Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Jack London

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.79 KB, 153 trang )


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận án Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Jack
London là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu và kết quả nghiên
cứu được trình bày trong luận án này là hoàn toàn trung thực, chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 2014
Tác giả luận án


2
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp luận án được hoàn thành và đưa ra bảo vệ, tôi chân thành bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc tới Người hướng dẫn khoa học và cũng là người luôn động
viên, tạo mọi điều kiện tốt nhất để giúp tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Tôi trân trọng cảm ơn Học viện Khoa học Xã hội và Cơ quan công tác vì
đã tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho tôi được học tập và nghiên cứu.
Tôi chân thành cảm ơn các nhà giáo, các nhà nghiên cứu - những người đã
giảng dạy và cho tôi nhiều ý kiến bổ ích trong quá trình học tập và nghiên cứu đề tài.
Nhân dịp này tôi cũng xin cảm ơn tác giả của các công trình, bài báo
khoa học mà chúng tôi xin phép sử dụng trích dẫn trong luận án này.
Xin gửi tới anh chị em bạn hữu, đồng nghiệp lời cảm ơn chân thành vì sự
giúp đỡ mà các bạn đã dành cho tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình yêu quý của tôi – những người luôn đồng
cam cộng khổ, giúp tôi vượt qua mọi khó khăn để thực hiện ước mơ của mình.
Hà Nội, ngày 21 tháng 6 năm 2014
Tác giả luận án



3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU Trang
1. Lí do chọn đề tài 6
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên
cứu 8
3. Phạm vi nghiên
cứu 8
4. Phương pháp nghiên cứu 10
5. Kết cấu luận án 10
6. Đóng góp mới của luận án 11
Chương 1:. TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Về cuộc đời, tư tưởng và văn nghiệp của Jack London 12
1.1.1. Các công trình viết bằng tiếng Anh 12
1.1.2. Các công trình viết bằng tiếng Việt 15
1.2. Về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Jack London 19
1.2.1. Các công trình viết bằng tiếng Anh 19
1.2.2. Các công trình viết bằng tiếng Việt 23
1.3. Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu 26
Chương 2: TRUYỀN THỐNG VÀ HIỆN ĐẠI
TRONG NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC TRẦN THUẬT
2.1. Khái quát về nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn của Jack
London 28
2.2. Tổ chức trần thuật trong các truyện kể ở ngôi thứ nhất 35
2.2.1. Trần thuật theo điểm nhìn đơn chủ thể 35
2.2.2. Trần thuật theo điểm nhìn đa chủ thể 40
2.3. Tổ chức trần thuật trong các truyện kể ở ngôi thứ ba 47
2.3.1. Trần thuật theo điểm nhìn toàn tri 47
2.3.2. Trần thuật theo điểm nhìn bên ngoài 49
2.3.3. Trần thuật theo điểm nhìn bên trong 53
2.3.4. Trần thuật theo điểm nhìn phức hợp 57

Chương 3: SỰ ĐA DẠNG VÀ LINH HOẠT
4
TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN
3.1. Khái quát về cốt truyện trong truyện ngắn của Jack London 63
3.2. Một số dạng thức kết cấu và các kiểu cốt truyện phổ biến trong truyện ngắn
của Jack London 71
3.2.1. Kết cấu theo thời gian tuyến tính và kiểu cốt truyện tuyến tính. ……… 71
3.2.2. Kết cấu đảo lộn trật tự thời gian và kiểu cốt truyện gấp khúc 73
3.2.3. Kết cấu lồng ghép truyện trong truyện và kiểu cốt truyện khung 76
3.3. Phương thức tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn của Jack London 79
3.3.1. Khai đoạn bằng những chỉ dẫn 79
3.3.2. Tạo dựng và tổ chức tình huống truyện đa dạng 81
3.3.3. Phép tăng cấp và phép lặp chi tiết, sự kiện 87
3.3.4. Kỹ thuật trì hoãn sự kiện và kết thúc truyện bất ngờ 91
Chương 4: CHẤT SỬ THI VÀ DẤU ẤN NGỤ NGÔN
TRONG NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
4.1. Khái quát về thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Jack London 98
4.1.1. Một thế giới nhân vật phong phú và đa dạng 98
4.1.2. Dấu ấn cuộc đời nhà văn – “giấc mơ và bi kịch nước Mỹ” 102
4.1.3. Dấu ấn các học thuyết của thời đại 105
4.2. Các kiểu nhân vật đặc trưng trong truyện ngắn của Jack London 108
4.2.1. Người hùng - kiểu nhân vật trung tâm mang đậm chất sử thi 108
4.2.2. Nhân vật Chó Sói và dấu ấn ngụ ngôn 115
4.2.3. Thiên nhiên - kẻ hung bạo 118
4.3. Nghệ thuật xây dựng nhân vật trong truyện ngắn của Jack London 120
4.3.1. Anh hùng hóa con người 120
4.3.2. Nhân cách hóa loài vật 125
4.3.3. Biểu tượng hóa thiên nhiên 129
KẾT LUẬN 136
CÁC CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN 141

TÀI LIỆU THAM KHẢO 142
PHỤ LỤC 151
5
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. J. London là một trong những nhà văn tài năng của nước Mỹ ở thời kỳ
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ở ông, từ cuộc đời đến tác phẩm đều thể hiện rõ
“giấc mơ Mỹ” và “bi kịch Mỹ” trong thời đại bấy giờ. Cuộc đời nhiều cơ cực đã hun
đúc trong J. London một vốn sống phong phú, một ý chí và bản lĩnh vươn lên mạnh
mẽ. Vốn sống, ý chí nghị lực ấy kết hợp với niềm đam mê văn chương và những đòi
hỏi của cuộc sống đã thôi thúc ông nỗ lực không cùng. Kết quả của sự nỗ lực ấy là
ông đã trở thành một trong những đại biểu xuất sắc của nền văn học Mỹ buổi giao
thời. Nhà nghiên cứu Earle Labor – một chuyên gia về J. London đã khẳng định:
“Jack London là một trong những tác gia lớn nhất thế giới của nước Mỹ” [118]).
1.2. Sự nghiệp văn học của J. London hết sức đồ sộ, phong phú , đa dạng, có
nhiều đóng góp lớn lao về nội dung tư tưởng và nghệ thuật. Sau hơn hai mươi năm
cầm bút ông đã để lại cho đời hơn 50 tập sách, trong đó có 22 tiểu thuyết, 156
truyện ngắn (in trong 19 tập truyện), 03 kịch bản và hàng trăm bài báo. Trong số
đó có những tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới như: Tiếng
gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild

, tiểu thuyết, 1903), Sói biển (The Sea-
Wolf

, tiểu thuyết, 1904), Nanh trắng (White Fang

, tiểu thuyết, 1906), Gót sắt
(The Iron Heel


, tiểu thuyết, 1908), Mắc tin Ai đơn (Martin Eden

, tiểu thuyết,
1913), Những đứa con của băng giá (Children of the Frost

, tập truyện ngắn,
1902), Chuyện về đội tuần tra cá (Tales of the Fish Patrol

, tập truyện ngắn,
1905), Tình yêu cuộc sống (Love of Life, tập truyện ngắn, 1907), Người sinh ban
đêm (The Night Born

, tập truyện ngắn, 1913)…
1.3. Jack London đã làm say lòng người đọc bằng lối viết đầy sáng tạo.
Trong lối viết của ông có sự kết hợp giữa Chủ nghĩa hiện thực, Chủ nghĩa lãng
mạn và Chủ nghĩa tự nhiên; một lối viết vừa tinh tế, sâu sắc, vừa mạnh bạo, vừa
6
truyền thống vừa hiện đại. Giới nghiên cứu văn học ở Mỹ và nhiều nơi trên thế
giới phải thừa nhận J. London là một tiểu thuyết gia, một bậc thầy truyện ngắn.
1.4. Danh tiếng văn học của J. London đã vượt qua biên giới của nước Mỹ
để đến với người đọc nhiều nơi trên thế giới, nhưng giới nghiên cứu chưa dành
cho ông sự quan tâm đúng mực.
J. London là nhà văn vô sản đầu tiên của nước Mỹ - người tiên phong đấu tranh
chống lại chế độ tư bản để bảo vệ quyền sống cho con người, bởi vậy ông cùng một số
nhà văn hiện thực từng bị tổng thống Mỹ Theodore Roosevelt xếp vào hàng ngũ những
nhà văn “khuấy bùn” (muckrakers). Đó là nguyên cớ khiến cho giới nghiên cứu ở Mỹ
một thời phải làm ngơ trước tài năng và đóng góp nghệ thuật của ông. Đến những năm
bảy mươi của thế kỷ XX một số học giả ở Mỹ mới bắt đầu có những công trình nghiên
cứu về cuộc đời và văn nghiệp của ông. Từ đó cho đến nay, tài năng, vai trò của
J. London mới dần được khẳng định.

Riêng ở Việt Nam, những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông đã được dịch và giới
thiệu đến người đọc từ những năm sáu mươi của thế kỷ XX. Trong đó, nhiều tác phẩm
đã được chọn in và tái bản nhiều lần trong các tuyển tập, hợp tuyển. Đặc biệt, tác
phẩm của ông đã nhiều năm được đưa vào chương trình dạy học trong nhà trường Việt
Nam, từ bậc phổ thông đến đại học và sau đại học. Thế nhưng giới nghiên cứu ở nước
ta lại chưa thực sự quan tâm nghiên cứu về ông. Ngoài một số bài viết của các nhà
nghiên cứu văn học Mỹ như Nguyễn Đức Đàn, Lê Đình Cúc, Lê Huy Bắc,… thì đến
nay ở Việt Nam mới chỉ có 01 luận án tiến sĩ [2], 05 luận văn thạc sĩ nghiên cứu về tác
phẩm của J. London ([35], [41], [68], [94], [105]). Có thể khẳng định rằng số lượng
công trình, bài viết về J. London ở nước ta còn quá ít ỏi, chưa thể khám phá hết giá trị
trong kho tàng tác phẩm đồ sộ và độc đáo của ông. Mặt khác, đa số những công
trình, bài viết về J. London của giới nghiên cứu ở nước ta đều mang nội dung
giới thiệu khái quát về cuộc đời, tư tưởng, văn nghiệp, hoặc bàn về tiểu thuyết,
chưa có công trình nào tập trung bàn luận một cách đầy đủ, hệ thống về truyện
ngắn – mảng sáng tác lớn nhất trong sự nghiệp của ông. Đặc biệt, chưa có công
7
trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật tự sự – một phương diện hết sức
độc đáo trong truyện ngắn của J. London.
1.5. Ở nước ta, vấn đề Tự sự học đang được giới nghiên cứu hết sức quan
tâm. Vận dụng lí thyết Tự sự học để nghiên cứu truyện ngắn của J. London vì thế
sẽ góp thêm một tiếng nói khẳng định tính ưu việt của hướng nghiên cứu này.
Từ những cơ sở trên đây chúng tôi cho rằng việc nghiên cứu truyện ngắn
của J. London là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn, góp phần
lấp dần khoảng trống mà giới nghiên cứu còn để ngỏ. Bởi vậy, năm 2007 chúng
tôi đã thực hiện đề tài thạc sĩ Đặc trưng nghệ thuật truyện ngắn Jack London.
Sức hấp dẫn từ truyện ngắn của J. London đã mê hoặc và thôi thúc chúng tôi tiếp
tục thực hiện đề tài Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Jack London.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài của chúng tôi hướng đến mục đích làm sáng tỏ đặc điểm nghệ thuật

tự sự trong mảng sáng tác truyện ngắn của J. London, cụ thể là sự tiếp nối truyền
thống, những sáng tạo mới mẻ và những điểm đặc trưng nghệ thuật tự sự thể
hiện trong hệ thống truyện ngắn của J. London; qua đó có thêm cơ sở khoa học
để đánh giá đúng tài năng, phong cách, đóng góp nghệ thuật của ông cho nền văn
học Mỹ nói riêng và văn học thế giới nói chung.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án của chúng tôi tập trung giải quyết một số nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm rõ sự phong phú đa dạng, sự tiếp nối truyền thống và những
điểm sáng tạo mới mẻ, độc đáo của J. London trong nghệ thuật tự sự.
Thứ hai, chỉ ra và lí giải được những điểm đặc trưng trong nghệ thuật tự sự
của J. London ở thể loại truyện ngắn.
Thứ ba, phân tích và lí giải sự tác động của các yếu tố văn hóa, lịch sử xã
hội, lịch sử văn học và cuộc đời riêng đến nghệ thuật tự sự của J. London.
3. Phạm vi nghiên cứu
8
Về cơ sở lí thuyết, trong một số công trình Tự sự học (Narratology), thuật ngữ
“Narration” có lúc được dịch là “tự sự”/ “kể chuyện”, cũng có lúc được dịch là “trần
thuật”. Theo đó nhiều người đã dùng hai thuật ngữ này (tự sự, hoặc trần thuật) để chỉ
cùng một nội dung: tác phẩm có cốt truyện, có người kể chuyện. Việc đồng nhất hai
khái niệm “tự sự” và “trần thuật” dẫn đến hệ quả là nhiều người đã gọi “tác phẩm tự
sự” là “tác phẩm trần thuật”.
Theo cách hiểu của chúng tôi, tự sự là thuật ngữ chỉ một phương thức sáng tác quy
định nên một loại tác phẩm văn học. Thuật ngữ này đã được Aristote đã dùng để chỉ một
trong ba loại tác phẩm (phân biệt với các loại “trữ tình” và “kịch”); còn trần thuật là
phương thức nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm thuộc loại tự sự, là hành động kể
chuyện được thực hiện bởi một (hoặc nhiều) người kể chuyện giữ vai trò trung gian giữa
người sáng tác với những chuyện được kể trong tác phẩm tự sự. Nhà nghiên cứu Lại
Nguyên Ân đã chỉ rõ: “Thực chất hoạt động trần thuật là kể, là thuật” [5, 130].
Nghệ thuật tự sự bao hàm nhiều vấn đề khác nhau, từ kết cấu, cốt truyện, nhân vật,
giọng điệu, nhịp điệu, lời văn, không gian thời gian nghệ thuật, người kể, điểm nhìn,

phương thức kể chuyện… Nghiên cứu nghệ thuật tự sự vì thế là nghiên cứu nghệ thuật
sắp xếp, tổ chức tất cả các yếu tố tham gia vào việc kiến tạo nên tác phẩm tự sự.
Về nội dung, Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của J. London là đề tài khá rộng, trong
phạm vi luận án này chúng tôi chỉ chỉ tập trung nghiên cứu ba phương diện cơ bản và độc đáo
nhất, đó là tổ chức trần thuật, cốt truyện và nhân vật.
Về tác phẩm, để thực hiện đề tài này chúng tôi chọn 80/156 truyện ngắn của
J. London để khảo sát. Chúng tôi chọn 80/156 truyện vì hai lí do. Thứ nhất,
những truyện này chứa đựng nhiều điểm độc đáo trong phong cách tự sự của
J. London. Thứ hai, 80 truyện được chọn khảo sát được rút ra từ 19 tập truyện,
xuyên suốt mọi giai đoạn trong sự nghiệp sáng tác của J. London (xin xem chi
tiết ở phần Phụ lục). Trong số 80 truyện chúng tôi chọn làm đối tượng nghiên cứu
có 22 truyện đã được các dịch giả dịch ra tiếng Việt. Chúng tôi sử dụng có đối chiếu
nguyên bản tiếng Anh. Những truyện ngắn này được chúng tôi tổng hợp từ các tài
liệu [57], [58], [59], [60], [61]. Những truyện ngắn chưa được dịch ra tiếng Việt
9
(58 truyện) chúng tôi khảo sát trực tiếp qua nguyên bản tiếng Anh. Số truyện này
chúng tôi thu thập từ các nguồn tài liệu sau đây:
- Cuốn sách The Yukon Writings of Jack London, Tally Hall Press, Ann Arbor.
- Một số truyện đăng tải trên trang mạng Internet, từ các Website:
+ />

+ />+
+ />+ />+ />

4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này chúng tôi kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
Phương pháp tiếp cận theo lí thuyết Tự sự học: Tập trung vào các phạm trù
cơ bản như người trần thuật, điểm nhìn trần thuật, tổ chức cốt truyện và nhân vật.
Phương pháp Xã hội học: Sử dụng phương pháp xã hội học để nghiên cứu sự tác
động của xã hội đến tư tưởng và tác phẩm của J. London.

Phương pháp Tiểu sử: Dùng tiểu sử của J. London với tư cách là một trong
những cơ sở để lý giải truyện ngắn của ông. Tuy nhiên, chúng tôi hiểu rằng không
phải tất cả các yếu tố của tác phẩm đều có thể lý giải được bằng tiểu sử nhà văn.
Phương pháp So sánh: So sánh giữa J. London với một số tác giả, tác phẩm
khác để tìm ra những điểm đặc trưng của J. London.
Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa: Đặt tác
phẩm trong không gian văn hóa mà tác phẩm ra đời. Chỉ ra sự chi phối của các quan
niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, tri thức khoa học của thời đại đến tư
tưởng và tác phẩm của nhà văn; tức là tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử đã chi phối tư
tưởng và nghệ thuật sáng tác của nhà văn.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng hướng tiếp cận Thi pháp học.
5. Kết cấu luận án
10
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, nội dung chính của luận án được triển khai theo
bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Truyền thống và hiện đại trong nghệ thuật tổ chức trần thuật
Chương 3: Sự đa dạng và linh hoạt trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện
Chương 4: Chất sử thi và dấu ấn ngụ ngôn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án này là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống về một số phương
diện cơ bản nhất trong truyện ngắn của J. London dưới ánh sáng của lí thuyết Tự sự
học. Kết quả nghiên cứu thể hiện trong luận án góp phần khẳng định tính đúng đắn,
khoa học của hướng nghiên cứu văn học theo lí thuyết Tự sự học.
Luận án đã làm rõ được các đặc điểm nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của
J. London; cụ thể là phát hiện, phân tích, chứng minh, lí giải được sự phong phú đa
dạng, sự tiếp nối truyền thống, những tìm tòi sáng tạo và những điểm đặc trưng
trong truyện ngắn của J. London trên các phương diện cơ bản: tổ chức trần thuật, cốt
truyện, nhân vật; trên cơ sở đó luận án đã mở ra những khoảng trống trong thế giới
nghệ thuật của J. London cần được tiếp tục nghiên cứu.

11
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Về cuộc đời, tư tưởng và văn nghiệp của Jack London
1.1.1. Các công trình viết bằng tiếng Anh
J. London đã được giới thiệu và nghiên cứu ở nhiều nước trên thế giới,
nhưng do rào cản về ngoại ngữ nên bước đầu chúng tôi chỉ mới tiếp cận một số
công trình viết bằng tiếng Anh. Dưới đây chúng tôi xin điểm lại những công
trình tiêu biểu nhất trong phạm vi nguồn tài liệu chúng tôi đã thu thập được.
Cuốn sách Jack London ở miền biển phương Nam (Jack London In The
South Seas) [116] của Arthur Grove Day gồm chín chương, tái hiện tỉ mỉ quá
trình phiêu lưu về vùng biển miền Nam của J. London từ 1905 đến 1907. Những
thông tin mà cuốn sách này cung cấp sẽ là tư liệu quý báu để chúng tôi hiểu hơn
về cuộc đời và vốn sống của J. London, từ đó có sự đánh giá đúng hơn về chất
hiện thực trong tác phẩm của ông.
Marcus Cunliffe trong sách Văn học Hợp chủng quốc (The Literature of The
United States) [151] đã bàn đến vấn đề “siêu nhân”, thái độ lên án chủ nghĩa tư
bản, và “luật chó sói” trong tác phẩm của J. London. Những phát hiện và sự kiến
giải trong công trình này sẽ là những gợi ý để chúng tôi phát triển những nội
dung tư tưởng trong truyện ngắn của J. London, đặc biệt là vấn đề siêu nhân –
một biểu hiện mà J. London chịu ảnh hưởng từ lí thuyết của Nietzsche. Vấn đề
này còn được đề cập trong cuốn Văn học Hợp chủng quốc Hoa kỳ (The Literature
of the United States of America) của Marshall Wager [152].
Một trong những cuốn sách trực tiếp bàn về J. London là Tiếng gọi nam nhi –
Điều làm nên Jack London (Male call – Becoming Jack London) [140] của nhà nghiên
cứu Jonathan Auebach. Trong cuốn sách này tác giả đã chỉ ra một số điểm nổi bật trong
12
sáng tác của J. London, cụ thể là J. London đã tiếp thu thuyết tiến hóa luận của Herbert
Spencer kết hợp với bản tính nam nhi mạnh mẽ của ông trên hành trình phiêu lưu.
Jonathan Auebach đồng thời cũng phát hiện ra những mảng không gian quen thuộc

trong sáng tác của J. London, đó là bối cảnh nguyên thủy hoang dã ở miền Bắc băng
giá, miền biển phương Nam xa lạ, hay những khu dân nghèo ở thành thị. Đây là những
phát hiện hết sức hữu ích đối với chúng tôi trong việc thực hiện đề tài này.
Năm 1994 các nhà nghiên cứu ở Mỹ công bố cuốn sách Văn học Mỹ (American
Literature) [115]. Trong cuốn sách này J. London được xếp vào hàng ngũ những nhà
văn tiêu biểu của Mỹ đầu thế kỷ XX. Điều này góp phần cho thấy giới nghiên cứu ở Mỹ
đã ghi nhận sự nỗ lực tìm tòi sáng tạo hướng về phía hiện đại của nhà văn J. London.
Bài Dẫn luận: Jack London trong những năm bảy mươi (Introduction: London In
The Seventies) in trong cuốn Jack London - Tiểu luận phê bình (Jack London Essay In
Criticism) do R.W. Ownbey biên tập, xuất bản ở Mỹ năm 1978. Trong bài viết này Giáo sư
R.W. Ownbey vừa tổng thuật vừa chỉ ra một số đặc điểm trong phong cách sáng tác của J.
London. Tác giả bài viết khẳng định: “sự nghiệp viết văn của J. London (…) thể hiện được
tiếng nói mạnh mẽ về sự phát triển của dân tộc Mỹ ở thế kỷ XX, nhưng tất nhiên đã chứa
đựng tiếng nói của nhà cải cách, nhà duy tâm vỡ mộng, người sẽ thay đổi thế giới hiện tại
thành một thế giới tốt đẹp hơn” [155, 7]. Ở chỗ khác tác giả lí giải rằng: “tính chủ nghĩa xã
hội đã làm ông ấy trở thành một nhà cải cách” [155, 11]. Tiếp đó tác giả bài viết nhận định
rằng: "Jack London đã quay về với nông thôn, với những đức tính bình dị của cuộc sống
thôn dã như là một hướng giải quyết những sự tàn phá mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra" [155,
7]. Cũng trong bài viết này, R.W. Ownbey khẳng định: “Không một nhà văn Mỹ nào ngoại
trừ F. Scott Fitzgerald – nhà văn thuộc thế hệ sau, đã đưa những kinh nghiệm trong cuộc
sống vào tác phẩm và sống gần với cuộc đời trong tác phẩm đó” [155, 7]. Đặc biệt, tác giả
bài viết đã chỉ ra một điểm đặc trưng không giống ai của J. London, đó là:
Một trong những điều làm cho J. London khác với những nhà văn khác thuộc Chủ
nghĩa tự nhiên là yếu tố bản chất tốt đẹp của ông. Có một sự hy vọng, tính khôi hài
trong cuộc đời của J. London bên cạnh những sự thật tàn nhẫn trong nhiều câu chuyện
của ông, vượt qua thuyết quyết định sinh học và môi trường bẩn thỉu để dung hòa
trong những tác phẩm theo Chủ nghĩa tự nhiên [155, 11].
13
Tóm lại, trong bài viết này, tác giả R.W. Ownbey đã gợi ra nhiều vấn đề mới lạ, độc đáo trong
sáng tác của J. London. Qua bài viết, tác giả đã chỉ rõ vai trò quan trọng của J. London đối với

nền văn học Mỹ, khẳng định sự độc đáo của J. London so với các nhà văn Mỹ trước và sau
ông, đặc biệt là so với các nhà văn thuộc Chủ nghĩa tự nhiên thuần túy.
Cũng trong cuốn sách Jack London - Tiểu luận phê bình tác giả S. Baskett có bài
viết Trung tâm bóng tối của Jack London (Jack London’s Heart of Darkness) [157, 66 -
78]. Bài viết này so sánh giữa hai tiểu thuyết Martin Eden của J. London với Trung tâm
bóng tối (Heart of Darkness) của Conrad, và luận bàn về thế giới quan của hai nhà văn
này. Theo bài viết, cả hai nhà văn đều quan tâm khai thác những mặt xấu của con người
và thế giới. Quan điểm của tác giả bài viết này có phần phiến diện. Bởi lẽ trong thực tế
J. London là nhà văn hết sức biện chứng, ông không chỉ xoáy sâu vào mặt xấu của con
người và thế giới, mà ông còn quan tâm phát hiện, đề cao những mặt tốt của con người,
và mở ra thế giới tươi sáng trong tương lai.
Ngoài ra, cuốn sách Jack London - Tiểu luận phê bình còn có một số bài viết
bàn về tiểu thuyết của J. London như: Một cách đọc mới về tiểu thuyết Sói biển
(A New Reading of The Sea Wolf) [146] của tác giả James Ellis, Martin Eden của
Jack London: Sự phát triển của nhân vật hiện sinh (Jack London’s Martin Eden:
The Development of The Existential Hero) [148] của Jonathan Spinner… Nội
dung các bài viết này chỉ bàn về các tiểu thuyết, không có nhiều ý nghĩa đối với
đề tài mà chúng tôi chọn nghiên cứu trong luận án này.
Trong bài Jack London tự thuật (Jack London: By Himself) của chính nhà
văn J. London, ông đã tự thừa nhận rằng: “Trong quá trình trưởng thành, người
ảnh hưởng đến tôi nhiều nhất là Karl Marx và Spencer, nhất là Karl Marx” [144].
Đây là một sự gợi mở để chúng tôi nghiên cứu các cơ sở dẫn đến sự hình thành
nhân vật trong truyện ngắn của J. London.
Một số cuốn sách và bài báo khác viết bằng tiếng Anh dù không trực tiếp bàn đến nghệ
thuật tự sự của J. London nhưng ít nhiều cũng giúp chúng tôi có thêm một số thông tin bổ
ích về sự nghiệp văn chương của ông nói chung, ví dụ như các cuốn: Jack London,
Hemingway, và mối quan hệ (Jack London, Hemingway, And The Constitution) của E. L.
14
Doctorow [121], Jack London và Klondike: khởi nguyên của một nhà văn Mỹ (Jack
London And Klondike: The Genesis of An American Writer) của tác giả F. Walker [122], Đi

qua miền biển phương Nam với Jack London (Through The South Seas With Jack London)
của M. Johnson [153], Jack London: Người đàn ông, Nhà văn, Người nổi loạn (Jack
London: The Man, The Writer, The Ribel) của R. Barltrop [154]…
1.1.2. Các công trình viết bằng tiếng Việt
Ở nước ta, Đỗ Đức Dục là người đầu tiên nghiên cứu về J. London. Với bài viết Giấc
mơ đầu thế kỷ của Jắc Lơn – Đơn (năm 1966) tác giả Đỗ Đức Dục đã bàn về J. London với
tư cách là một nhà văn hiện thực tiến bộ. Trong bài viết tác giả đã khái quát:
Ông (J. London – NTĐ chú thích) luôn luôn nhấn mạnh vào cái mặt tàn khốc của
cuộc đời, của xã hội con người với những quy luật của thú dữ, của rừng hoang:
mạnh được yếu thua, khôn sống mống chết, ăn người hoặc bị người ăn, máu đổi
lấy máu. Và ông thường lồng vào cuộc đấu tranh giữa người với người đó cuộc vật
lộn không kém phần thảm khốc giữa con người với thiên nhiên (…), làm đậm nét
thêm tấn bi kịch người đấu tranh với người [28, 19 - 29].
Theo Đỗ Đức Dục, J. London một mặt lên án gay gắt chủ nghĩa tư bản, mặt khác
đã “vạch ra hướng đấu tranh tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa của giai cấp vô
sản (…). Cố nhiên đó chỉ là câu chuyện trong tương lai, nhưng nó vẫn có cơ sở
trong hiện thực của xã hội mới Mỹ đương thời” [28, 19 - 29].
Cũng trong bài viết này tác giả đã phân tích khá kỹ càng để đi đến khẳng
định: “rõ ràng J. London không đứng về phía bọn thực dân da trắng kiêu căng,
tàn ác, mà ông ngả về phía những dân tộc bị áp bức, bị nô dịch” [28, 19 - 29].
Có thể nói rằng đây là một trong số ít ỏi những bài viết giá trị nhất về
J. London của giới nghiên cứu ở Việt Nam. Tuy vậy, bài viết chỉ mới giới thiệu
một cách khái quát về tư tưởng, thái độ và khuynh hướng sáng tác của
J. London chứ chưa bàn về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của ông.
Tiếp theo bài viết trên, năm 1976 nhà nghiên cứu Lê Đình Cúc có bài viết
Jack London và cuộc đấu tranh giai cấp đấu tranh dân tộc [21, 116 - 126]. Trong
bài viết này, tác giả một mặt đề cập đến quan điểm giai cấp, dân tộc của
J. London. Mặt khác, bài viết cũng khái quát về đặc điểm thiên nhiên và loài vật
15
trong sáng tác của J. London nói chung. Về thiên nhiên, bài viết đã chỉ rõ một

đặc điểm nổi bật trong sáng tác của J. London là tính chất hoang sơ rùng rợn, đầy
bất trắc và nguy hiểm đối với sự tồn tại của con người. Khi đề cập đến loài vật
trong tác phẩm của J. London, tác giả bài viết đã chỉ ra sự khác biệt giữa loài vật
trong ngụ ngôn với những con chó trong truyện của J. London, đó là nếu loài vật
trong ngụ ngôn mang bản tính người, thì những con chó của J. London lại mang
đậm tính chất hoang dã, đó là ẩn dụ về cuộc đấu tranh tàn khốc của con người
trong xã hội tư bản. Những phát hiện của tác giả Lê Đình Cúc trong bài viết này
tuy là hết sức mới mẻ và sâu sắc, nhưng tác giả bài viết chỉ mới giới thiệu khái
quát chứ chưa phân tích, chứng minh bằng dẫn chứng cụ thể, cũng chưa lí giải vì
sao trong sáng tác của J. London lại có những đặc điểm như vậy. Về điểm này,
chúng tôi sẽ vận dụng và luận giải rõ hơn trong luận án của mình.
Nhà nghiên cứu Lê Đình Cúc cũng là tác giả của bài viết Jack London
(1876 - 1916) – nhà văn vô sản đầu tiên của nước Mỹ in trong sách Tác gia Văn
học Mỹ thế kỷ XVIII – XIX [25]. Mở đầu bài viết tác giả khẳng định: “Với Jack
London văn học Mỹ bắt đầu một dòng mới: dòng văn học vô sản. Jack London
xuất hiện với tầm nhìn và viết với một nội dung mới (…). Ông không những có
vị trí đặc biệt đối với văn học vô sản Mỹ mà còn có vai trò quan trọng trong văn
học thế giới” [25, 415]. Tiếp đó, bài viết tập trung phân tích, lí giải về tư tưởng
tiến bộ và sự đa dạng trong lối viết của J. London rồi đi đến kết luận: “Với bộ óc
thông minh và giàu trí tưởng tượng, Jack London đã đưa vào tác phẩm của mình
nhiều vấn đề của cuộc sống. Chúng ta bắt gặp ở Jack London cái say sưa phơi
phới của Whitman, cái gân guốc sắc bén của Gorky, cái nhẹ nhàng sâu sắc của
La Fontain” [25, 419]. Bài viết của Lê Đình Cúc là một tiếng nói mới khẳng định vị
thế quan trọng của J. London trong nền văn học Mỹ và thế giới. Đồng thời, bài viết
cũng cho thấy sự đa dạng trong bút pháp sáng tạo của J. London. Ngoài ra, trong bài
viết tác giả có đề cập đến đặc điểm của thiên nhiên, loài vật trong sáng tác của J.
London qua sự so sánh với tác phẩm của những nhà văn khác. Nội dung này cũng đã
được tác giả Lê Đình Cúc đưa vào cuốn sách Lịch sử văn học Mỹ [26].
16
Trong cuốn sách Hành trình văn học Mỹ [30] của Nguyễn Đức Đàn,

J. London chỉ được giới thiệu hết sức ngắn gọn trong chưa đầy một trang sách.
Tác giả cuốn sách này xếp J. London vào hàng ngũ những nhà văn đứng “bên
cạnh chủ nghĩa hiện thực” với tư cách là một “tác giả truyện vừa, đến cuối thế kỷ
XIX biểu thị khuynh hướng từ bỏ chủ nghĩa hiện thực để đi vào loại tưởng tượng
hoang đường”. Bài viết này xếp J. London là “tác giả truyện vừa” không phải là
không có lí, bởi truyện ngắn của J. London thường có dung lượng câu chữ rất
dài, phạm vi hiện thực được phản ánh cũng rất rộng, nhưng bảo ông từ bỏ chủ
nghĩa hiện thực “để đi vào loại tưởng tượng hoang đường” thì hoàn toàn không
thỏa đáng. Mặc dù chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu, trường phái, nhiều nguồn
tư tưởng khác nhau, nhưng chủ nghĩa hiện thực vẫn là khuynh hướng chủ đạo
trong sáng tác của J. London. Ngòi bút của ông luôn bám vào hiện thực đời sống
xã hội nước Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ông mô tả cuộc sống
bằng hình tượng tương ứng với bản chất những hiện tượng của chính cuộc sống.
Bên cạnh đó, ông cũng rất coi trọng những chi tiết cụ thể, coi trọng việc khách
quan hóa những điều được mô tả. Thế giới nhân vật trong tác phẩm của ông luôn
có quan hệ mật thiết với môi trường sống. Tính cách của nhân vật hình thành và
phát triển dựa trên mối quan hệ tương tác với hiện thực đời sống.
Trong cuốn sách Hồ sơ văn hóa Mỹ tác giả Hữu Ngọc khẳng định: “Ông (J.
London – NTĐ nhấn mạnh) chịu ảnh hưởng trái ngược của Herbert Spencer,
Darwin, Marx, và Nietzsche” [80, 619]. Cũng trong cuốn sách này tác giả nhấn
mạnh: “J. London bênh vực chủ nghĩa xã hội, cách mạng vô sản, đồng thời đề cao
người hùng. Ông đứng về phía những người cơ cực” [80, 620]. Đặc biệt, khi bàn
về thế giới loài vật trong tác phẩm của J. london, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc cũng
nhận ra rằng: “các con vật đều có tính cách rõ rệt với đầy đủ anh dũng, tham vọng
và độc ác” [80, 622]. Những nhận định của tác giả Hữu Ngọc cũng đã từng xuất
hiện trong các bài viết của R. Ray Wilson Ownbey, Earle Labor, Lê Đình Cúc, Lê
Huy Bắc,… Điều đó càng khẳng định tính đúng đắn của những nhận định này.
17
Giáo sư Lê Huy Bắc trong công trình Văn học Mỹ đã viết: “J. London sinh
trưởng trong giai đoạn bùng nổ nhiều hệ tư tưởng. Đặc biệt là thuyết tiến hóa và

chủ nghĩa duy vật biện chứng, những tư tưởng làm thay đổi mạnh mẽ lối tư duy
của con người. Bốn nhà lập thuyết có ảnh hưởng lớn đến J. London là C. Darwin,
H. Spencer, F. Nietzche và K. Marx” [9, 320 - 321]. Ý kiến của GS Lê Huy Bắc
hoàn toàn xác đáng, có cơ sở từ thực tiễn sáng tác của J. London, nhưng đó cũng
mới chỉ là ý kiến mang tính khái quát. J. London chịu ảnh hưởng từ bốn nhà lập
thuyết nói trên ở điểm nào thì GS Lê Huy Bắc và giới nghiên cứu đều chưa chỉ rõ.
Chúng tôi xem đây là một sự gợi mở thú vị, và sẽ lí giải rõ hơn trong luận án này.
Tác giả Nguyễn Kim Anh có bài báo Lòng khát khao sống và cuộc đấu
tranh sinh tồn trong tác phẩm “Tình yêu cuộc sống” của Jack London [1]. Bài
báo này cũng chỉ mới bàn về một chủ đề nổi bật trong sáng tác của J. London, thể
hiện trong một truyện ngắn cụ thể.
Nguyễn Kim Anh cũng là người đầu tiên ở Việt Nam làm luận án tiến sĩ về
J. London với đề tài Thiên nhiên đặc trưng trong thi pháp tiểu thuyết của Jack
London [2]. Từ quan niệm: “Thiên nhiên/ tự nhiên là tất cả những gì không phải
do con người làm ra, như các loài vật, thời tiết, cỏ cây; thiên nhiên là bản tính,
bản chất của một ai đó, một cái gì đó” [2,10], tác giả Nguyễn Kim Anh triển khai
luận án thành ba chương: Những con chó sói, Con người hoang dã, và Không
gian hoang sơ. Điểm thành công nổi bật nhất trong luận án của tác giả Nguyễn
Kim Anh là làm nổi bật được ý đồ của J. London, lấy cái “hoang dã, bản năng”
làm đối trọng với “văn minh”, lấy tính chất hoang dã, hung bạo của thiên nhiên để
phản ánh hiện thực xã hội Mỹ ở thời đại nhà văn. Chúng tôi cho rằng luận án của
Nguyễn Kim Anh đã tìm đến chỗ đặc trưng nổi bật nhất của J. London, nhưng sự
luận giải về điểm đặc trưng này thì chưa phải đã hoàn toàn thấu đáo.
Ngoài các công trình, bài báo trên đây, còn có lời giới thiệu trong các tuyển tập
truyện ngắn của J. London (do các dịch giả Việt Nam tuyển chọn) và một số công
trình nghiên cứu về văn học Mỹ nói chung như Đại cương văn học sử Hoa Kỳ của
tác giả Đắc Sơn [91], Văn học Mỹ quá khứ và hiện tại do Nguyễn Thị Khánh chủ
18
biên [62], bài viết Văn học Mỹ và hiện thực nước Mỹ của tác giả Nguyễn Đức Nam
[79] Những tài liệu này chỉ mang tính chất giới thiệu khái quát chứ chưa đề cập

đến vấn đề nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của J. London.
Nhìn chung, các sách giáo trình và bài báo của giới nghiên cứu ở Việt Nam đã
giới thiệu khá rõ về cuộc đời, tư tưởng và khái quát toàn bộ sự nghiệp sáng tác của
J. London. Những nội dung này tuy chưa phải là trọng tâm nghiên cứu của đề tài
nhưng ít nhiều cũng góp phần giúp chúng tôi có sự hiểu biết rộng rãi hơn về
J. London. Đây cũng là một cơ sở để chúng tôi thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của Jack London
Theo chỗ chúng tôi biết, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của J. London, nhưng
đã có một số công trình giới thiệu khái quát hoặc nghiên cứu một phương diện
nào đó về truyện ngắn của nhà văn này. Ngoài ra còn có một số công trình, bài
viết bàn về nghệ thuật tiểu thuyết có thể vận dụng trong luận án này. Dưới đây
chúng tôi xin điểm qua kết quả nghiên cứu thể hiện trong một số công trình tiêu
biểu nhất.
1.2.1. Các công trình viết bằng tiếng Anh
Trong các công trình, bài viết bằng tiếng Anh bàn về J. London mà chúng
tôi thu thập được, tiêu biểu nhất là cuốn Jack London - Tiểu luận phê bình (Jack
London Essay In Criticism) do R.W. Ownbey biên tập. Cuốn sách này tập hợp
mười bài nghiên cứu của nhiều tác giả, trong đó liên quan đến đề tài nghiên cứu
trong luận án này có bốn bài viết sau đây:
King Hendricks trong bài viết Jack London: Bậc thầy truyện ngắn (Jack
London: Master Crafisman of The Short Story) [150, 13 - 30] đã chọn phân tích
bốn truyện ngắn tiêu biểu của J. London: Nhóm lửa, Tình yêu cuộc sống, Luật
đời, và Người Chinago, qua đó chỉ ra một số nét đặc trưng trong truyện ngắn
J. London, đó là: khả năng kỳ lạ trong việc sáng tạo ra một lối kể chuyện mạnh
mẽ, tạo ra bầu không khí mà ở đó các nhân vật chuyển động và sống ở nhiều thời
điểm làm tác động đến kết quả câu chuyện, “chúng chứng nhận thiên tài
19
J. London, bậc thầy nghệ thuật châm biếm và là bậc thầy truyện ngắn” [150, 30].
Ngoài ra, tác giả bài viết cũng chứng minh rằng tình yêu cuộc sống là đề tài

xuyên suốt nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn của J. London. Với những đặc điểm
trên đây, tác giả bài viết cho rằng J. London nổi tiếng chủ yếu bởi những sáng tác
thuộc thể loại truyện ngắn. Đó là lí do để tác giả khẳng định J. London là “bậc
thầy truyện ngắn”, đó cũng là lí do để giải thích “tại sao J. London là nhà văn Mỹ
được đọc rộng rãi nhất cho đến ngày nay, tại sao truyện ngắn của ông ấy được
dịch sang hơn bốn mươi thứ tiếng khác nhau, tại sao ông ấy là nhà văn Mỹ được
biết đến nhiều nhất ở Nga, ở Đức, Anh, (…), và tại sao tác phẩm của ông ấy lại
được bán rộng rãi ở Mỹ” [150, 16]. Quan điểm của tác giả bài viết này mặc dù có
chỗ hơi cực đoan nhưng cũng đã chỉ ra một số đặc điểm nghệ thuật, và khẳng
định tài năng bậc thầy của J. London ở thể loại truyện ngắn.
Earl Wilcox có bài viết “Kipling của vùng Klondike”: Chủ nghĩa tự nhiên
trong những tác phẩm đầu tiên của Jack London ("The Kipling of The Klondike":
Naturalism In Londons Early Fiction) [120, 79 - 91]. Theo tác giả bài viết, trong
tác phẩm của J. London có ba chủ đề chiếm ưu thế: quan niệm tồn tại của loài
sinh vật, thuyết quyết định như là một nhân tố kiểm soát trong vũ trụ, và tính ưu
việt của người da trắng. Theo chúng tôi, sự khái quát này còn có chỗ chưa thật
chính xác. Mặc dù J. London có một số ít tác phẩm đề cao người da trắng, nhưng
phần lớn tác phẩm của ông thể hiện rõ tư tưởng lên án sự tàn bạo của người da
trắng. Đây chính là chỗ thể hiện sự mâu thuẫn trong lập trường của ông. Trong
bài viết, Earl Wilcox cũng nhấn mạnh việc đề cao người phụ nữ trong tác phẩm
của J. London. Chúng tôi cho rằng đây là một trong những nhận định hoàn toàn
đúng đắn. Ngoài ra, bài viết cũng đã khám phá ra những nhân tố tự nhiên trong
tác phẩm của J. London viết sau năm 1902. Biểu hiện của Chủ nghĩa tự nhiên là
trong cuộc đấu tranh giữa con người với con người và giữa con người với thiên
nhiên, chiến thắng luôn thuộc về kẻ mạnh. Sự giống nhau giữa con người và loài
vật là cả hai đều tuân theo luật sinh tồn. Vấn đề này đã không ít người nói đến,
20
tuy nhiên cũng là một cơ sở để chúng ta khẳng định mối quan hệ giữa J. London
với Chủ nghĩa tự nhiên, với học thuyết của Dawin.
Nhà nghiên cứu Earle Labor có bài viết Sự hoang dã có tính biểu tượng của

Jack London: Bốn phiên bản (Jack London’s Symbolic Wilderness: Four
Versions) [119, 31 - 42]. Mở đầu bài viết này Earle Labor đã trích dẫn bài báo
của Gordon Mills để khẳng định: “Biểu tượng hoang dã như là một chủ đề xuyên suốt
nối liền J. London với những nhà văn lãng mạn thế kỷ XIX”, và ông đã phát hiện ra “có
ít nhất bốn phiên bản riêng lẻ có biểu tượng hoang dã trong tiểu thuyết của J. London
với những chất lượng đặc biệt” [119, 31]. Bốn phiên bản đó là “sự im lặng màu trắng” ở
miền Bắc, rừng rậm Melanesia, quần đảo Polynesia ở miền Nam, và thung lũng mặt
trăng – những khu rừng nguyên sinh ở miền Tây nước Mỹ. Theo tác giả bài viết, nét
hoang dã trong tác phẩm của J. London biểu hiện ở nhiều hình thái, mỗi hình thái thể
hiện những ý nghĩa biểu tượng khác nhau. Sau khi phân tích ý nghĩa của các biểu tượng,
tác giả bài viết kết luận: “J. London đã đi xuyên qua các vùng hoang dã khác nhau để
tìm chốn thiên đường” [119, 42], điều này phản ánh “giấc mơ của người Mỹ”. Nhưng
cuối cùng J. London vẫn không thể tìm ra chốn thiên đường, giấc mơ ấy hóa thành bi
kịch, và “tấn bi kịch của J. London cũng là tấn bi kịch của nước Mỹ” [119, 42]. Việc chỉ
ra và lí giải các biểu tượng hoang dã trong bài viết này đã giúp chúng tôi hiểu thêm về
nghệ thuật tổ chức không gian và thế giới biểu tượng giàu ý nghĩa trong tác phẩm của J.
London. Quan điểm của tác giả bài viết này cũng có ý nghĩa như một sự mở đường giúp
chúng tôi thâm nhập vào thế giới nghệ thuật truyện ngắn của J. London.
J. McClintock là tác giả của bài viết Việc sử dụng tâm lí vô thức Carl Jung của Jack
London (Jack London’s Use of Carl Jung’s Psychology of The Unconscious) [147, 43 -
53]. Bài viết này nhấn mạnh đến sự ảnh hưởng tâm lí vô thức của Carl Jung trong nghệ
thuật thể hiện tâm lí nhân vật của J. London. Mặc dù khai thác tâm lí nhân vật không phải
là thế mạnh của J. London nhưng những phát hiện trong bài viết này cũng góp phần giúp
chúng tôi khám phá nghệ thuật xây dựng nhân vật trong một số ít truyện ngắn của ông.
Nhìn chung các bài viết trong cuốn Jack London – tiểu luận phê bình đã quan tâm
đến một số đặc điểm trong sáng tác của J. London cả về nội dung và nghệ thuật. Các bài
21
viết đã chỉ ra những nhân tố của Chủ nghĩa tự nhiên, thiên nhiên mang tính biểu tượng,
nghệ thuật tạo không khí truyện, cốt truyện li kỳ, vấn đề tâm lí nhân vật Những ý kiến
nhận định trong các bài viết này đã gợi mở ra nhiều vấn đề, nhiều phương diện khác

nhau trong nghệ thuật sáng tác của J. London. Chúng tôi trân trọng tiếp thu và xem đây
là định hướng để triển khai đề tài của mình.
Bên cạnh cuốn sách nói trên, một số bài báo tiếng Anh đăng tải trên mạng
Internet cũng đã đưa ra những nhận định khá thú vị về tác phẩm của J. London nói
chung, trong đó tiêu biểu nhất là bài Mỗi buổi sáng tôi nghĩ ra một nghìn chữ viết về
tiểu thuyết (I Turn Out Each Morning A Thousand Words of Fiction) [117] của nhà
nghiên cứu D.L. Wallker. Tác giả bài báo này đã căn cứ vào dung lượng câu chữ để
gọi truyện của J. London là “tiểu thuyết ngắn”, và xếp một số tiểu thuyết như Tiếng
gọi nơi hoang dã, Trước Adam,… vào loại này. D.L. Wallker gọi truyện ngắn của
J. London là “tiểu thuyết ngắn”. Cách gọi này gợi cho chúng tôi suy nghĩ về một điểm
đặc sắc trong nghệ thuật viết truyện của J. London, đó là xu hướng “tiểu thuyết hóa
truyện ngắn” – một biểu hiện cho sự phá vỡ đường biên giữa các thể loại tiểu thuyết
và truyện ngắn. Cũng trong bài viết trên đây D.L. Wallker đã chỉ ra một số đặc điểm
nghệ thuật trong truyện ngắn của J. London, cụ thể là: “Rất nhiều nhân vật đủ các
hạng người, cốt truyện với nhiều tình huống phức tạp, nhiều đoạn dẫn, nhiều đoạn hội
thoại dài hàng chục trang, và những cái kết có ý nghĩa; tất cả những cái đó được kết
hợp với nhau một cách nhuần nhuyễn và khéo léo” [117]. Đây là nhận định hết sức
thú vị, góp phần giúp chúng tôi xác định hướng triển khai đề tài này.
D.L. Wallker còn đề cập đến kiểu cốt truyện lồng ghép trong một số truyện ngắn
tiêu biểu của J. London. Ông viết:
Truyện “Kẻ lang thang giữa các vì sao” (The Star Rover) với những trải nghiệm tuyệt
diệu thực ra là một xê-ri truyện ngắn liên kết với nhau bởi cùng một hình mẫu nhân vật
là Daryl Standing, một người tù ở San Quentin. Truyện kể về cuộc phiêu lưu bằng tâm
hồn của người tù này khi anh ta còn bị trói và giam cầm biệt lập. “Bellew Ám Khói”
(Smoke Bellew) cũng là một xê-ri truyện ngắn được xâu chuỗi với nhau bằng việc xuất
hiện lại của nhân vật chính - Kit Bellew giống như tiểu thuyết vậy. Còn “John
Barleycorn” (John Barleycorn) lại có sự kết hợp mới lạ giữa tính chất nửa hư, nửa thực
22
với tính chất tự truyện và giọng điệu ôn hòa. Tác phẩm này cũng là một xê-ri tóm tắt
của nhiều truyện ngắn [117].

Chúng tôi xem nhận định trên đây của D.L. Wallker là một sự phát hiện mới mẻ và sẽ vận
dụng để khám phá về nghệ thuật tổ chức cốt truyện trong truyện ngắn của J. London.
Như vậy, trong phạm vi tài liệu bằng tiếng Anh chúng tôi đã thu thập được thì
chưa thấy công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về toàn bộ truyện ngắn của
J. London. Các nhà nghiên cứu chỉ mới đề cập đến một số đặc điểm nhỏ lẻ ở một số
những phương diện trong nghệ thuật viết truyện của J. London, chưa có ai nghiên
cứu sâu rộng về vấn đề nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của ông. Tuy vậy, kết quả
nghiên cứu được trình bày trong các công trình, bài báo trên đây đã gợi mở, đặt ra
nhiều vấn đề để chúng tôi tiếp tục vận dụng và phát triển trong luận án.
1.2.2. Các công trình viết bằng tiếng Việt
GS. TS Lê Huy Bắc là một trong những người có công lớn nhất trong việc giới
thiệu và nghiên cứu J. London ở Việt Nam. Ông là tác giả của các công trình Văn học
Mỹ, Đặc trưng truyện ngắn Anh Mỹ, và gần đây nhất là công trình Lịch sử văn học Hoa
Kỳ. Trong các công trình này, tác giả đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn khái quát
về cuộc đời, con người, tư tưởng và văn nghiệp của J. London. Đặc biệt, trong cuốn
sách Văn học Mỹ, tác giả đã dành hẳn một chương để viết về J. London. Trong cuốn
sách này tác giả khẳng định: “Tác phẩm của J. London hấp dẫn độc giả ngoài văn
phong hoành tráng, bay bổng, ngoài các cốt truyện lạ, li kì, cách khai thác xung đột
cũng góp phần quan trọng bậc nhất cho thành công đó. J. London là bậc thầy xây dựng
xung đột” [9, 321]. Để minh chứng cho nhận định đó, tác giả đã đi sâu phân tích xung
đột tay ba và xung đột tay đôi trong các truyện ngắn và tiểu thuyết tiêu biểu của
J. London. Cũng trong sách này, tác giả Lê Huy Bắc đã phân tích một số biểu hiện cơ bản
về nhân vật, thiên nhiên, và tính chất giáo huấn trong tác phẩm của J. London để chứng
minh rằng: “sáng tác của London rất gần với ngụ ngôn ở nhiều phương diện” [9, 336].
Trong cuốn sách Đặc trưng truyện ngắn Anh Mỹ, GS Lê Huy Bắc gọi truyện
ngắn của J. London là “truyện ngắn người hùng Klondike” [14, 157]. Mặc dù kiểu
nhân vật “người hùng” không chỉ xuất hiện trong các truyện ngắn viết về vùng
23
Klondike, nhưng nhận định của tác giả Lê Huy Bắc đã cho thấy kiểu nhân vật “người
hùng” xuất hiện phổ biến như một nét thi pháp truyện ngắn của J. London.

Bùi Văn Thanh là tác giả của luận văn thạc sĩ Thế giới nhân vật vùng Klondike
của Jack London [94] bảo vệ năm 2003. Luận văn này đã phân loại thế giới nhân vật
vùng Klondike của J. London (bao gồm tiểu thuyết và truyện ngắn) thành ba loại: con
người, loài vật và thiên nhiên. Trên cơ sở đó tác giả đã bước đầu chỉ ra một số đặc điểm
của mỗi loại nhân vật. Tuy luận văn chỉ mới bàn về thế giới nhân vật vùng Klondike
nhưng cũng có ý nghĩa gợi mở để chúng tôi mở rộng nghiên cứu về nhân vật trong hệ
thống truyện ngắn của J. London.
Luận văn thạc sĩ Kỹ thuật truyện ngắn O. Henry và J. London từ cái nhìn so sánh
[41] của học viên Đỗ Thị Hằng bảo vệ năm 2005 đã so sánh nghệ thuật truyện ngắn của
O. Henry và J. London trên ba phương diện: nhân vật, điểm nhìn, và cốt truyện. Đây cũng
là hướng nghiên cứu mà chúng tôi lựa chọn để thực hiện đề tài của mình. Tuy nhiên, chúng
tôi sẽ mở rộng đối tượng nghiên cứu để có thể đưa ra những kết luận đủ sức thuyết phục.
Học viên Trần Thị Lệ đã bảo vệ luận văn thạc sĩ năm 2011, với đề tài Loài vật
trong “Tiếng gọi nơi hoang dã” và “Nanh trắng” của Jack London. [68]. Trong luận
văn này tác giả Trần Thị Lệ đã tìm hiểu về nhân vật loài vật qua hai cuốn tiểu thuyết
Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of The Wild) và Nanh trắng (White Fang) của
J. London trên các phương diện: nhân vật loài vật, dấu ấn ngụ ngôn, nghệ thuật tạo
dựng xung đột và khắc hoạ tâm lí. Trên cơ sở đó, luận văn đã chỉ rõ ý nghĩa, vai trò
của hình tượng loài vật, đặc biệt là những con chó sói trong sự nghiệp sáng tác của
nhà văn. Tác giả luận văn đã vận dụng những kết luận trong các công trình nghiên cứu
của GS. TS. Lê Huy Bắc và những người đi trước để khám phá loài vật trong hai tiểu
thuyết cụ thể của J. London, chưa có thêm phát hiện đáng kể nào về mặt lí thuyết.
Gần đây nhất (năm 2012), học viên Nguyễn Thị Thu Trang đã bảo vệ thành công
luận văn thạc sĩ Tính sử thi trong truyện ngắn Jack London [105]. Luận văn này đã tìm
hiểu về tính sử thi trong truyện ngắn của J. London trên các phương diện: cảm hứng
ngợi ca hùng tráng, hình tượng con người sử thi, và không gian sử thi. Những ý tưởng
được triển khai trong luận văn đã được chúng tôi trình bày sơ lược trong bản Đề cương
24
dự định nghiên cứu bảo vệ tại Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam vào năm 2010, và
chúng tôi sẽ tiếp tục sử dụng để triển khai một số phần trong luận án.

Ngoài các sách, luận án, luận văn trên đây còn có một số bài viết bàn về tiểu thuyết
nhưng có những nội dung liên quan đến vấn đề nghiên cứu trong luận án của chúng tôi.
Trong đó, nổi bật là bài viết Nhân vật và người kể chuyện trong "Tiếng gọi nơi hoang
dã” của tác giả Đào Duy Hiệp. Trong bài viết này chúng tôi đặc biệt quan tâm đến nhận
định: "văn chương Jack London gọn, rõ, nhiều hành động. Thiên nhiên hoang vắng, đầy
bất trắc, khốc liệt ( ) khiến cho những tính cách nhân vật bộc lộ rõ rệt hơn trong cuộc
tồn sinh dữ dội và quyết liệt" [43]. Tác giả bài viết cho rằng “văn chương Jack London
gọn, rõ, nhiều hành động”. Ý kiến này chỉ đúng với trường hợp tiểu thuyết Tiếng gọi nơi
hoang dã – một tiểu thuyết có dung lượng câu chữ không dài. Thực tế thì hầu hết truyện
ngắn của J. London có dung lượng rất dài, có những truyện lên đến hàng chục trang (ví
dụ như Sóng lớn Kanaka, Hướng theo những mặt trời giả tạo, Odyssey của phương
Bắc, Ngọc trai của lão Parlay). Truyện của J. London không chỉ dài về dung lượng câu
chữ mà còn rộng về nội dung tư tưởng và phạm vị hiện thực được phản ánh. Nhiều
truyện ngắn của J. London đòi hỏi người đọc phải phát huy cao độ năng lực tư duy, liên
tưởng thì mới có thể giải mã được những tầng ngầm nội dung mà nhà văn muốn nói.
Cũng trong nhận định trên đây, tác giả bài viết đã nói đến vai trò của thiên nhiên
với tư cách là môi trường cho nhân vật tự bộc lộ tính cách. Điều đó quả không sai,
nhưng thiên nhiên trong Tiếng gọi nơi hoang dã nói riêng và trong sáng tác của
J. London nói chung không đơn thuần là môi trường cho nhân vật tự thể hiện mình.
J. London tập trung khắc họa thiên nhiên với tư cách là một nhân vật đặc biệt mang
đặc tính “hoang vắng, đầy bất trắc, khốc liệt”. Đặc tính ấy đã biến thiên nhiên thành
phương tiện để nhà văn phản ánh hiện thực xã hội và bộc lộ những suy tư trăn trở của
mình về lẽ sống, về cuộc đời.
Tác giả Lê Nguyên Cẩn có bài bình giảng về hình tượng con chó Buck trong cuốn
sách Phân tích bình giảng tác phẩm văn học nước ngoài ở trường phổ thông cơ sở [18].
Trong bài viết này tác giả đã phân tích, làm rõ nghệ thuật miêu tả tâm lí và ý nghĩa thẩm
25
mĩ của hình tượng con chó Buck trong tiểu thuyết Tiếng gọi nơi hoang dã của
J. London. Bài viết có đoạn:
J. London đã thể hiện những khám phá tinh tế sắc sảo khi miêu tả sự chuyển đổi tâm

trạng của con chó Buck. Xét ở một bình diện khác chúng ta dễ dàng nhận thấy ở chính tác
giả cũng có những tình cảm yêu thương loài vật đặc biệt. Ông chuyển những tình cảm ấy,
những nhận xét ấy vào thế giới nhân vật của mình. Từ đó ông tạo ra một dạng ngụ ngôn
hiện đại có giá trị thức tỉnh nhiều mặt (…), nói đến loài vật, mượn thế giới loài vật cũng
chính là để nói tới thế giới con người. Khơi dậy tình cảm của con chó Buck cũng chính là
khơi dậy trong bản thân con người những tình cảm nhân văn cao thượng và chân chính,
khơi dậy để rồi thổi bùng lên những tình cảm trong sáng lành mạnh khác” [18, 223].
Cuối bài viết tác giả kết luận: “Tiếng gọi nơi hoang dã đó hướng về những nơi không
hoang dã với niềm mong mỏi tình người đằm thắm và tình đời không phai nhạt” [18,
223]. Lập luận của tác giả Lê Nguyên Cẩn cho thấy loài vật vừa là một kiểu nhân vật,
vừa là một phương thức nghệ thuật mà J. London sử dụng để chuyển tải tư tưởng nghệ
thuật của mình. Đây cũng là một biểu hiện của dấu ấn ngụ ngôn trong sáng tác của J.
London. Mặc dù bài viết chỉ phân tích một nhân vật trong một cuốn tiểu thuyết nhưng sẽ
là gợi ý thú vị để chúng tôi vận dụng khi khám phá kiểu nhân vật loài vật trong truyện
ngắn của J. London.
Có thể nói, vấn đề nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn của J. London đã
được nhắc đến trong khá nhiều công trình, bài viết của giới nghiên cứu ở Việt
Nam. Tuy vậy, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về
toàn bộ vấn đề này. Một số công trình chỉ mang tính chất giới thiệu hoặc nghiên
cứu trong phạm vi một số truyện ngắn của J. London đã được dịch ra tiếng Việt,
bởi vậy cần phải có thêm những công trình nghiên cứu chuyên sâu và hệ thống về
truyện ngắn J. London, đặc biệt là vấn đề nghệ thuật tự sự.
1.3. Những khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu
J. London là nhà văn xuất sắc - người đã sáng tạo nên một vườn văn rộng
lớn trong nền văn học Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Những tác
phẩm tiêu biểu của ông đã được giới thiệu đến người đọc nhiều nơi trên thế giới.
Tuy vậy, giới nghiên cứu chỉ mới tập trung bàn về ông với tư cách là một tiểu
26

×