Tải bản đầy đủ (.docx) (139 trang)

Nghiên cứu liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản tại xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 139 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và chưa hề được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ đều đã được cảm ơn và các thông tin
trích dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà nội, ngày 02 tháng 06 năm 2014
Sinh viên
Lê Thanh Tùng
1
1
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp đại
học, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ
tận tình của nhiều tập thể, cá nhân trong và ngoài trường.
Trước hết, tôi xin cảm ơn đến Ban giám hiệu trường Đại học Nông nghiệp
Hà Nội, các thầy cô giáo trong Khoa KT & PTNT đã trang bị cho tôi những kiến
thức cơ bản, những định hướng đúng đắn trong học tập cũng như tu dưỡng đạo đức
để tôi có được một nền tảng vững chắc trong học tập và nghiên cứu.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo hướng dẫn trực
tiếp PGS.TS Nguyễn Tuấn Sơn, người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài và hoàn thành
khóa luận.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Đảng ủy, UBND, các ban ngành,
đoàn thể cùng bà con nhân dân xã Việt Hùng đã cung cấp những số liệu cần thiết
và tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tìm hiểu, nghiên cứu tại địa
bàn.
Tôi xin đặc biệt cảm ơn ông Trần Quý Bình, Chủ tịch UBND xã Việt Hùng
đã có những gợi ý vô cùng quý báu và tạo những điều kiện tốt nhất để tôi hoàn
thành nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, người thân, bạn bè đã
khích lệ, động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.


Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 02 tháng 06 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Lê Thanh Tùng
2
2
TỐM TẮT ĐỀ TÀI
Là một xã thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình, xã Việt Hùng được coi là
nơi có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và con người rất thuận lợi cho sản xuất nông
nghiệp. Đặc biệt, với truyền thống là địa phương điển hình, phát triển mạnh về sản
xuất cây vụ đông, xã Việt Hùng đã và đang có những bước đi đúng hướng trong chủ
trương chuyển đổi cơ cấu cây trồng. Cùng với cây trồng chính là lúa trong vụ Xuân và
vụ Mùa thì vụ Đông đã và đang trở thành vụ lớn thứ ba trong năm với những cây trồng
đem lại giá trị kinh tế cao như: bí xanh, dưa chuột, giúp người dân có việc làm ổn
định và tăng thêm thu nhập. Hòa cùng mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
xã Việt Hùng đã có những chuyển biến mạnh mẽ khi đạt 15/19 tiêu chí và đang
quyết tâm về đích trong năm 2014 là tiền đề cho nông nghiệp phát triển nhanh và
bền vững.
Thực tế tại địa phương, mối quan hệ giữa sản xuất, tiêu thụ sản phẩm nông sản
còn nhiều vấn đề được đặt ra như: các hộ sản xuất với diện tích còn nhỏ (8,89
sào/hộ), lao động cho sản xuất không nhiều (trung bình 2 lao động/ hộ); đã có liên
kết giữa người sản xuất với nhau và với chính quyền địa phương, hợp tác xã, nhà
khoa học, đại lý cung ứng vật tư đầu vào, thương lái và đặc biệt là mối liên kết với
doanh nghiệp thu mua, chế biến, xuất khẩu nông sản (bắt đầu từ năm 2012) trong
sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm tuy nhiên vẫn chưa thực sự hiệu quả và còn tồn
tại nhiều bất cập. Thêm vào đó là những rủi ro về thời tiết, sâu bệnh dễ gặp phải
trong quá trình sản xuất, tiêu thụ dẫn đến tình trạng không ổn định trong cung sản
phẩm nông sản của các hộ nông dân.
Một nghiên cứu thực trạng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản nói
chung và cụ thể là sản phẩm bí xanh và dưa chuột tại xã Việt Hùng hoàn toàn có thể

phản ánh đúng các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông
sản tại địa phương. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường liên kết trong
sản xuất , tiêu thụ góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của xã Việt Hùng phát
triển trong thời gian tới.
3
3
Để làm nền tảng cho phân tích của mình, tác giả đã tìm hiểu và góp phần hệ
thống hóa cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn về liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông
sản (cụ thể là mặt hàng rau quả) của một số nước trên thế giới như Thái Lan, Trung
Quốc và thực tế tại Việt Nam. Những lý luận về nguyên tăc, nội dung và lợi ích liên
kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản đem lại được tác giả lồng ghép nhằm thiết
lập một sự logic nhất định cho nhưng phân tích của đề tài.
Trong quá trình tiến hành, đề tài sử dụng phương pháp điều tra trực tiếp bằng
bảng hỏi những tác nhân chính liên quan trong sản xuất và tiêu thụ nông sản tại xã
Việt Hùng như người nông dân, chính quyền địa phương, thương lái, hợp tác xã để
có cái nhìn thực tế, cũng như cung cấp cho đề tài nhiều thông tin có giá trị. Thông
qua quá trình tổng hợp và phân tích, những điểm đạt được, những bất cập còn tồn
tại cần phải giải quyết được chỉ ra.
Qua nghiên cứu thực tế, các liên kết ngang và liên kết dọc trong quá trình sản
xuất và tiêu thụ nông sản, ảnh hưởng của yếu tố thời tiết, vấn đề giá cả tiêu thụ
trong 3 năm 2011-2013 được chỉ ra và phân tích. Tuy mới bắt đầu tiến hành thực
hiện từ năm 2012 nhưng liên kết quan trọng nhất giữa người sản xuất và các doanh
nghiệp thu mua, chế biến và xuất khẩu nông sản đã bước đầu đem lại những dấu
hiệu tích cực: giá bán sản phẩm ổn định, thu nhập bình quân đầu người/ tháng của
người trồng bí xanh và dưa chuột với số giờ lao động trung bình là 4,5 giờ/ ngày đạt
trên mức 2,8 triệu đồng.
Nghiên cứu cũng cung cấp những giải pháp cụ thể đối với chính quyền địa
phương, các cán bộ chuyển giao khoa học kỹ thuật và công nghệ, doanh nghiệp và
các hộ nông dân sản xuất nông sản bí xanh và dưa chuột tại xã Việt Hùng để giải
quyết bất cập và nâng cao hiệu quả các mối liên kết. Trong đó mối liên kết giữa

người sản xuất – hợp tác xã – doanh nghiệp thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản
là cốt lõi.
Từ khóa: Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ, liên kết người sản xuất – hợp tác
xã – doanh nghiệp.
4
4
MỤC LỤC
5
5
DANH MỤC CÁC BẢNG
6
6
DANH MỤC CÁC HÌNH, BIỂU ĐỒ
Hình 2.1 Hình ảnh về quy trình sản xuất và tiêu thụ bí xanh và dưa chuột 18
7
7
CÁC SƠ ĐỒ
8
8
DANH MỤC CÁC HỘP
9
9
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết sử dụng Nội dung
1 ATTP An toàn thực phẩm
2 BVTV Bảo vệ thực vật
3 BQ Bình quân
4 CNH – HĐH Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
5 CC Cơ cấu
6 CBRQ Chế biến rau quả

7 DN Doanh nghiệp
8 ĐVT Đơn vị tính
9 FAO Food and Agriculture Organization
10 GAP Good Agriculture Practice
11 HTX Hợp tác xã
12 IPM Integrated pest management
13 KHKT Khoa học kỹ thuật
14 LĐ Lao động
15 NN Nông nghiệp
16 PTNT Phát triển nông thôn
17 SXNN Sản xuất nông nghiệp
18 STT Số thứ tự
19 TBKT Tiến bộ kỹ thuật
20 GDP Tổng sản phẩm quốc nội
21 TNHH Trách nhiệm hữu hạn
22 Tr.đ Triệu đồng
23 TB Trung bình
24 THCS Trung học cơ sở
25 EC Ủy ban châu Âu
26 WTO World Trade Organization
10
10
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Nông nghiệp là một phần không thể thiếu trong cơ cấu kinh tế của các nước
phát triển cũng như các nước đang phát triển. Ở nước ta nông nghiệp đóng vai trò
vô cùng quan trọng, thể hiện như nông nghiệp chiếm 30% giá trị xuất khẩu và 25%
trong tổng GDP quốc gia, 76% dân số sống ở nông thôn (Tình hình kinh tế xã hội
Việt Nam mười năm 2001 – 2010- Tổng cục thống kê).
Chính vì thế trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước coi nông nghiệp là mặt

trận hàng đầu và cần được phát triển một cách toàn diện cả về chiều rộng và chiều
sâu nhằm đưa nông nghiệp trở thành một ngành thế mạnh đúng với tiềm năng, lợi
thế của đất nước. Trên tinh thần đó, việc nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất nông
nghiệp cũng nhằm mục đích đầu tư cho nông thôn, xây dựng nông thôn mới tạo
thêm thu nhập, nâng cao mức sống cho nông dân là quan trọng.
Trồng trọt, chăn nuôi tạo ra sản phẩm nông nghiệp là thói quen ngàn đời nay
của người nông dân Việt Nam, tuy nhiên đứng trước yêu cầu phát triển kinh tế theo
cơ chế thị trường thì việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đòi hỏi phải đạt hiệu quả cao
hơn. Điều này đồng nghĩa với việc cần có các mối liên kết chặt chẽ giữa các bên
liên quan thay vì chỉ đơn thuần là vai trò của người nông dân như trước đây.
Xã Việt Hùng thuộc huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình được coi là nơi có vị trí
địa lý, điều kiện tự nhiên và con người rất thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp. Đặc
biệt, với truyền thống là địa phương điển hình, phát triển mạnh về sản xuất cây vụ
Đông, xã Việt Hùng đã có những bước đi đúng hướng trong chủ trương chuyển đổi cơ
cấu cây trồng. Cùng với cây trồng chính là lúa trong vụ xuân và vụ mùa thì vụ đông đã
và đang trở thành vụ lớn thứ ba trong năm với những cây trồng đem lại giá trị kinh tế
cao như: bí xanh, dưa chuột, giúp người dân có việc làm và tăng thêm thu nhập. Hòa
cùng mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới xã Việt Hùng đã có những
chuyển biến mạnh mẽ khi đạt 15/19 tiêu chí và đang quyết tâm về đích trong năm
11
11
2014 (Tổng kết và kế hoạch xây dựng nông thôn mới xã Việt Hùng, 2013), là tiền đề
cho nông nghiệp phát triển nhanh và bền vững.
Tuy nhiên, trên thực tế tại địa phương, mối quan hệ giữa sản xuất, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm nông sản còn nhiều vấn đề được đặt ra như: các hộ sản xuất còn
manh mún, đơn lẻ, tổ chức mạng lưới tiêu thụ còn nhiều bất hợp lý, cơ sở vật chất
bảo quản, vận chuyển nông sản đi tiêu thụ còn chưa đảm bảo… Thêm vào đó là
những rủi ro về thời tiết, sâu bệnh dễ gặp phải trong quá trình sản xuất, tiêu thụ dẫn
đến tình trạng không ổn định trong cung sản phẩm nông sản của các hộ nông dân.
Điều này là lý do chính khiến cho việc sản xuất, tiêu thụ nông sản của xã chưa thực

sự hiệu quả, thu nhập của người nông dân tuy có chuyển biến nhưng còn thấp, đời
sống gặp nhiều khó khăn.
Từ những lý do trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:“Nghiên cứu liên
kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản tại xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư, tỉnh
Thái Bình”
1.2 Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
1.2.1 Mục tiêu chung
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
bí xanh và dưa chuột tại xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình thời gian qua
đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản
nhằm thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của địa phương phát triển trong thời gian tới.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
1) Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản
xuất, tiêu thụ nông sản;
2) Đánh giá thực trạng và phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến liên kết trong
sản xuất, tiêu thụ nông sản tại xã Việt Hùng thời gian qua;
3) Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường liên kết trong sản xuất, tiêu thụ
nông sản góp phần thúc đẩy sản xuất nông nghiệp của địa phương phát triển trong
thời gian tới.
12
12
1.3. Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm trả lời các câu hỏi sau đây liên quan đến liên kết trong sản
xuất và tiêu thụ nông sản ở xã Việt Hùng, Vũ Thư, Thái Bình:
1) Thực trạng sản xuất, tiêu thụ nông sản và thực trạng liên kết trong sản
xuất/tiêu thụ nông sản trên địa bàn xã Việt Hùng thời gian qua diễn ra như thế nào?
2) Những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất, tiêu thụ nông sản cũng như ảnh
hưởng đến liên kết trong sản xuất, tiêu thụ nông sản ở địa phương thời gian qua?
3) Những thuận lợi, khó khăn trong quá trình sản xuất và tiêu thụ nông sản;
trong liên kết sản xuất, tiêu thụ nông sản ở địa phương?

4) Các giải pháp cần đề xuất nhằm tăng cường các mối liên kết trong sản
xuất và tiêu thụ nông sản ở địa phương thời gian tới?
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các vấn đề lý luận và thực tiễn về liên kết trong sản
xuất - tiêu thụ nông sản (bí xanh và dưa chuột) tại xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư,
tỉnh Thái Bình
Đối tượng khảo sát là các hộ nông dân sản xuất nông sản, người thu gom cá
thể (thương lái) và các HTX
1.4.2 Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung
Tập trung nghiên cứu vào những mối liên kết trong sản xuất - tiêu thụ nông
sản chủ yếu tại khu vực nghiên cứu.
Phạm vi không gian
Đề tài được nghiên cứu tại xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư, Tỉnh Thái Bình.
Phạm vi thời gian
- Số liệu thu thập phục vụ nghiên cứu 3 năm từ năm 2011 - 2013
- Thời gian nghiên cứu đề tài: Từ tháng 1/2014 đến tháng 5/2014

13
13
PHẦN II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
2.1 Cơ sở lý luận về mối liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
bí xanh và dưa chuột
2.1.1 Lý luận về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
2.1.1.1 Lý luận về sản xuất
Khái niệm
Hiện nay, theo quan điểm phổ biến trên thế giới thì sản xuất (production)
được hiểu là một quá trình (process) tạo ra sản phẩm (goods) hoặc dịch vụ
(services).

Trong tài khoản quốc gia, Liên hiệp quốc đưa ra khái niệm sản xuất khi xây
dựng phương pháp thống kê tài khoản quốc gia như sau: “Sản xuất là mọi hoạt động
của con người với tư cách là cá nhân hay tổ chức bằng năng lực quản lý của mình,
cùng với các yếu tố tài nguyên, đất đai và vốn (tư bản), sản xuất ra những sản phẩm
vật chất và dịch vụ hữu ích và có hiệu quả nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng cho sản
xuất, sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng cuối cùng của đời sống sinh hoạt hộ gia đình
dân cư, nhà nước, tích lũy tài sản để mở rộng sản xuất và nâng cao đời sống xã hội,
xuất khẩu ra nước ngoài”.
Về thực chất, sản xuất là quá trình chuyển hóa các đầu vào (tài nguyên hoặc
các yếu tố sản xuất) để tạo ra sản phẩm hàng hóa hoặc dịch vụ (đầu ra) (David
Colman & Tre Vor Young, 1994)
Các yếu tố ảnh hưởng tới sản xuất
Trong sản xuất thì có rất nhiều các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất để
tạo ra những sản phẩm phục vụ cho lợi ích của con người. Những yếu tố tham gia
vào quá trình sản xuất còn được gọi là các yếu tố đầu vào và sản phẩm tạo ra được
gọi là các yếu tố đầu ra.
- Các yếu tố đầu vào bao gồm: Lao động, đất đai, vốn, các loại phân bón,
thuốc BVTV … Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau. Lao động là hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người, nhằm tạo ra của cải vật chất hay tinh thần cho
chính bản thân người lao động và xã hội. Đất đai là tư liệu sản xuất không thể thay
14
14
thế được. Vốn sản xuất là giá trị của toàn bộ các đầu vào bao gồm các tài sản, vật
phẩm và tiền dùng trong sản xuất kinh doanh. Vốn là yếu tố cơ bản trong quá trình
sản xuất và lưu thông hàng hóa, giúp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng
thời tạo điều kiện khai thác tốt hơn các nguồn lực khác. Quy trình công nghệ là
tổng thể các phương pháp sản xuất, chế biến, thay đổi trạng thái, thuộc tính, hình
thức nguyên liệu, vật tư hay bán thành phẩm có liên hệ với nhau trong quá trình sản
xuất. Ngoài ra, còn có các yếu tố khác: nguồn tài nguyên thiên nhiên, quy mô sản
xuất, hình thức tổ chức kinh tế tối ưu, sự tác động qua lại giữa các ngành, các thành

phần kinh tế, thị trường tiêu thụ sản phẩm
- Các yếu tố đầu ra: Là sản phẩm của sự kết hợp các yếu tố đầu vào thông
qua quá trình sản xuất. Những sản phẩm này thường được sản xuất ra để phục vụ
cho nhu cầu của con người, nó có thể được tiêu dùng trực tiếp nhưng cũng có thể
trở thành các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất khác. Do đó đòi hỏi trong quá
trình sản xuất thì việc tổ chức các yếu tố đầu vào phải cân đối với nhau và các đầu
vào trong sản xuất phải được hoạch toán để tối thiểu hoá chi phí nhằm tăng lợi
nhuận cho các hộ nông dân. Vì vậy, khi sản xuất cần chú ý tới giá trị các yếu tố đầu
vào tạo ra chi phí trong sản xuất.
Ngoài ra, thể chế chính trị và đường lối phát triển kinh tế xã hội, các chính sách
kinh tế (chính sách tín dụng, chính sách thuế, chính sách đầu tư ) là những yếu tố bên
ngoài nhưng có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm sự tăng trưởng và phát triển sản xuất.
2.1.1.2 Lý luận về tiêu thụ sản phẩm
Khái niệm tiêu thụ sản phẩm
Đứng trên nhiều góc độ khác nhau có nhiều quan niệm khác nhau về tiêu thụ.
Tuy nhiên, bản chất của tiêu thụ sản phẩm vẫn được hiểu một cách thống nhất. Tiêu
thụ sản phẩm là quá trình chuyển hóa hình thái giá trị của sản phẩm nhằm thỏa mãn
nhu cầu của xã hội, đó là quá trình làm cho sản phẩm trở thành hàng hóa trên thị
trường.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu lưu thông hàng hóa, là cầu nối trung gian giữa
một bên là sản xuất, phân phối và một bên là tiêu dùng. Trong quá trình tuần hoàn
các nguồn vật chất, việc mua và bán các sản phẩm được thực hiện. Tiêu thụ sản
15
15
phẩm là cầu nối giữa người sản xuất và người tiêu dùng, làm cho quá trình tái sản
xuất diễn ra liên tục (Nguyễn Đình Diệu, 2002).
Hoạt động tiêu thụ hàng hóa được cấu thành từ các yếu tố sau:
- Chủ thể tham gia: người mua và người bán
- Đối tượng tham gia: hàng hóa, dịch vụ và tiền tệ
- Nơi diễn ra: thị trường

Trong thị trường, người bán sẵn sàng bán sản phẩm hàng hóa của mình. Họ có khả
năng cung ứng hàng hóa và họ có cầu về tiền tệ. Người mua có khả năng mua và có cầu
về hàng hóa.
Vai trò của tiêu thụ sản phẩm
Tiêu thụ sản phẩm có vai trò quan trọng trong việc cân đối giữa cung và cầu
hàng hoá trên thị trường. Tiêu thụ sản phẩm giúp cho cung và cầu sản phẩm hàng
hoá dịch vụ cân bằng trên thị trường, tránh hiện tượng cung cầu chênh lệch nhau
quá lớn gây bất ổn định thị trường cũng như xã hội.
Tiêu thụ sản phẩm là khâu hết sức quan trọng đối với bản thân nhà sản xuất
và đối với nền kinh tế quốc dân, chỉ qua tiêu thụ tính chất hữu ích của sản phẩm hay
hàng hoá mới được xác định một cách hoàn toàn. Tiêu thụ sản phẩm có vai trò
quan trọng phản ánh kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Thông qua việc tiêu thụ sản phẩm, dựa trên kết quả đó hạch toán kinh doanh,
lỗ, lãi để đánh giá kết quả sản xuất, từ đó giúp các đơn vị xác định được
phương hướng và bước đi của kế hoạch sản xuất cho giai đoạn tiếp theo.
Tiêu thụ sản phẩm giúp cho doanh nghiệp trong việc cung cấp các sản phẩm
hàng hoá dịch vụ cho xã hội, gắn sản xuất với tiêu dùng, đồng thời hướng dẫn, tư
vấn tiêu dùng. Doanh nghiệp sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ, nhưng để đưa nó đến
được với người tiêu dùng, với xã hội cần phải có hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Có
hoạt động tiêu thụ sản phẩm thì người tiêu dùng, cũng như xã hội mới biết được vai
trò, công dụng của hàng hoá dịch vụ đó.
Tiêu thụ sản phẩm là cầu nối gắn người sản xuất với người tiêu dùng. Thông
qua tiêu thụ, người sản xuất hiểu rõ nhu cầu của khách hàng, từ đó đưa ra đối sách
16
16
H H’
Cầu tiền Khả năng thanh toán
Sẵn sàng bán Sẵn sàng mua
Tối đa hoá lợi ích mỗi bên
Người bán

Người mua
thích hợp đáp ứng tốt nhu cầu. Cũng thông qua tiêu thụ người tiêu dùng có thể lựa
chọn được sản phẩm phù hợp với nhu cầu, sở thích của mình.
Kết quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm được dùng làm tiêu thức để so sánh
doanh nghiệp với nhau. Sức tiêu thụ sản phẩm thể hiện vị trí, quyền lực, uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường.
Sơ đồ 2.1: Sơ đồ tiêu thụ sản phẩm (Nguyễn Nguyên Cự, 2004)
Những nhân tố ảnh hưởng tới quá trình tiêu thụ
Tiêu thụ nông sản chịu tác động của rất nhiều yếu tố nhưng nhìn chung có
bốn nhân tố chính sau ảnh hưởng đến việc tiêu thụ nông sản phẩm.
- Nhóm nhân tố thị trường bao gồm: nhu cầu thị trường, lượng cung ứng
và giá cả của nông sản phẩm. Nhu cầu của thị trường phụ thuộc vào thu nhập
của người tiêu dùng và cơ cấu dân cư của từng vùng, từng khu vực. Thông
thường thu nhập tăng tỷ lệ thuận với tăng nhu cầu tiêu dùng. Tuy nhiên, đối với
sản phẩm nông nghiệp đáp ứng nhu cầu thiết yếu có nhu cầu giảm, ngược lại sản
phẩm cao cấp, được chế biến lại tăng mạnh.
- Nhóm nhân tố về công nghệ chế biến: Công nghệ chế biến tiên tiến sẽ tăng
giá trị sản phẩm, nâng cao chất lượng sản phẩm và từ đó sẽ nâng cao giá cả bán ra.
Ngoài ra, cơ sở vật chất kỹ thuật như hệ thống giao thông, phương tiện thông tin,
17
17
vận chuyển, kho tàng, bến bãi… tốt sẽ đảm bảo lưu thông nông sản nhanh chóng và
kịp thời.
- Nhóm nhân tố về trình độ tổ chức tiêu thụ: Trình độ của người sản xuất trong
việc phối hợp với các cá nhân, tổ chức khác trong việc đưa nông sản từ nơi sản xuất đến
người tiêu thụ cuối cùng. Ngoài ra, trình độ của người sản xuất trong việc nắm bắt thông
tin thị trường, kiến thức marketing và tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm sẽ ảnh hưởng
đến hiệu quả tiêu thụ và giảm bớt rủi ro trong sản xuất nông nghiệp.
- Nhóm nhân tố về sản xuất: Việc lựa chọn sản xuất cây trồng, vật nuôi của
người sản xuất sẽ ảnh hưởng lớn tới mức độ tiêu thụ nhanh hay chậm, nếu sản phẩm

phù hợp với yêu cầu thị trường sẽ dễ dàng trong tiêu thụ. Số lượng, chất lượng nông
sản và giá thành sản xuất sẽ ảnh hưởng đến giá trị sản phẩm và giá nông sản bán ra.
- Nhóm nhân tố về chính sách vĩ mô: Một số chính sách tạo điều kiện thuận
lợi trong việc khai thông thị trường, ảnh hưởng tốt đến tiêu thụ nhưng ngược lại một
số chính sách lại gây cản trở cho quá trình tiêu thụ nông sản như chính sách đầu tư,
tiêu dùng và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp (Từ Thị Thanh
Hiệp, 2003).
2.1.1.3 Kênh tiêu thụ
Khái niệm
Kênh tiêu thụ sản phẩm hay kênh phân phối sản phẩm là sự kết hợp giữa người
sản xuất, người tiêu dùng và giới trung gian để chuyển giao quyền sở hữu đối với một
hàng hoá cụ thể hay một dịch vụ nào đó từ người sản xuất đến người tiêu dùng.
Kênh tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: Việt Nam là nước có nhiều loại hàng nông
sản đáp ứng thị trường trong và ngoài nước. Tuy nhiên, chất lượng nông sản của nước ta
hiện nay còn thấp, giá thành sản xuất cao, công nghệ bảo quản chế biến chưa đáp ứng
được yêu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu…dẫn đến hiện tượng ứ đọng, không
tiêu thụ được, giá cả bấp bênh và bị ép giá gây thiệt hại không nhỏ cho người sản xuất
kinh doanh và các doanh nghiệp. Để tạo dựng vị thế trên thị trường trong nước và thế
giới cần có nhiều giải pháp, các giải pháp này phải được giải quyết đồng bộ có lựa chọn,
có mục tiêu, có bước đi vững chắc, trong đó lựa chọn kênh tiêu thụ nông sản phẩm trong
thị trường tiêu thụ đóng vai trò rất quan trọng.
18
18
Chức năng của kênh tiêu thụ
Nhờ có mạng lưới kênh tiêu thụ mà người sản xuất khắc phục được những
khó khăn về thời gian, địa điểm, khoảng cách trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Các
thành viên của kênh phải thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
- Nghiên cứu thu thập thông tin cần thiết để lập kế hoạch và tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá, dịch vụ.
- Thiết lập mối quan hệ với khách hàng mới

- Hoàn thiện hàng hóa về chất lượng, chủng loại, mẫu mã
- Thoả thuận giá cả với người mua
- Tổ chức lưu thông, vận chuyển, bảo quản và dự trữ hàng hoá
- Nghiên cứu và đề ra những biện pháp phòng chống nhằm giảm bớt rủi ro về mọi
hoạt động của kênh tiêu thụ.
Phân loại kênh tiêu thụ
Trên thực tế có nhiều loại kênh tiêu thụ khác nhau. Các kênh tiêu thụ của sản
phẩm do tính chất của sản phẩm đó quy định và tình hình phát triển thị trường ở
mỗi vùng, mỗi quốc gia quy định. Căn cứ vào mối quan hệ giữa doanh nghiệp với
người tiêu dùng cuối cùng, có hai hình thức tiêu thụ như sau:
Kênh tiêu thụ trực tiếp: Nhà sản xuất trực tiếp phân phối hay bán các sản phẩm làm
ra cho tận tay người tiêu dùng, không qua trung gian. Kênh tiêu thụ trực tiếp thường
xảy ra ở quy mô sản xuất nhỏ, người sản xuất gần người tiêu thụ và sản phẩm tươi
sống khó bảo quản
Kênh tiêu thụ gián tiếp: là kênh có trung gian tham gia. Trung gian là cầu nối
giữa người sản xuất và người tiêu dùng, các loại trung gian bao gồm: Người thu
gom; Đại lý; Hợp tác xã tiêu thụ; Các cửa hàng, người bán lẻ; Người bán buôn; Siêu
thị, Các công ty, các tổng công ty, các công ty và các tổng công ty xuyên quốc gia.
Thông qua vai trò của các trung gian phân phối, người sản xuất và doanh nghiệp có
thể đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, rút ngắn chu kỳ sản xuất, có điều kiện tập trung
vào sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.
19
19
Sơ đồ 2.2 Một số kênh tiêu thụ sản phẩm chủ yếu (Nguyễn Nguyên Cự, Hoàng
Ngọc Bích, 2004)
2.1.2 Mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu thụ
Sản xuất và tiêu thụ là hai mặt quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp sản
xuất kinh doanh nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Sản xuất và tiêu thụ có
mối quan hệ khăng khít và qua lại với nhau. Sản xuất quyết định tiêu thụ và ngược
lại, tiêu thụ tạo tiền đề cho tái sản xuất và tái sản xuất mở rộng. Từ khi bước chân

vào thương trường, doanh nghiệp đã phải xác định rõ sản xuất cái gì? Sản xuất như
thế nào? Sản xuất cho ai?
Xác định được sản xuất rồi, phải lập chiến lược tiêu thụ sản phẩm như thế
nào để sản xuất có thể tồn tại. Từ đó có thể nâng cao năng suất lao động, giảm chi
phí sản xuất. Không chỉ tăng về số lượng, mà chất lượng, chủng loại, mẫu mã cũng
được cải thiện, tăng tính cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
20
20
Thông qua hoạt động tiêu thụ sản phẩm, nhà sản xuất sẽ nhận được thông tin
phản hồi từ phía khách hàng về chất lượng, giá cả, mẫu mã… để từ đó có những
điều chỉnh sản xuất kinh doanh cho phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của người tiêu
dùng, đó là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và phát triển.
Đối với doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, cần gắn liền khâu sản xuất với
khâu tiêu thụ một cách ăn khớp, nhịp nhàng. Nếu tách rời, doanh nghiệp tất yếu bị
đào thải bởi sự cạnh tranh khốc liệt của thương trường.
2.1.3 Liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
2.1.3.1 Giới thiệu về liên kết kinh tế
Khái niệm
Liên kết kinh tế là một trong những hình thức hợp tác ở trình độ cao của con
người trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Về mặt khái niệm, liên kết kinh tế được
hiểu “là sự thiết lập các mối quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh, có thể
giữa các doanh nghiệp thuộc cùng lĩnh vực hoạt động, giữa các đối tác cạnh tranh
hoặc giữa các doanh nghiệp có các hoạt động mang tính chất bổ sung, nhằm tiết
kiệm thời gian, tiết kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao trong sản xuất – kinh doanh, tạo
ra sức cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả năng, mở ra thị trường mới” (Tạp chí
khoa học và công nghệ, ĐH Đà Nẵng – số 6(29), 2009)
Liên kết kinh tế đã xuất hiện từ lâu, xã hội càng phát triển, trình độ hợp tác
của con người trong xã hội cũng ngày càng được nâng cao và chuyển hóa thành các
hình thức liên kết phong phú và đa dạng. Chính các mối quan hệ liên kết đã đưa đến
cho con người những cơ hội để nhận thức được những lợi ích lớn hơn, an toàn hơn

và nhân bản hơn (Tạp chí khoa học và công nghệ, ĐH Đà Nẵng – số 3(32), 2009).
Liên kết kinh tế là một hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan của nền sản
xuất hàng hóa có sự phân công lao động xã hội ngày càng phát triển. Liên kết kinh
tế được nhận thức là phạm trù phản ánh mối quan hệ phối hợp của hoạt động kinh tế
giữa các chủ thể kinh tế với nhau nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất cho mỗi
bên tham gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, liên kết kinh tế đang trở thành
nhu cầu bức xúc cho việc phát triển kinh tế - xã hội.
21
21
Mục tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra sự ổn định của các hoạt động kinh tế
thông qua quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất, khai thác tốt các tiềm
năng của các đơn vị tham gia liên kết để tạo ra thị trường tiêu thụ chung, bảo vệ cho
nhau (Viện Nghiên cứu và phổ biến tri thức bách khoa, 2001).
Như vậy, có thể thấy rằng, liên kết kinh tế thực chất là sự hợp tác trong phát
triển của hai hay nhiều bên, không kể quy mô hoặc loại hình sở hữu với mục tiêu là
các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của mình, từ sự phối hợp hoạt động với các đối
tác nhằm đem lại lợi ích cho các bên tham gia.
Lợi ích của liên kết kinh tế
Qua thời gian, cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ hợp tác
ngày càng phát triển cao hơn đã dẫn đến liên kết giữa các chủ thể khác nhau trong
xã hội cũng ngày càng được mở rộng và đa dạng. Đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, có
thể nói rằng trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế ngày nay, liên kết kinh tế là một
trong những nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra sự thành công đối với một quốc gia,
địa phương và doanh nghiệp. Những lợi ích mà liên kết kinh tế đem lại cho các bên
tham gia rất lớn, thể hiện trên các mặt sau:
- Tiết kiệm các nguồn lực như giảm được chi phí cạnh tranh;
- Tăng quy mô hoạt động nhằm đạt đến quy mô hiệu quả nhờ có phân công
lao động xã hội;
- Tăng khả năng linh hoạt của mỗi bên trong việc phát huy thế mạnh;
- Tăng được sức mạnh cạnh tranh chung nhờ phối hợp sử dụng được những

ưu thế riêng biệt của các bên;
- Giảm thiểu các rủi ro nhờ cơ chế chia sẻ trách nhiệm giữa các bên tham gia.
Mặc dù những lợi ích của liên kết kinh tế là rất lớn, tuy nhiên nó cũng tồn tại
một vài bất lợi nếu không có cơ chế kiểm soát để khắc phục:
- Có thể tạo ra sự độc quyền, cản trở cạnh tranh làm phương hại đến lợi ích
của cá thành phần khác trong xã hội;
- Dễ dẫn tới tình trạng sụp đổ dây truyền khi một trong những chủ thể tham
gia liên kết bị khủng hoảng, phá sản.
22
22
Vì vậy, để đảm bảo cho sự thành công của liên kết kinh tế, ngoài việc phải
nâng cao trình độ tổ chức quản lý, năng lực kinh doanh, thiện chí hợp tác của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế, còn cần phải có một hệ thống pháp luật chặt chẽ,
điều chỉnh khi cần thiết.
Các nguyên tắc cơ bản của liên kết kinh tế
Liên kết kinh tế đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh của các chủ thể
tham gia không ngừng tăng và đạt hiệu quả ngày càng cao. Đây cũng vừa là nguyên
tắc cũng vừa là mục tiêu của mọi hoạt động xuyên suốt của mọi liên kết kinh tế. Dù
được tiến hành dưới hình thức và mức độ nào thì các quan hệ kinh tế cũng phải đáp
ứng được yêu cầu phát triển bền vững của các bên tham gia.
Liên kết kinh tế phải được hình thành trên tinh thần tự nguyện tham gia của
các bên, khi đó các liên kết mới đem lại thành công và hiệu quả giúp giải quyết
những khó khăn hoặc tìm kiếm lợi ích cao hơn (Dương Đình Giám, 2007).
Các bên tham gia được dân chủ, bình đẳng trong các quyết định của liên kết.
Do các nguồn lực của liên kết được hình thành dựa trên sự đóng góp của các chủ
thể tham gia, mặt khác các liên kết có liên quan chặt chẽ đến lợi ích của của chủ thể
tham gia nên hoạt động quản lý, điều hành, giám sát và phân phối lợi ích phải đảm
bảo dân chủ bình đẳng.
Kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế giữa các bên tham gia. Trong liên kết thì lợi ích
kinh tế là động lực thúc đẩy là chất keo dán lâu dài các bên tham gia. Việc chia sẻ

hài hòa lợi ích có tầm quan trọng đặc biệt quyết định sự bền vững của các liên kết,
nên đòi hỏi phải tìm ra một cơ chế giải quyết thích hợp.
Các mối liên kết phải được pháp lý hóa: Trong cơ chế thị trường hiện nay,
nhiều quan hệ kinh tế được phát triển dựa trên cơ sở tin cậy lẫn nhau giữa các bên
tham gia liên kết. Tuy nhiên, với những mục tiêu hướng đến một nền sản xuất hiện
đại thì mọi quan hệ kinh tế cần phải được thể chế bằng pháp luật dưới hình thức hợp
đồng kinh tế, điều lệ, hiệp ước của tổ chức liên kết…
Các nguyên tắc của liên kết kinh tế có quan hệ chặt chẽ với nhau nên khi vận
dụng vào thực tiễn cần phải được coi trọng và kết hợp hài hòa, bất cứ nguyên tắc
nào nếu vi phạm đều có thể làm cho liên kết không đạt hiệu quả mong muốn.
23
23
2.1.3.2 Nội dung của liên kết trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm
Nội dung của liên kết trong sản xuất – tiêu thụ sản phẩm bao gồm:
- Sự thỏa thuận hay cam kết giữa các bên trong quá trình sản xuất – tiêu thụ
sản phẩm. Các cam kết này phải được công nhận là sự hợp tác giữa các bên tham
gia chứ không phải là quan hệ cạnh tranh hay bóc lột giữa bên này với bên kia.
- Cam kết phải có các điều kiện ưu đãi, ưu đãi phải được xây dựng trên quan
hệ cung cầu thị trường, hay nói cách khác các bên đều được hưởng lợi từ cam kết.
- Trách nhiệm của mỗi bên khi thực hiện các cam kết: Các bên có trách
nhiệm thực hiện đúng, đủ và nghiêm túc theo cam kết.
Đánh giá mức độ liên kết hay độ sâu của liên kết - mức độ quan hệ chặt chẽ
giữa các tác nhân trong việc tiếp cận thị trường như cung ứng nguồn lực đầu vào,
đầu ra và đặc biệt là công tác quản lý từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Các mối
quan hệ liên kết này được thể hiện thông qua các hình thức với các nội dung cơ bản
sau:
Mua bán tự do trên thị trường
Mua bán trên thị trường tự do là hình thức giao dịch trực tiếp giữa người
mua và người bán. Người mua thấy được số lượng, chất lượng hàng hóa mình cần,
còn người bán sau khi thỏa thuận được giá cả sẽ bán và thu được tiền mặt đáp ứng

yêu cầu sản xuất và đời sống. Việc mua bán được thực hiện trên thị trường theo
quan hệ cung cầu. Thị trường có vai trò là người định giá, giá cả được định đoạt tại
mỗi thời điểm giao dịch.
Hợp đồng miệng (thỏa thuận miệng)
Hợp đồng miệng là các thỏa thuận không được thể hiện bằng văn bản giữa
các tác nhân cam kết cùng nhau thực hiện một số hoạt động, công việc nào đó. Hợp
đồng miệng cũng được hai bên thống nhất về số lượng, chất lượng, giá cả, thời hạn
và địa điểm giao nhận hàng. Cơ sở của hợp đồng miệng là niềm tin, độ tin nhiệm,
trách nhiệm cam kết thực hiện giữa các tác nhân tham gia hợp đồng.
Tuy nhiên, hợp đồng miệng thường chỉ là các thỏa thuận trên nguyên tắc về
số lượng, giá cả, điều kiện giao nhận hàng hóa. Hợp đồng miệng cũng có thể có
hoặc không có đầu tư ứng trước về tiền vốn, vật tư, cũng như các hỗ trợ và giám sát
24
24
kỹ thuật. So với hợp đồng bằng văn bản thì hợp đồng miệng lỏng lẻo và có tính chất
pháp lý thấp hơn.
Hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng)
Liên kết theo hợp đồng là quan hệ mua bán chính thức được thiết lập giữa
các tác nhân trong việc mua nguyên liệu hoặc bán sản phẩm. Theo Eaton and
Shepherd (2001), “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa nông dân và các cơ sở chế biến
hoặc tiêu thụ sản phẩm nông sản về việc tiêu thụ sản phẩm trong tương lai và
thường với giá đặt trước”.
Hợp đồng được ký kết giữa các doanh nghiệp, tổ chức ngân hàng, tín dụng,
trung tâm khoa học kỹ thuật… và hộ theo các hình thức:
- Ứng trước vốn, vật tư, hỗ trợ kỹ thuật, công nghệ và mua lại nông sản hàng
hóa.
- Bán vật tư, mua lại sản phẩm
- Trực tiếp tiêu thụ sản phẩm, thuê mướn, tư vấn kỹ thuật, mua vật tư, thiết
bị, nguyên liệu đầu vào, vay vốn…
- Liên kết sản xuất bằng việc góp vốn cổ phần, liên doanh, liên kết với các

doanh nghiệp hoặc cho doanh nghiệp thuê đất, diện tích mặt nước, sau đó hộ được
sản xuất trên diện tích đó hoặc cho thuê và bán lại sản phẩm cho doanh nghiệp tạo
ra sự gắn kết bền vững giữa hộ và doanh nghiệp (Dương Bá Phượng, 1995).
Dựa trên tính toàn diện của các điều khoản hợp đồng, người ta chia làm 2 loại
hợp đồng đầy đủ và hợp đồng không đầy đủ. Hợp đồng đầy đủ là hình thức liên kết cao
hơn, trong đó tất cả các nội dung của giao dịch được ghi trong hợp đồng. Tuy nhiên,
hợp đồng không đầy đủ cho phép các bên giải quyết các vấn đề của giao địch mà họ
không chắc chắn khi ký hợp đồng. Cũng do hợp đồng không đầy đủ nên tính ràng
buộc, tính cam kết của loại hợp đồng này không cao.
Hiệp hội với liên kết tiêu thụ sản phẩm
Trong quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, mối quan hệ giữa các
hộ, cơ sở và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh là sự đan xen giữa hợp tác và cạnh
tranh. Các đơn vị này một mặt liên kết với nhau để cùng phát triển, nhưng mặt khác
cũng cạnh tranh lẫn nhau nhằm tạo ra những ưu thế độc chiếm thị trường và thu
25
25

×