Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tư tưởng HCM về văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.89 KB, 16 trang )

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 1 -


LỜI MỞ ĐẦU

Nước Việt Nam ra đời và tồn tại hơn 4000 năm lịch sử, qua thời gian, chúng ta xây
dựng và lưu trữ lại trong từng con người những truyền thống Văn hóa quý báu như
truyền thống yêu nước, truyền thống lá lành đùm lá rách…Cùng với đó là những lễ
hội, những làng nghề, những phong tục tập quán mà đặc trưng không một quốc gia
nào khác trên thế giới có được.
Tuy nhiên, nền Văn hóa của Việt Nam ta đang phát triển thế nào? Và mỗi người
dân Việt Nam hiểu được bao nhiêu về Văn hóa nước nhà, cần làm gì để giữ gìn và
phát huy những truyền thống Văn hóa quý báu ấy?
Hơn nữa, đối với thế hệ trẻ, thì đòi hỏi sự nỗ lực và cố gắng với trách nhiệm xây
dựng và phát triển đất nước. Và biểu hiện đầu tiên của trách nhiệm ấy là mỗi người
phải có cái nhìn đúng đắn và sâu sắc về thực trạng tình hình Văn hóa đất nước, qua đó
thấy được những mặt tích cực và tiêu cực còn tồn tại để kịp thời đưa hướng giải quyết
cho mỗi cá nhân và toàn xã hội.
Tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở giúp cho
chúng ta hiểu một cách sâu sắc nội dung vấn đề quan trọng đó.
Đó chính là lý do đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa ở Việt Nam” được
đưa vào nghiên cứu.
Chúng em mong rằng, sau khi hoàn thành đề tài này, chúng em có thể hiểu rõ hơn
về những truyền thống Văn hóa quý báu của dân tộc,đồng thời thấy được những khó
khăn trong việc phát triển nền văn hóa ấy, từ đó nhận thức đúng đắn những việc mình
có thể làm để góp công dựng một nước Việt Nam phát triển
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù hết sức cố gắng tuy nhiên chúng em không thể


tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được những đóng góp quý báu của cô giáo để
những đề tài sau được hoàn chỉnh hơn.

Trân trọng cảm ơn
Nhóm Sinh Viên Thực hiện

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 2 -
MỤC LỤC

Nội dung Trang

I. Những quan điểm chung của Hồ Chí Minh
về Văn hóa 3
1. Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hóa 3
Định nghĩa về Văn hóa 3
Luận điểm về xây dựng một nền Văn hóa mới 3
Quan hệ giữa Văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội 3
2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới 4
3. Quan điểm về chức năng của văn hóa 4
II. Tư tưởng Hồ Chí Minh về một số lĩnh vực của Văn hóa 5
1. Văn hóa giáo dục 5
2. Văn hóa văn nghệ 6
3. Văn hóa đời sống 6
III. Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xậy dựng Văn hóa – Đạo đức
trong Đảng hiện nay 7
IV. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Văn hóa vào việc

xây dựng con người Việt Nam hiện nay 8
V. Thực trạng và đánh giá về nền Văn hóa Việt Nam hiện nay 8
1. Thực trạng nền Văn hóa Việt Nam hiện nay 8
a. Những thành công. 8
b.Những mặt hạn chế còn tồn tại 10
c. Một việc có thể làm ngay. 15
2. Đánh giá về thực trạng Văn hóa Việt Nam hiện nay 15
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 3 -
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA

I. NHỮNG QUAN ĐIỂM CHUNG CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA.
1. Quan điểm về vị trí, vai trò của văn hóa

 Định nghĩa về Văn hóa:
Trong quá trình tìm đường cứu nước, trên cơ sở truyền thống tốt đẹp của nền
văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chắt lọc
tinh hoa văn hóa của các nước trên thế giới, từng bước xây dựng lý luận văn hóa.
Tháng 8-1943, Hồ Chí Minh nêu ra một định nghĩa về văn hóa:
"Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn"
Như vậy, văn hoá đã được hiểu theo nghĩa rộng nhất.

 Luận điểm về xây dựng một nền Văn hóa mới: 5 luận điểm lớn
 Xây dựng tâm lý: tinh thần độc lập tự cường
 Xây dựng luân lý: biết hy sinh mình, làm lợi cho quần chúng.

 Xây dựng xã hội: mọi sự nghiệp có liên quan đến phúc lợi của nhân dân
trong xã hội.
 Xây dựng chính trị: dân quyền
 Xây dựng kinh tế.

 Quan hệ giữa Văn hóa với kinh tế, chính trị, xã hội:
Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn
vấn đề chủ yếu của đời sống xã hội và được nhận thức như sau:
 Văn hóa quan trọng ngang kinh tế, chính trị, xã hội.
 Chính trị, xã hội có được giải phóng thì văn hóa mới được giải phóng.
Chính trị giải phóng mở đường cho văn hóa phát triển.
 Xây dựng kinh tế để tạo điều kiện cho việc xây dựng và phát triển văn hóa:
Hồ Chí Minh đã tổng kết: Muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển
kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta"
(Hồ Chí Minh không bao giờ nói phát triển văn hóa trước kinh tế).
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 4 -
 Tuy "kinh tế có kiến thiết rồi, văn hóa mới kiến thiết được", nhưng điều đó
không có nghĩa là văn hóa "thụ động", Văn hóa có tính tích cực chủ động, đóng
vai trò to lớn thúc đẩy kinh tế và chính trị phát triển như một động lực.

2. Quan điểm về tính chất của nền văn hóa mới
Theo Hồ Chí Minh, nền văn hoá mới mà chúng ta chủ trương xây dựng là nền văn
hoá có tính hất dân tộc, khoa học và đại chúng.
 Tính dân tộc của nền văn hóa thể hiện ở đặc tính dân tộc, cốt cách dân tộc
của nền văn hóa. Nó là kết quả của sự kế thừa và phát huy những truyền thống
văn hóa tốt đẹp của dân tộc.

 Tính khoa học của nền văn hóa thể hiện ở sự phù hợp của nền văn hóa dân
tộc với sự tiến hóa chung của nền văn hóa nhân loại: hòa bình, độc lập dân tộc,
ở khả năng đóng góp của văn hóa vào sự nghiệp cải tạo xã hội.
 Tính đại chúng của nền văn hóa thể hiện ở chỗ nền văn hóa đó do quần
chúng nhân dân vừa là chủ thể sáng tạo vừa là chủ thể hưởng thụ những giá trị
của nền văn hóa đó.
Nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc:
 Nội dung xã hội chủ nghĩa là thể hiện tính tiên tiến, tiến bộ, khoa học, hiện
đại, biết tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với trào lưu tiến hóa trong
thời đại
 mới.
 Tính chất dân tộc của nền văn hóa là biết giữ gìn, kế thừa, phát huy những
truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, phát triển những truyền thống tốt đẹp
ấy cho phù hợp với những điều kiện lịch sử mới của đất nước.

3. Quan điểm về chức năng của văn hóa
Chức năng của văn hóa mới rất phong phú, đa dạng. Hồ Chí Minh cho rằng, văn
hóa có ba chức năng chủ yếu sau đây:
 Bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
Theo Hồ Chí Minh, văn hóa phải thấm sâu vào tâm lý quốc dân để bồi
dưỡng nâng cao tư tưởng cho con người, đồng thời loại bỏ những tư tưởng sai
lầm, tình cảm thấp hèn. Phải làm cho ai cũng có lý tưởng tự chủ, tự cường, độc
lập, tự do; phải làm cho quốc dân "có tinh thần vì nước quên mình, vì lợi ích
chung mà quên lợi ích riêng"
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 5 -
 Nâng cao dân trí.

Văn hóa luôn gắn với dân trí. Văn hóa nâng cao dân trí, làm cho người dân
biết đọc, biết viết, hiểu biết các lĩnh vực khác nhau về chính trị, kinh tế, văn
hóa Nhằm mục tiêu chung là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Vì "dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
 Ba là, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách, lối sống lành
mạnh, luôn hướng con người vươn tới cái chân, cái thiện, cái mỹ, không ngừng
hoàn thiện bản thân mình.

II. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỘT SỐ LĨNH VỰC CỦA VĂN HÓA:
1. Văn hóa giáo dục
Hồ Chí Minh phê phán nền giáo dục phong kiến và nền giáo dục thực dân Người
quan tâm xây dựng nền giáo dục mới của nước Việt Nam độc lập. Văn hóa giáo dục
là một mặt trận quan trọng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh
thốngnhất nước nhà.
Quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục:
 Mục tiêu của văn hóa giáo dục để thực hiện cả ba chức năng của văn hóa bằng
giáo dục:
 Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp.
 Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội.
 Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách
mạng.
 Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa, chính trị, khoa học - kỹ thuật,
chuyên môn nghiệp vụ, lao động
 Phương châm, phương pháp giáo dục:
 Phương châm bao gồm: học đi đôi với hành,; học tập kết hợp với lao
động; phối hợp nhà trường - gia đình - xã hội; học suốt đời. Coi trọng việc
tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc, mọi nơi, học mọi người.
 Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo
dục.
 Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; đạo đức cách

mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về
phương pháp.

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 6 -
2. Văn hóa văn nghệ
 Văn nghệ là một mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ, tác phẩm văn nghệ là vũ khí
sắc bén trong đấu tranh cách mạng, trong xây dựng xã hội mới, con người mới.
Văn nghệ có vai trò thức tỉnh, định hướng, cổ vũ tinh thần đấu tranh, tổ chức lực
lượng, động viên dân chúng tin tưởng vào của Đảng và Nhà nước.
 Phải gắn với thực tiễn của đời sống nhân dân.
Thực tiễn đời sống nhân dân là những nguồn nhựa sống của văn hóa văn
nghệ. Văn nghệ sĩ có quyền hư cấu, song phải xuất phát và trở về với cuộc sống
thực tại của con người, phải hiểu thấu tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của quần
chúng. Quần chúng là những người làm ra lịch sử. Họ là những người đánh giá
trung thực, khách quan, chính xác. Nhân dân là người hưởng thụ các giá trị tinh
thần.
 Phải có những tác phẩm xứng đáng với dân tộc và thời đại.
Phải nâng cao chất lượng nội dung và hình thức của tác phẩm. Tác phẩm
văn hóa, văn nghệ hay vừa làm gương mẫu cho các thế hệ hôm nay, vừa giáo dục
nhắc nhở con cháu đời sau. Tác phẩm văn nghệ phải phong phú, đa dạng về thể
loại, không thể đơn điệu, nghèo nàn.

3. Văn hóa đời sống
Văn hóa đời sống thực chất là đời sống mới với ba nội dung: đạo đức mới, lối
sống mới, nếp sống mới, trong đó đạo đức mới đóng vai trò chủ yếu nhất.
 Đạo đức mới: Thực hành đời sống mới trước hết là thực hành đạo đức

cách mạng.
 Lối sống mới: Lối sống mới là lối sống có lý tưởng, có đạo đức; kết hợp hài
hòa truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại tạo nên lối
sống văn minh, tiên tiến.
 Nếp sống mới: Xây dựng nếp sống mới (nếp sống văn minh) là xây dựng
những thói quen và phong tục tập quán tốt đẹp, kế thừa và phát triển được
những thuần phong mỹ tục lâu đời của dân tộc.
Quá trình đổi mới nếp sống phải rất cẩn thận, chịu khó, lâu dài, không thể dùng
cách trấn áp thô bạo đối với cái cũ, lạc hậu
Tóm lại, xây dựng văn hóa đời sống chung cho cả xã hội, phải bắt đầu từ từng
người, từng gia đình.

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 7 -
III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ XÂY DỰNG VĂN HÓA – ĐẠO
ĐỨC TRONG ĐẢNG HIỆN NAY.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) của Đảng ta nêu rõ rằng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc là một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng yêu cầu: đưa các nhân tố văn hóa, tinh thần
thấm sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nghị quyết TW V, khóa VIII, ghi rõ: "Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng về văn
hóa, phải xây dựng văn hóa từ trong Đảng, trong bộ máy nhà nước " và khẳng định
rằng: "Đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống
văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong các tổ chức §ảng và nhà nước,

trong các đoàn thể quần chúng và trong từng gia đình".
Nghị quyết Đại hội IX của Đảng một lần nữa yêu cầu: "Nâng cao tính văn hóa
trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội và sinh hoạt của nhân dân".
Mỗi tổ chức đảng và đoàn thể, mỗi cơ quan nhà nước đều là "một tấm gương văn
hóa trong xã hội".
Nhắc lại các nghị quyết nói trên để thấy rõ tính bức bách của nhiệm vụ xây dựng
văn hóa trong Đảng hiện nay; cũng là để thấy rõ rằng muốn xây dựng được tư tưởng,
đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa lành mạnh trong xã hội, trước hết phải xây
dựng được các phẩm chất đó trong các tổ chức của Đảng và bộ máy của Nhà nước
Đối chiếu với tư tưởng Hồ Chí Minh, ta càng thấy rõ vai trò quan trọng biết
dường nào của Văn hóa - đạo đức cách mạng trong việc xây dựng nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, và xây dựng văn hóa trong Đảng nói riêng.
Không phải ngẫu nhiên trong Di chúc Người nói về Đảng và đặc biệt nhấn mạnh với
đại ý: Đảng là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần Văn hóa - đạo đức cách mạng, phải làm mọi cách giữ gìn và phát huy truyền
thống của dân tộc. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, có những văn hóa ứng xử
đúng mực với nhân dân, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung
thành của nhân dân.
Những lời dạy của Bác Hồ về đạo đức cách mạng, đối với Đảng ta, đối với mỗi
cán bộ, đảng viên, ngày nay vẫn còn mang tính thời sự nóng hổi.

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 8 -
IV. VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VĂN HÓA VÀO VIỆC XÂY
DỰNG CON NGƯỜI VIỆT NAM HIỆN NAY.
Nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn

cách mạng mới với những nội dung sau:
 Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu,
đoàn kết với nhân dân thế giới.
 Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
 Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần, kiệm, trung thực, nhân
nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ
và cải thiện môi trường sinh thái.
 Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng
suất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
 Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ
thẩm mỹ và thể lực
Bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa và góp phần
làm phong phú thêm nền văn hóa của nhân loại trong quá trình giao lưu, hội nhập
quốc tế.
Phải đấu tranh chống sự xâm nhập của những yếu tố phản văn hóa. Chống
khuynh hướng hòa tan giá trị, áp đặt giá trị văn hóa ngoại lai, từng bước hủy hoại
nhân cách con người, đầu độc nhân dân, trước hết là lớp trẻ.

V. THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY.
1. Thực trạng nền Văn hóa Việt Nam hiện nay:
a. Những thành công trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân
theo tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng
Nội dung công tác chăm lo xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là một phạm trù rộng, bao hàm nhiều vấn đề thiết thực, Đảng ta
đã vận dụng trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở 3 vÊn ®Ò.
Thứ nhất, xây dựng nếp sống văn hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng xây dựng đời sống cho nhân dân phải được tiến
hành xây dựng nếp sống văn hóa. Quan điểm xây dựng đời sống mới của Chủ tịch Hồ
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1

______________________________________________________________________________


- 9 -
Chí Minh hết sức rõ ràng: "Đời sống mới không phải cái gì cũng bỏ hết, không phải
cái gì mới cũng làm. Cái gì cũ mà không xấu, nhưng phiền phức thì phải sửa đổi cho
hợp lý.Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Nếu mọi người đều làm đúng đời sống
mới, thì dân tộc nhất định sẽ phú cường."
Phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" đang thấm sâu vào
từng người, từng gia đình, với sự tham gia của các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã
hội và đoàn thể trở thành cuộc vận động văn hóa rộng lớn chưa từng có. Niềm tin của
dân với Đảng ngày càng gắn bó. Đến nay, cả nước có 11.720 hương ước, quy ước văn
hóa được xây dựng đã góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nếp sống văn hóa, gia
đình văn hóa; 12.831.887/17.900.665 hộ gia đình (71,46%), 42.053/88.704 làng, ấp,
khu phố (47,40%) và 13.523 cơ quan được công nhận đạt chuẩn văn hóa; gần 5.000
khu dân cư tiên tiến xuất sắc. Tổng số kinh phí huy động được từ nhân dân và các lực
lượng xã hội đầu tư cho xây dựng đời sống văn hóa trong 5 năm (2000 - 2005) là
3.461 tỉ 904 triệu đồng.

Thứ hai, xây dựng thiết chế văn hóa
Xây dựng đời sống văn hóa cho nhân dân, việc quan trọng là xây dựng hệ thống
thiết chế văn hóa thông tin cơ sở. Thiết chế được hiểu là thiết lập, tạo dựng lên; là sự
chế định và luật lệ đặt ra (thành văn và không thành văn) của mỗi cộng đồng, quốc
gia.
Bất kỳ một thời đại nào, chế độ xã hội nào cũng cần có những thiết chế văn hóa
để chuyển tải văn hóa chính thống của Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân, đồng
thời tổ chức các hoạt động văn hóa phù hợp với yêu cầu chuẩn mực, đạo đức, lối
sống, phong tục tập quán của thời đại đó. Xã hội càng văn minh, nhu cầu hưởng thụ
của con người càng cao, thiết chế văn hóa thông tin cơ sở càng có vị trí, vai trò quan
trọng.

Thiết chế văn hóa thông tin cơ sở lấy quần chúng làm đối tượng phục vụ, đáp
ứng nhu cầu của quần chúng. Thực tiễn đã và đang cho thấy, khi công nghệ khoa học
phát triển với trình độ cao, phương tiện nghe nhìn phát triển, các hoạt động của thiết
chế văn hóa thông tin cơ sở càng trở nên quan trọng không thể thiếu được trong diện
mạo, trong đời sống văn hóa ở các địa phương và địa bàn dân cư.

Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 10 -
Thứ ba, về xây dựng môi trường văn hóa
Theo tư tưởng văn hóa Hồ Chí Minh, xây dựng đời sống mới phải gắn liền với
việc xây dựng môi trường văn hóa. Môi trường văn hóa bao gồm cả giá trị di sản văn
hóa truyền thống và cách mạng, những giá trị sáng tạo mới và tinh hoa văn hóa nhân
loại. Môi trường văn hóa là sự kết hợp hài hòa giữa môi trường xã hội và môi trường
tự nhiên, có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Môi trường
văn hóa ở cơ sở bao gồm các đơn vị, cơ quan, xí nghiệp, công - nông - lâm trường,
trường học, bệnh viện, các khu dân cư như làng, ấp, bản, xã, phường, khu phố Bảo
đảm môi trường văn hóa lành mạnh, có đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu học tập, tiếp
nhận thông tin, thưởng thức nghệ thuật, vui chơi giải trí của mọi thành viên là cái cần
có để phòng, chống tốt nhất tệ nạn xã hội.
Hồ Chí Minh đã hết lòng chăm lo cho việc đào tạo, bồi dưỡng nhân tố con người.
Người đã chỉ đạo việc nêu gương “người tốt, việc tốt”. Người nhận định "phải xúc
tiến văn hóa để đào tạo con người mới cho công cuộc kháng chiến kiến quốc". Khẳng
định vai trò của việc đào tạo con người, Người dạy:
"Vì lợi ích mười năm trồng cây
Vì lợi ích trăm năm trồng người".
Trong điều kiện xã hội diễn biến càng phức tạp, chúng ta càng tin tưởng rõ rằng
phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở với nếp sống văn minh, lành mạnh, thiết

chế văn hóa thông tin cơ sở hoàn chỉnh và môi trường văn hóa trong lành sẽ là nhân tố
đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi tới thành
công. Xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở và các nội dung mục tiêu đạt được sẽ trở
thành pháo đài vững chắc trước các thế lực thù địch, đánh bại các biểu hiện phản văn
hóa và chống lại các tệ nạn xã hội mà không một loại hình, phương thức hoạt động
nào có thể thay thế hữu hiệu hơn

b. Những mặt hạn chế còn tồn tại:
Cùng với công tác thực hiện tốt đời sống Văn hóa cho người dân của Đảng và
nhà nước, chúng ta thêm tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp, nhưng bên cạnh những
thống kê tích cực trên vẫn còn tồn tại những quan niệm sai lầm, những chỉ đạo mang
tính vụ lợi của một bộ phận nhà trức trách
Quá trình hiện đại hóa đã được khởi động từ đầu thế kỷ XX, nhưng lúc đó đất
nước đang còn là một xứ thuộc địa, cộng đồng chưa trải qua một cuộc tự nhận thức
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 11 -
thực sự mà mọi dân tộc bước vào thời hiện đại phải trải qua (so với Trung quốc,
chúng ta chưa có một phong trào có tính chất bước ngoặt như cỡ Ngũ tứ vận động
1919). Tiếp sau giai đoạn chiến tranh nặng nề, đến giai đoạn hiện nay, chúng ta chỉ lo
đuổi kịp thế giới bằng mọi giá, nhiều vấn đề chiến lược không được đặt ra, đúng hơn
chỉ đặt ra chiếu lệ.

Thiếu sót đến ngay từ quan niệm
 Trong cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám, một trong những thành
viên của mặt trận Việt Minh là Hội văn hóa cứu quốc. Tới 1948, còn có Đại hội văn
hóa toàn quốc. Nhưng sau đó, Hội văn hóa bị giải thể thay vào đấy là những hội văn
nghệ, hội sử, các hội khoa học kỹ thuật… Từng hội hoạt động rời rẽ riêng biệt. Con

người nhà văn hóa trong các trí thức bị đẩy lùi xuống, thay vào đấy là vai trò người
chiến sĩ. Thay cho văn hóa chỉ thấy nhấn mạnh tư tưởng (là phương diện mà người
Việt vốn yếu nhất và hầu như là đi vay mượn từ nước ngoài )
Văn hóa là tất cả cái phần làm nên giá trị của một dân tộc. Nghĩa của văn hóa
rất rộng. Văn hóa là cái cách sống cách quan hệ với thiên nhiên, cách làm ăn sinh
sống ( văn hóa nông nghiệp, văn hóa cư trú …); là các hoạt động tinh thần ( văn hóa
tôn giáo, văn hóa dạy dỗ giáo dục con người ). Văn hóa bao trùm lên cả kinh tế chính
trị pháp luật … Nhưng một cách hiểu như thế hiện không thông dụng.
Trong thực tế, cách hiểu về văn hóa ở ta hiện triển khai theo hai hướng :
 Một là đẩy nó lên thành một cái gì trừu tượng, và mọi người bằng lòng
với những ý niệm chung chung.
 Hai là thu hẹp văn hóa trong các hoạt động tâm linh, chủ yếu là phần
sáng tác thơ văn và một ít thành tựu nghệ thuật như sân khấu âm nhạc, các
phong tục, các lễ hội. Thực tế là nhiều khi văn hóa bị hạ xuống một thứ “
cờ đèn kèn trống”, nặng về vai trò tô điểm cho một đời sống nặng nề và
không thấy triển vọng thay đổi.
Có thể nói do chúng ta không hiểu văn hóa, mà việc nghiên cứu văn hóa đân
tộc bị hạn chế và nhiều mặt để ngỏ .

 Trong khi được hình dung một cách trừu tượng chung chung , đồng thời văn
hóa được quan niệm như một cái gì nhất thành bất biến. Lịch sử phát triển của nó
không được chú trọng, không cần tìm hiểu. Quá trình văn hóa Việt Nam trở thành một
cái gì đơn điệu, trở đi trở lại, tẻ nhạt.
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 12 -
Lịch sử dân tộc rút lại chỉ là lịch sử chính trị, quân sự - lịch sử cứu nước giành
lại đất nước – mà không phải lịch sử dựng nước , tức là lịch sử hình thành cá nhân và

tổ chức xã hội, lịch sử văn hóa.
Văn hóa dân tộc rút lại với nhiều người chỉ còn là cái gì mơ hồ, việc nghiên cứu
quy về những lời ca tụng chung chung, sáo rỗng, không thuyết phục được ai. Đây
cũng là một biểu hiện khác của việc không hiểu thế nào là văn hóa, không thấy sự chi
phối của nó với đời sống .

 Một căn bệnh nặng nề khác của hoạt động nghiên cứu văn hóa vài chục năm
gần đây, khiến nó dừng lại ở trình độ thô sơ, đó là tính vụ lợi.
Tính vụ lợi có nghĩa là chỉ xem cái gì có lợi trước mắt thì làm, dù là về lâu dài
nó có hại cũng mặc kệ. Con người ta chỉ biết tới một tầm nhìn hạn hẹp. Chưa nghiên
cứu đã khai thác. Việc vận dụng “lấy xưa phục vụ hôm nay’’ được làm quá thô thiển.
Đã có lúc chúng ta đã đặt chân tới cách hiểu đúng nhưng rồi lại từ bỏ. Chúng ta
thường xuyên lấy điều mà ta mong muốn thay cho sự thực.
Đây là một đoạn quan trọng trong bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt
Nam mà đông chí Trường Chinh trình bày tại Đại hội văn hóa toàn quốc 1948 : “Ông
cha ta, hàng chục thế kỷ, học tàu viết Tàu, nghĩ theo cách Tàu ; pháp luật mô phỏng
Tàu;học triết học Tàu theo lễ giáo Tàu, về tín ngưỡng theo cả Tàu và Ấn ; khoa học
độc lập không tiến; nghệ thuật âm nhạc kém phát triển lối ăn mặc ở hủ lậu bảo thủ
thiếu khoa học.”
Nói theo cách nói hiện nay, Trường Chinh đã nhấn rất rõ và rất chính xác chất
vay mượn, phụ thuộc của văn hóa ta.
Nhưng những nhận định như thế, nay bị bỏ qua. Đoạn trích nói trên là dẫn theo
văn bản Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam năm 1948 . Trong các lần xuất bản về
sau, cái ý tưởng sáng suốt này bị làm nhẹ đi, lảng tránh, coi là ngẫu nhiên không quan
trọng. Trong các tài liệu chính thức, kể cả trong các nhà trường, chỉ thấy nhấn mạnh
điều ngược lại rằng “ nước ta có một nền văn hóa phát triển rực rỡ độc lập không kém
gì bất cứ nước nào “ và công thức này được nói đi nói lại, không cho phép ai dám sai
trệch; nó ràng buộc mà không mở đường cho sự suy nghĩ tiếp.
Hoạt động nghiên cứu văn hóa lê lết trong một tình trạng trì trệ .


 Trong quá trình phát triển, quan hệ của Việt Nam với thế giới nói chung cụ thể
là quan hệ với khu vực có nhiều khía cạnh không bình thường. Khi nói về mình,
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 13 -
chúng ta không đặt mình vào sự phát triển của thế giới. Sự hiểu biết của chúng ta về
các dân tộc khác quá đơn sơ và bị thành kiến nhiều đời chi phối .

Mối quan hệ với văn hóa nước ngoài vốn có một vai trò quan trọng sống còn
với mọi quốc gia, nhưng ở ta do tình trạng chống ngoại xâm liên miên, nên vấn đề
tiếp nhận bị gán cho nhiều tội lỗi. Trong chiến tranh tình trạng này có cái lý của nó.
Nhưng nó cứ thế kéo dài mãi. Cho đến trước hội nhập, xu thế chi phối trên phạm vi vĩ
mô là một xu thế tự cô lập và đến nay trong thực tế lúc nào cũng bảo nhau hòa nhập
mà không hòa tan. Thực tế là vấn đề hội nhập văn hóa không được xử lý thích đáng.
Trong thực tế, xảy ra tình trạng lưỡng phân.
 Một mặt, ta cứ học đòi bắt chước, tiếp nhận không thiếu thứ gì.
 Mặt khác, nhìn chung lại thì vẫn là làm ăn luộm thuộm không đâu vào
đâu, cái hay không tiếp nhận mà nhiều khi lại mang về cái dở.
Điều này là một trong những nguyên nhân chính dẫn tới tới kết quả tai hại là
hạn chế luôn việc hình thành nên một cái nhìn chính xác về dân tộc.
Việc thiếu một phương pháp luận đúng đắn, ở đây là thiếu điểm nhìn đúng,
khiến cho nghiên cứu văn hóa không đạt tới trình độ khoa học cần thiết.

 Khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, đã có cuộc thảo luận về Quốc học,
nhưng rồi cũng chẳng đi đến đâu. Lý do là vì tự ta cũng thấy văn hóa của chúng ta
yếu nhất là phần học thuật .
Từ hồi đặt vấn đề hội nhập, nhân tố văn hóa có được nói tới nhiều. Song nó chỉ
được quan niệm như một cái gì khiến chúng ta khác người. Vì mục đích thiển cận nào

đó ( chẳng hạn để kêu gọi du lịch ), tính độc đáo bị tô vẽ quá đáng.
Khi nghiên cứu văn hóa mang nặng tính cách vụ lợi, nó đã phát triển theo
những phương hướng cổ lỗ và sai lệch như vậy.
Nhiều người nước ngoài cũng biết điều đó. Tại Hội thảo quốc tế về Việt nam
học lần II (2004), Oscar Salemink, bộ môn Nhân học Xã hội, ĐH Tự do Amsterdam
(Hà Lan) cũng phải kêu lên đại ý : Nhiều người Việt Nam luôn luôn nói văn hoá Việt
Nam khác với văn hoá các nước khác. Nhưng nếu nghiên cứu kỹ, so sánh với văn hoá
các nước khác thì có rất nhiều biểu hiện giống nhau. Trước những nhận xét như thế
thông thường là ta lảng tránh. Sự hạn chế trong tiếp cận và so sánh, đã không giúp ta
hiểu ta tốt hơn.
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 14 -
Những khó khăn đã đến với người nghiên cứu văn hóa Việt Nam ở trong nước
hiện nay
Với sự thiển cận kéo quá dài, các khó khăn càng chồng chất.
Một đặc điểm cũa xã hội VN là cái gì cũng có, nhưng cái gì cũng không đạt
chuẩn mực. Chúng ta không có thành thị tuy quá trình đô thị hóa đang diễn ra ồ ạt,
bừa bãi. Chúng ta không có các trường đại học theo đúng chuẩn mực quốc tế và
không biết bao giờ có nổi, trong khi đại học đang được mở ra đại trà.
Hoạt động nghiên cứu văn hóa cũng vậy.
Trong khi văn hóa Việt Nam rất được đề cao, thì các thiết chế nghiên cứu lại
chưa hình thành .
Về mặt phương pháp, văn hóa dân tộc chưa được nghiên cứu như một thực thể
thống nhất mà bị chia nhỏ cắt khúc ra thành nhiều mảng rời rạc .
Chính những người phương Tây lại đi đầu trong việc nghiên cứu Việt Nam.
Thuật ngữ Việt Nam học được du nhập từ nước ngoài vào. Cho tới những năm
tám mươi của thế kỷ XX, thuật ngữ này vẫn không được công nhận.

Gần đây tình hình thay đổi, giới khoa học xã hội trong nước muốn làm nhưng
lại không có người biết nghiên cứu. “Các nhà Việt Nam học “ nội địa thường chỉ được
hiểu là các nhà nghiên cứu từng ngành riêng rẽ được gộp lại theo phép cộng đơn giản.
Đã có các cuộc Hội thảo quốc tế về VN học (1998 và 2004 11-2008) , nhưng từ đây,
lại thấy nổi bật lên một hiện trạng đáng xấu hổ:
 Trong hoạt động nghiên cứu cụ thể, các nhà khoa học nước ngoài làm tốt
hơn người trong nước. Sự hơn này là ở mọi mặt. Họ cần cù. Họ có công cụ tốt.
Nhiều người Nhật người Mỹ nghiên cứu Việt Nam đọc được cả các văn bản
bằng chữ Hán cổ (là điều càng ngày càng ít nhà nghiên cứu VN làm nổi) .Họ
làm công tác nghiên cứu với tinh thần khoa học thực sự chứ không biến đây
thành công tác tư tưởng. Họ không bị ràng buộc bởi những cấm kỵ. Trong lúc
chúng ta quen nói về tình trạng thống nhất thì họ nói về những vùng văn hóa
khác nhau tồn tại lặng lẽ trong lịch sử . Trong lúc chúng ta chỉ thích nhấn mạnh
sự độc lập với Trung Hoa cổ thì họ vạch rõ chúng ta đã học đòi và dễ dãi như
thế nào trong việc học đòi theo văn hóa của họ. Với một thứ chữ nôm mà chúng
ta tự hào, có nhà khoa học Nhật đã gọi là một thứ bánh vẽ, việc sử dụng có
nhiều bất tiện. Điều đáng tiếc là những công trình nghiên cứu này không được
giới thiệu đầy đủ vào Việt Nam. Trong những trường hợp may mắn đươc giới
thiệu thì theo lối cắt xén và tìm mọi cách hạn chế tầm tác dụng. Thường chúng
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________


- 15 -
bị giam lại trong những cuốn sách in với số lượng hạn chế mà không có được
khả năng thâm nhập mạnh mẽ vào xã hội để thúc đẩy một sự đồng cảm và đi
tiếp .
c. Một việc có thể làm ngay
Đời sống tinh thần của xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp mà người ta
chỉ có thể hiểu được và gỡ rối được nếu trở lại với cả quá khứ của dân tộc. “ Đọc sử

để biết những ngu xuẩn của quá khứ, nhờ thế người ta có thể chịu đựng tốt hơn những
ngu xuẩn của hiện tại” (B. Russel)
Tự nhận thức chưa trở thành một nhu cầu của xã hội.
Người biết nghiên cứu và có khả năng nghiên cứu không có. Trình độ của
ngành khoa học xã hội trong nước quá thấp và không dễ gì thay đổi.Thậm chí không
ai dám tin là sắp tới có một cơ chế nghiên cứu thích hợp tương xứng phần nào với đòi
hỏi của tình hình.
Có lẽ phải “quốc tế hóa” công việc tức là dựa chủ yếu vào thành tựu của giới
nghiên cứu nước ngoài. Song lại cũng biết ngay là điều này đi ngược với thói quen
suy nghĩ của người đương thời và chắc chắn là chưa thể làm được trong thời gian tới.
Trước mắt, là cần lập ra những trung tâm thông tin tư liệu về Việt Nam học (tối
thiểu là một, càng có nhiều càng tốt). Các trung tâm này có nhiệm vụ thu thập tất cả
những gì người trong nước và nước ngoài đã viết về con người và xã hội Việt Nam,
văn hóa Việt Nam. Có một phần là nguồn từ sách báo người Việt viết ở Sài Gòn trước
1975 và các trí thức đang sống ở hải ngoại. Phần khác bao gồm từ thư tịch cổ của
người Trung Hoa, sổ tay nhật ký của các nhà buôn các giáo sĩ phương Tây đến Việt
Nam các thế kỷ trước, sách báo viết về Đông dương của người Pháp cho tới các công
trình nghiên cứu đang hàng ngày hàng giờ xuất hiện trong các trường đại học ở Mỹ và
Nhật, Úc và Hà Lan. Thu thập các tài liệu đã có cập nhật hóa nó bằng cách đưa lên
mạng … việc này đòi hỏi nhiều công phu, nhưng vẫn là dễ làm nhất và nên được xem
là sự mở đầu cho một quá trình tự nhận thức mà nếu không tiến tới một cao trào thì xã
hội Việt Nam không bao giờ tạo ra được một bước ngoặt trong sự phát triển.

2.Đánh giá về thực trạng Văn hóa Việt Nam hiện nay:
Qua những thực trạng nêu trên, chúng ta có thế thấy được nền văn hóa Việt Nam
đang đặt trước sự “nguy hiểm” nghiêm trọng như thế nào. Cả về nhận thức và con
người Việt Nam, đang thể hiện một sự bảo thử và không biết tiếp thu, chúng ta chỉ
biết nhìn vào những mặt tốt mà thổi phổng chứ không dám đối diện với sự thật. Mà
Tư Tưởng Hồ Chí Minh Nhóm IV - Lớp Đ4-H1
______________________________________________________________________________



- 16 -
lỗi lớn nhất của sự việc này là ở hàng ngũ lãnh đạo, những người có quyền quyết định
vấn đề nào được phép phát triển rộng rãi còn vấn đề nào “cần” coi nhẹ, bỏ qua.
Theo chúng em, khó khăn lớn nhất của việc nghiên cứu về Văn hóa Việt Nam
hôm nay là chúng ta xuất phát từ một quan niệm thiển cận về văn hóa như trên vừa
trình bày. Những lý luận mới mẻ và đầy sức thuyết phục về văn hóa, từ lâu đã hình
thành ở các nước phương Tây, nay được giới thiệu kỹ càng rộng rãi ở Nga và Trung
Hoa lục địa, thì ở xứ ta vẫn còn xa lạ.
Việt Nam từ lâu nay vẫn sống trong một chuẩn mực Văn hóa được tạo dựng nên
từ chính những sự giả dối (có thể nói như vậy) mà do chính chúng ta tạo nên.
Giới trẻ ngày nay, những lớp người được coi là tương lai của đấy nước đang mất
dần đi cái chất tinh hoa Văn hóa dân tộc trong con người. Sự du nhập Văn hóa nước
ngoài ngày càng trở nên phổ biến. Những phong cách ăn mặc, kiểu tóc, lời ăn tiếng
nói giờ đây, nếu không pha một chút cách thức của giới trẻ một số nước như Hàn
Quốc, Nhật Bản…, thì sẽ bị coi là lỗi thời. Hình ảnh các bạn trẻ hát theo các bản nhạc
Hàn Quốc như hát tiếng Việt nhưng không hiểu nghĩa của lời bài hát, hay những câu
nói thường ngày có “bồi” thêm một vài từ tiếng Anh, đã không còn là thứ quá lạ lẫm.
Văn hóa Việt Nam đang bị ảnh hưởng quá nhiều.
Nhưng nói đi cũng phải nói lại, bộ phận những người yêu Văn hóa, tìm hiểu và
khám phá Văn hóa Việt Nam vẫn còn tồn tại trong lòng xã hội. Điển hình qua Đại Lễ
Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long trọng đại của cả dân tộc, hàng loạt những cuộc thi
tìm hiểu về Thăng Long – Hà Nội đã được phát động, qua đó thế hệ tương lai có thể
hiểu thêm về lịch sử, văn hóa hào hùng của dân tộc. Cũng qua Đại Lễ này, tuy còn
mang tính chất khoa trương khi nhà nước đầu tư hàng trăm tỷ đồng, thì chúng ta còn
thấy được tinh thần yêu nước, lòng tự hào đân tộc của người dân Việt Nam mạnh mẽ
đến thế nào. Đó là truyền thống đáng quý.
Tóm lại, tuy lòng yêu nước và những giá trị văn hóa vẫn còn tồn tại trong lòng
mỗi người dân Việt Nam, nhưng những giá trị văn hóa ấy đang đặt trước nguy cơ bị

mai một, bị bóp méo. Vậy những nhà chức trách, hãy nhìn thằng vào sự thật, hãy bảo
tồn và phát triển nó chứ không phải làm sai lệch để chạy theo sự hào nhoáng trước
mắt, bỏ đi những thứ thiêng thiêng của dân tộc. Hãy nghiên cứu một cách nghiêm túc,
đồng thời nâng cao nhận thức của nhân dân.

(Những đánh giá trên đây là quan điểm của mỗi cá nhân trong nhóm thực
hiện đề tài nên lời lẽ diễn đạt còn vụng về, thiếu sót, mong cô giáo bỏ qua)

×