
một trong những nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa của Nhà nớc, mà đến lợt
mình, Nhà nớc lại đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ chức và mọi công dân phải
tuân thủ một cách nghiêm túc pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội
xã hội chủ nghĩa. Cho nên, dới góc độ pháp lý, tất cả các hành vi xâm phạm
"an toàn công cộng, trật tự công cộng" đều gây nên những thiệt hại nhất định
cho cuộc sống bình thờng của công dân và ổn định của xã hội, do đó cần thiết
phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi vi phạm mà
15
áp dụng hình thức xử lý khác nhau, từ xử phạt hành chính đến xử lý hình sự.

Có thể nói, ngay từ khi giành đợc chính quyền, bên cạnh việc bảo vệ
thành quả cách mạng, Đảng và Nhà nớc ta cũng quan tâm đến việc bảo vệ an
toàn công cộng, trật tự công cộng không chỉ trên phơng diện pháp lý bằng việc
ban hành hàng loạt các văn bản có liên quan đến lĩnh vực này, mà còn có những
biện pháp thiết thực để cụ thể hóa và đa các văn bản đó vào thực tiễn cuộc sống.
Cụ thể, Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã nhấn mạnh: "Công dân có nghĩa vụ
tôn trọng và bảo vệ tài sản của Nhà nớc và lợi ích công cộng" (Điều 78) và
"Công dân có nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, tham gia bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, giữ gìn bí mật quốc gia, chấp hành những
quy tắc của sinh hoạt công cộng" (Điều 79). Nói một cách khác, tôn trọng và
bảo vệ an toàn công cộng, trật tự công cộng là "một trong những thớc đo, tiêu
chí để đánh giá sự ổn định của xã hội, đánh giá sức mạnh của các cơ quan bảo
vệ pháp luật, khả năng quản lý của các cơ quan, tổ chức, đồng thời nó cũng đánh
giá đợc ý thức pháp luật, văn minh pháp lý của công dân" [32, tr. 439]. Đặc
biệt, ngày 31/7/1998, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 09/1998/NQ-CP về
Tăng cờng công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới; đồng thời Thủ
tớng Chính phủ ban hành Quyết định số 138/1998/QĐ-TTg phê duyệt Chơng
trình quốc gia phòng, chống tội phạm. Qua năm năm thực hiện các văn bản
trên, chúng ta đã đạt đợc những kết quả quan trọng nh: Từng bớc nâng cao
nhận thức của toàn xã hội về trách nhiệm đấu tranh phòng, chống tội phạm;
tạo lập cơ chế phối hợp đồng bộ, phát huy đợc sức mạnh tổng hợp của hệ
thống chính trị và các tầng lớp nhân dân tham gia phòng, chống tội phạm;
từng bớc kiềm chế sự gia tăng của các loại tội phạm, làm giảm một số loại tội
phạm nghiêm trọng. Đặc biệt, đã giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn
xã hội, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất
nớc. Nh vậy, việc bảo vệ và giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội
trong mọi tình huống, qua đó xây dựng môi trờng xã hội bình thờng và ổn
định để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc, nâng cao
16
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân là đòi hỏi có ý nghĩa quan trọng

và thiết thực trong mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn và bằng các biện pháp pháp lý
khác nhau, trong đó có biện pháp pháp luật hình sự. Cụ thể hóa điều này, để
bảo vệ "an toàn công cộng, trật tự công cộng" với t cách là khách thể quan
trọng đợc luật hình sự xác lập và bảo vệ, ngay từ Bộ luật hình sự đầu tiên của
nớc ta năm 1985, nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng đ-
ợc xếp chung tại Chơng VIII: "Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng,
trật tự quản lý hành chính" với ba nhóm quan hệ xã hội đợc luật hình sự Việt
Nam xác lập và bảo vệ.
1.1.2. Khái niệm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng
Tội đua xe trái phép nằm trong nhóm các tội xâm phạm trật tự công
cộng và rộng ra là thuộc nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự
công cộng. Do đó, cần thiết phải làm rõ khái niệm các tội xâm phạm an toàn
công cộng, trật tự công cộng dới góc độ pháp lý hình sự, trớc khi đi vào làm rõ
khái niệm tội đua xe trái phép.
Có tác giả đa ra quan điểm:
Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, đợc quy định tại Chơng XIX của Bộ luật
hình sự, do ngời có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự công
cộng, gây ra những thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe của nhân dân,
gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nớc và của cá nhân [65].
Quan điểm này nêu tơng đối đầy đủ nội dung, nhng trong dấu hiệu chủ
thể của nhóm tội phạm này còn cha nêu ra đợc một dấu hiệu quan trọng đó là
dấu hiệu: "đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự", vì đây là một dấu hiệu hoàn toàn
khác với dấu hiệu "có năng lực trách nhiệm hình sự", bởi đây là hai dấu hiệu
thuộc về chủ thể của tội phạm. Trong đó đặc điểm có năng lực trách nhiệm
17
hình sự là điều kiện cần thiết để cho chủ thể có thể có lỗi khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội và đặc điểm đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự vừa thể

hiện chính sách hình sự của nhà nớc đồng thời cũng là điều kiện cần thiết để
hình thành năng lực trách nhiệm hình sự. Hai đặc điểm của chủ thể tội phạm
có liên quan đến nhau nhng cũng mang tính độc lập tơng đối vì một ngời đủ
tuổi chịu trách nhiệm hình sự thì nói chung là có năng lực trách nhiệm hình sự
nhng cũng có thể không có năng lực trách nhiệm hình sự và ngợc lại một ngời
có năng lực trách nhiệm hình sự nhng có thể lại cha đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự.
Tác giả khác lại quan niệm:
Các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành
vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, xâm phạm vào những quy định của
Nhà nớc về an toàn, trật tự công cộng trong các lĩnh vực giao thông
vận tải, phòng cháy chữa cháy, tin học, lao động sản xuất, quản lý
vũ khí, phơng tiện, công cụ hỗ trợ, chất cháy, chất độc, chất phóng
xạ, và trong những lĩnh vực khác của trật tự xã hội gây nên những
thiệt hại về tính mạng, tổn hại đến sức khỏe, tài sản của Nhà nớc và
của công dân [39, tr. 494].
Quan điểm này có u điểm là đã phân loại đầy đủ và chi tiết từng nhóm
tội phạm xâm phạm đến các lĩnh vực khác nhau có liên quan đến an toàn công
cộng và trật tự công cộng. Điểm hạn chế của quan điểm trên là việc tác giả lại
cha nêu bật đợc về dấu hiệu chủ thể (dấu hiệu về có năng lực chịu trách nhiệm
hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự của ngời phạm tội) trong nhóm tội
phạm này; v.v
Tóm lại, dới góc độ khoa học luật hình sự Việt Nam, các tội xâm
phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi nguy hiểm cho xã hội,
do những ngời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm vào các quy
18
định của Nhà nớc về an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những
thiệt hại về tài sản của Nhà nớc, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe, tài sản của công dân, đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình

thờng, ổn định xã hội ở những nơi công cộng.
Từ khái niệm này, chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm cơ bản về
các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng nh sau:
Một là, các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà biểu hiện cụ thể của nó là: xâm phạm vào các quy
định của Nhà nớc về an toàn công cộng, trật tự công cộng, gây ra những thiệt
hại về tài sản của Nhà nớc, của tổ chức, thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài
sản của công dân, đồng thời còn xâm phạm đến hoạt động bình thờng, ổn định
xã hội ở những nơi công cộng.
Hai là, các tội phạm này đợc thể hiện cụ thể qua những hành vi nguy
hiểm cho xã hội do những ngời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi
chịu trách nhiệm hình sự thực hiện.
Ba là, dấu hiệu lỗi (các tội xâm phạm an toàn, trật tự công cộng đợc
những ngời có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý). Tuy nhiên, đối với các tội phạm
này - không có mục đích chống chính quyền nhân dân.
Nh vậy, từ khái niệm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng đã nêu và căn cứ vào nhóm quan hệ mà tội phạm xâm hại đến, cũng nh
dựa vào những quy định của Bộ luật hình sự, chúng ta có thể chia những tội
phạm này thành hai nhóm cơ bản sau:
* Nhóm thứ nhất - Nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng. Nhóm
tội phạm này rất đa dạng trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội về
xâm phạm đến các quy định về an toàn công cộng nh: các quy tắc của đời
sống xã hội, ở những nơi công cộng trên các lĩnh vực giao thông vận tải (đờng
19
sắt, đờng bộ, đờng thủy và đờng không), trong lao động - sản xuất, quản lý vũ
khí, chất cháy, chất nổ; v.v Việc quy định những vấn đề này nhằm bảo đảm
an toàn tài sản của Nhà nớc, của tổ chức, an toàn về tính mạng, sức khỏe và tài
sản của công dân, bảo đảm sự bình yên, ổn định của xã hội.
Cụ thể hóa các hành vi phạm tội này, nhóm các tội xâm phạm an toàn

công cộng bao gồm 47 tội danh trong Bộ luật hình sự năm 1999 (trong đó có
04 tội phạm mới đợc bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự ngày 19/6/2009 của Quốc hội) đợc quy định tại các điều 202-244
thuộc các lĩnh vực liên quan đến an toàn công cộng nh: giao thông vận tải (đ-
ờng sắt, đờng bộ, đờng thủy và đờng không), lao động - sản xuất, quản lý vũ
khí, chất cháy, chất nổ; v.v
* Nhóm thứ hai - Các tội xâm phạm trật tự công cộng. Nhóm tội phạm
này cũng đa dạng và xâm phạm đến các quan hệ xã hội liên quan đến lĩnh vực
trật tự công cộng, là các quy định ở những nơi công cộng nh nhà ga, bến xe,
rạp hát, công viên, đờng phố hay những nơi tập trung đông dân c có liên
quan đến nếp sống văn minh, quy tắc chung mà mọi ngời đều biết, nhận thức
và thừa nhận chung.
Tơng tự, cụ thể hóa các hành vi phạm tội này, các tội xâm phạm trật
tự công cộng bao gồm 12 tội danh quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999,
cụ thể là các điều 245-256. Trong nhóm tội phạm này này, tội đua xe trái phép
xâm phạm đến trật tự chung của xã hội, vi phạm nếp sống văn minh, quy tắc
của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, làm ảnh hởng đến hoạt động bình thờng, ổn
định của những nơi công cộng.
Nh vậy, từ việc làm sáng tỏ những vấn đề chung về các tội xâm phạm
an toàn công cộng, trật tự công cộng trong luật hình sự, việc làm rõ khái niệm
và ý nghĩa của tội đua xe trái phép trong luật hình sự Việt Nam có vai trò xã
hội - pháp lý quan trọng, qua đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng,
chống loại tội phạm này, cũng nh góp phần định tội danh chính xác đối với
20
các hành vi phạm tội trên thực tế của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án.
1.2. Khái niệm tội đua xe trái phép và ý nghĩa của việc
quy định tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm tội đua xe trái phép
Nghiên cứu về tội phạm và hình phạt luôn là vấn đề quan trọng và chủ
yếu nhất của luật hình sự của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam. Tội

phạm và nội dung của khái niệm tội phạm đều phản ánh rõ nét và đầy đủ bản
chất giai cấp, các đặc điểm chính trị - xã hội, cũng nh những đặc điểm pháp lý
của luật hình sự quốc gia, đồng thời, nó còn "đợc xem nh là điều kiện cần thiết
có tính nguyên tắc để giới hạn giữa tội phạm và không phải là tội phạm, giữa
trách nhiệm hình sự và những trách nhiệm pháp lý khác " [27, tr. 9].
ở nớc ta, khái niệm tội phạm đợc các nhà làm luật ghi nhận trong
Điều 8 Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985 và năm 1999 hiện hành (đã đợc
sửa đổi, bổ sung năm 2009). Định nghĩa lập pháp về khái niệm tội phạm đã
phản ánh bản chất giai cấp, cũng nh tính nhân dân sâu sắc, theo đó, tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội đợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngời
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ
chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã
hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân,
xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Nh vậy, khái niệm tội phạm cụ thể - tội đua xe trái phép, chính là sự cụ
thể hóa khái niệm tội phạm (chung) đã nêu. Hiện nay, trong khoa học luật
hình sự Việt Nam, có thể khẳng định rằng, còn tơng đối hiếm các định nghĩa
khoa học về khái niệm này. Tuy nhiên, cũng có một số quan điểm mà dới đây
chúng ta sẽ lần lợt xem xét.
21
Có tác gi cho rng: "Ti ua xe trái phép l h nh vi tr c tip tham
d v o cu c ua xe, gây mt trật tự, an toàn công cộng, e da nghiêm trọng
đến tính mạng, sc khe, t i s n ca ngi khác" [55, tr. 205]. Theo đó,
chúng tôi cho rằng, quan điểm này có u điểm là đã cụ thể hóa đợc biểu hiện
của hành vi phạm tội đua xe trái phép, đồng thời cng nêu chính xác v y
ni dung ca khái niệm n y tuy v y vn thiu du hiu ch th ca ti
phm, nh phân tích ở trên chủ thể của tội phạm là một trong bốn dấu hiệu
quan trong để cấu thành tội phạm. Thông thờng, chủ thể của tội phạm có hai

đặc điểm chủ yếu - có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, tại quy định của Điều 207 Bộ luật hình sự năm
1999 về hành vi đua xe trái phép đã mở rộng thêm về chủ thể của tội phạm
này mà theo đó thì đặc điểm xấu về nhân thân của chủ thể đợc quy định là đặc
điểm đặc biệt của chủ thể của tội phạm vì đặc điểm này mà hành vi nguy hiểm
cho xã hội nhất định bị coi là tội phạm. Đó là những đặc điểm sau - "đã bị xử
phạt hành chính", "đã bị kết án về tội này hoặc tội tổ chức đua xe trái phép".
Do đó, chỉ truy cứu trách nhiệm hình sự khi chủ thể của tội đua xe trái phép đã
hội tụ đủ những yếu tố cấu thành mà điều luật đã quy định.
Ngoài ra, quan im khác li tp trung miêu t c th, chi tit h nh vi
phm ti v ch th ca h nh vi ph m ti ch không nêu khách th ti phm
xâm phm n cn c pháp luật hình s bo v, theo đó: "đua xe trái phép
là hành vi của hai hay nhiều ngời iu khin xe ô tô, xe máy, hoc các loi xe
khác có gn ng c chy thi trên đờng b nhm ui kp hoc vt ngi
cùng ua" [42, tr. 31]. Trong khi đó, khách thể của tội phạm "là quan hệ xã
hội đợc luật hình sự bảo vệ và bị hành vi phạm tội xâm phạm", nếu xét về mặt
hình thức thì hành vi đua xe là trái với quy định của pháp luật hình sự, xét về
nội dung, hành vi đua xe trái phép đã tác động đến đối tợng tác động cụ thể là
an toàn công cộng và rật tự công cộng. Vì thế, xét riêng trong lĩnh vực chung
của xã hội, an toàn công cộng, trật tự công cộng đợc coi là điều kiện bảo đảm
cho mọi công dân có cơ hội tồn tại, phát triển và sử dụng tốt năng lực, cống
22
hiến của mình để xây dựng một xã hội văn minh, dân chủ, giàu đẹp, có cuộc
sống ấm no, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Cho nên, bằng cách này hay
cách khác, dới bất kỳ hình thức nào, việc giữ gìn và bảo vệ an toàn công cộng,
trật tự công cộng không những là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa của Nhà nớc, mà đến lợt mình, Nhà nớc lại đòi hỏi tất cả các cơ quan, tổ
chức và mọi công dân phải tuân thủ một cách nghiêm túc pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho nên, dới góc độ pháp lý, tất cả

các hành vi xâm phạm "an toàn công cộng, trật tự công cộng" đều gây nên
những thiệt hại nhất định cho cuộc sống bình thờng của công dân và ổn định
của xã hội, do đó cần thiết phải bị xử lý, tùy theo tính chất và mức độ nguy
hiểm của hành vi vi phạm mà áp dụng hình thức xử lý khác nhau, từ xử phạt
hành chính đến xử lý hình sự, khách thể cụ thể của loại tội phạm này chính là
ngời phạm tội đã gây thiệt hại cho sức khỏe, tài sản của ngời khác, hoặc gây
mất trật tự, an toàn công cộng.
Còn dới góc độ lập pháp hình sự, Điều 207 B lut hình s cng cha
a ra mt nh ngha c th v khái niệm ca ti ua xe trái phép mà cũng
ch quy nh chung chung:
Ngi n o ua trái phép, ô tô, xe máy, hoặc các loi xe
khác có gn ng c gây thit hi cho sc khe, t i s n ca ngi
khác hoc đã b x pht h nh chính v h nh vi n y ho c ã b kt
án v ti n y, ch a c xóa án tích m còn vi ph m, thì pht tin
t nm triu ng n nm mi triu ng, ci to không giam gi
n ba nm hoc pht tù t ba tháng n ba nm [47].
Định nghĩa lập pháp này chỉ quy định: "ngời nào" - chủ thể tội phạm
thực hiện hành vi đua trái phép một trong các loại xe: ô tô, xe máy, hoặc các
loại xe khác có gắn động cơ và phải có một trong các tình tiết sau: gây thiệt
hại cho sức khỏe, tài sản của ngời khác; hoặc đã b x pht h nh chính v
23
h nh vi n y ho c ã b kt án v ti n y, ch a c xóa án tích m còn vi
phm thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mơi triệu đồng, ci to không
giam gi n ba nm hoc pht tự t ba tháng n ba nm, nhng dới góc độ
khoa học luật hình sự, định nghĩa này cha bao quát khái niệm chung về tội đua
xe trái phép.
Tóm li, di góc khoa hc lut hình s Việt Nam, khái nim ti
ua xe trái phép cn phi c biu hiện c th nm du hiu c bn ca ti
phm nói chung (bao gm: h nh vi nguy hi m cho xã hi c quy nh
trong Bộ luật hình sự, do ngi có nng lc trách nhiệm hình sự và đ tui

chu trách nhiệm hình sự thc hin mt cách có li xâm hi các li ích c
bo v bng pháp luật hình sự). Do vy, khái nim ti phm n y d c nh
ngha nh sau: Ti ua xe trái phép l h nh vi c a hai hay nhiu ngi
iu khin xe ô tô, xe máy hoc các loi xe khác có gn ng c chy thi
trên ng b do ngi có nng lc trách nhim hình s v tui
chu trách nhim hình s thc hin một cách có lỗi gây thit hi cho tính
mng, sc khe, t i s n ca ngi khác hoc ã b x pht h nh chính v
h nh vi n y ho c ã b kt án v ti n y, ch a c xóa án tích m còn vi
phạm.
Nh vậy, từ khái niệm đã nêu và căn cứ vào các quy định của Bộ luật
hình sự, theo chúng tôi, các đc im c bn ca ti ua xe trái phép nh sau:
Một là, ti ua xe trái phép xâm phm trt t, an to n công c ng, tính
mng, sc khe, t i s n ca ngi khác ti ni công cng. Và an to n công
cng v tr t t công cng gn bó mt thit vi nhau nên vic xâm phm v o
nó có ngha l i ngc li li ích c nh n c bo v.
Hai là, ti ua xe trái phép l h nh vi c a hai hay nhiu ngi iu
khin xe ô tô, xe máy hay các loi phng tin khác có gn ng c chy thi
trên ng b. Nói một cách khác, s lng ngi tham gia ít nht phi l t
24
hai ngi tr lên iu khin mt trong các loi phng tin trên.
Ba là, h nh vi ua xe trái phép ó gây hu qu l thi t hi cho tính
mng, sc khe, t i s n ca ngi khác hoc ó b x pht h nh chính v h nh
vi n y ho c ó b kt án v ti n y ch a c xóa án tích m còn vi ph m.
Bốn là, i tng tác ng ca ti phm n y l ph ng tiện dùng
ua bao gm: xe máy, ô tô, v các loại ph ơng tiện khác có gắn động cơ (ở đây
có thể hiểu là những phơng tiện nh: xe công nông, xe đạp điện, xe xích lô
máy; v.v ).
Năm là, ti ua xe trái phép c thc hin do ngi có nng lc
trách nhim hình s và tui chu trách nhim hình s trên những cơ sở chung.
Sáu là, nghiên cứu tội đua xe trái phép thuộc nhóm "tội phạm có hai

hinh thức lỗi" [28, tr. 102]. Tuy nhiên, "tội phạm có hai hình thức lỗi" là một
trong những vấn đề phức tạp của khoa học luật hình sự. Trong lập pháp hình
sự thì vấn đề "tội phạm có hai hình thức lỗi" vẫn cha đợc giải quyết trong Bộ
luật hình sự. Còn trong lý luận và thực tiễn thì tội phạm này đã đợc đề cập khá
nhiều nhng cũng vẫn cha đợc nhận thức một cách thống nhất và đầy đủ.
Trong Bộ luật hình sự, các nhà làm luật đã có quy định trách nhiệm
hình sự tăng nặng đối với một số trờng hợp cố ý phạm tội, nhng vô ý với hậu
quả nguy hại cho xã hội. Trong những trờng hợp nh vậy, thì trong cùng một
loại tội phạm sẽ có hai hình thức lỗi - cố ý và vô ý, loại tội phạm này cũng
chiếm tỉ lệ không nhiều và thờng theo một trong hai mô hình sau:
Thứ nhất, loại tội có cấu thành vật chất, có hai loại hậu quả luật định
với vai trò khác nhau của mỗi loại hậu quả. Loại hậu quả thứ nhất mang ý
nghĩa định tội, còn loại hậu quả thứ hai nghiêm trọng hơn sẽ đóng vai trò là
dấu hiệu định khung tăng nặng.
Thứ hai, những tội phạm có cấu thành hình thức, đặc điểm của loại tội
25

×