Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Ứng dụng sóng âm trong nghiên cứu khảo cổ học doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.14 KB, 9 trang )

Ứng dụng sóng âm trong
nghiên cứu khảo cổ học
Trong nghiên cứu Khảo cổ học, các ngành khoa học khác cũng đã có
những ý nghĩa nhất định trong việc hình thành những lý thuyết và thực tế
ứng dụng của nó.
Sóng âm cũng là một lĩnhvực mà các nhà Khảo cổ họccần quan tâm.Không
những chỉ vì ích lợi củanó trong việc tìm kiếm cácdi tích(đã đượcsử dụng từ rất
sớm),mà nó còn giúpchúng ta có thể hình dung ranhững hiện vậtmà không thể
nghiêncứu mộtcách trực tiếp (ví dụ điển hình như khảo cổ họcdưới nước). Sóng
âm là hínhthứcphổ biến trong đời sống hàng ngày của con người vàTrái Đất.
Chúng tatraođổi với nhaubằng nhữngâm thanh. Chúng ta nghe đài, nghenhạc
chínhlà nghecác âm thanh.Thật khó màtưởng tượng nếu cuộcsống không có bất
kỳ một âm thanhnào. Chính âm thanh là nhân tố thúc đẩy xãhội loài ngườiphát
triển.
Chínhvì nguyên nhân đó, con người đặc biệt chú trọng việcsử dụngâm thanh
trong các lĩnh vực khác nhau.Từ xã hội chođến áp dụng vào khoahọc kỹ thuật.
Ngày nay,conngười hiểu rõ được sóngâm thanh làcác doađộng cơ học haysóng
đàn hồi lantruyền trongmôi trườngđànhồi (sóng âm thanhcòn được gọi làsóng
đàn hồi cũngvì lý do này).Tất cả môi trườngvậtchất đàn hồi đều lantruyền được
sóng âm thanh. Từ bầu khí quyển dàyđặc bao bọcxung quanhTrái Đất, đếnđại
dươngtrải trên ¾ diệntích bề mặt Trái Đất đều là môi trường truyền âm lýtưởng;
các vật rắn như thép, đá, bêtông,các đơn vị tinh thể…, nước, các dungmôi hữu cơ,
khôngkhí, các khítrơ…cũng đềutruyền được sóng âm thanh. Môi trườngcách âm
còn lại chính là môi trường chân không. Giống như sóng điện từ, sóngâmchiếm
một giảitần số rất rộng.Tùy theo tầnsố mà người ta phân chiasóngâm thành các
vùng sau đây:
• Vùng hạ âm: tần số dao động từ 1 Hz đến 16Hz.
• Vùng âm: tần số daođộng từ 16 Hz đến 16kHz.Đây là vùng nhạycủa đôi taicon
người.
• Vùng siêu âm: tần số dao động từ 16 kHz đến 10 MHz.
• Vùng cực siêu âm: tầnsố daođộng từ 10 MHz trở lên tới tận tần số tươngđương


với tần số daođộng nhiệtcủa mạngtinh thể (khoảng 1013 Hz).
Tai người không thu nhận đượcsóng vùng hạ âm, vùng siêu âmvà cực siêu âm.
Như vậy, con người chỉ có thể nhận biết được mộtgiải tầnsố khá hẹp của sóngđàn
hồi mà thôi. Và mặc dù cócùng bản chất,nhưng do tần số khác nhau mà tính chất
thể hiện của mỗi giải rấtkhác nhau, thâm chí rất khác nhau.Đơn cử như hiệu ứng
sinh lỗ hổng, chảy âm chỉ có ở vùng siêu âm trở lên.
Sóng siêu âm có tần số dao độnglớn hơnsóng tần số âm, nên bước sóngcủa sóng
siêu âmrất nhỏ sovới bước sóngâm của một môi trườngtruyền sóng,sónghạ âm
thì lại có sức đâm xuyênrất lớn. Chính nhờ những tính chất khác biệt mà người ta
ứng dụngsóngâm trong nhữngtrường hợp rất khác nhau.
Khảo cổ họcngay từ khi trở thànhmột khoahọc độclập đã sử dụng sóng âm trong
việc tìm kiếmcác di tích khảocổ “rỗng” ở bên trong. Nói như vậy khônghẳnchỉ có
những căn hầm, mộ…Việc nghiên cứuđược bắtđầu khi các nhà khảocổ sử dụng
phươngphápđơn giản truyền năng lượngxuốngmặt đấtvà tạova chạm mạnh với
mặtđất. Thườngthườngngười tadùng một chiếc vồ gỗ nặnghay một hộp đựng
đầy chìcó cán cầm dàiđập mạnh xuống đất. Việcghi nhận tần số tiếng động giúp
xác định các đặctính ẩndưới lòng đất và một âmthanh “đục”, khôngrõràng
chứng tỏ nền đấtkhôngcó dấu hiệu bị can thiệp.Trong khi đó,mộthào mương
hay hầm bị lấp lại chota một âmthanhtrong và vanghơn. Kỹ thuật thô sơ này hiện
nay đã hoàn toàn bị lãng quên do sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật. Thực vậy,
phươngphápnày chỉ tỏ rahiệuquả khi nhà nghiêncứu biếtkhá đích xác khu vực
mình tìmkiếm, và nó cũngchỉ có thể giúp ta nhận biết các di tích “rỗng” trong lòng
đất chứ không thể xác địnhtrong đó có chứa nhữnggì?!.
Một phương pháp tiên tiến hơndo quân đội Mỹ phát triểngần đâyđược ứngdụng
trong các dự án khảo cổ học doYasushi Nishimuratiến hànhtại Nhật Bản.“Kỹ
thuật tạo sóng đứng” gồm mộtthiết bị tạo và khuyếch đại các sóng“Rayleigh” bằng
cách đập nhẹ và liên tục xuống mặt đất.Một “thiết bị” đập nặng 20kgcóthể đạt
đến độ sâu 10 mét, nhữngmáy lớnhơn cóthể đạt đến độ sâu 70-100m.Do tính
chất đặc biệtcủa từng loại sóngkhiến cho mỗi loại có những khả năng truyền xa
khác nhau, haylà sự tắt dần nóichung, ở tính chất hấpthụ sóng âm thanhtrong

môitrường nói riêng. Sóngâm thanhcó tần số càng nhỏ, càng bị hấp thụ ít, càng
truyền đượcxa trong môi trường.Chẳnghạn sóngsiêu âmcó tần số 30 kHz với
công suất thích hợp,có thể truyền đượctrong lớp đất chừng vài chục mét, song ở
tần số vùng âm, đặc biệtvùng hạ âm, với công suất máy phát khálớn, chúngcó thể
truyền xahàngtrăm, hàng ngànkm, thậm chí cóthể truyền đượcsang tới bên kia
của vỏ Trái Đất và phảnxạ trở lại. Đó là tính chấtrất ưu việt của sóngvùng hạ âm
mà cácsóng đàn hồi ở các vùngkhác khôngcó được.
Với cùng một côngsuấtmáy phát, và tần số sóng siêu âm,trong các lớp đấtđá,
nhamthạch, sóng truyền được từ vài métđến vài chục mét, nhưngtrong môi
trường nước biển nó cóthể truyền xa tới hàng chụcngàn km. Như vậy, sự hấp thụ
sóng âm thanh không còn phụ thuộc vào bản chấtcủa môi trường nữa. Ở các môi
trường truyềnâm khác nhauthì vận tốc âm khácnhau và hệ số hấp thụ âm cũng
khác nhau. Vận tốc truyền âmvà hệ số hấpthụ âm thanhliên quan chặt chẽ với cấu
trúcnội tại củamôi trường.Sự thay đổicấu trúcnội tại sẽ dẫn đến sự thay đổi vận
tốc truyền âm và hệ số hấp thụ âm trong môi trường.Hai đại lượngnày lànhững
đặc trưng của môi trường về phương diện âm học.Chúng cho phép hiểu biết được
cấu trúcbên trong của bản thânmôi trường.Ngoài ra, biếtvận tốctruyền âm vàhệ
số hấpthụ âmthanh có thể xácđịnh được các thông số quan trọng khác của môi
trường. Nghiên cứu, xácđịnh các thông số này chính là một trongnhững nhiệm vụ
rất cơ bản củaâm học.
Tốc độ sóng lan truyền quanhững vật liệu khác nhau làkhác nhau.Vận tốc truyền
sóng âm thanh trong không khí là 334 m/s, nghĩa là tương đương 1200km/h.
Trongchất lỏng,vận tốc truyềnâm có lớn hơn, xấpxỉ 1500km/htrong nước biển.
Trongchất rắn như thép, vận tốc sóng truyền âm thanhlà5500 m/s.Để dễ hình
dung,ta tưởng tượng cómột cái chuôngkhổnglồ đặt ở Hà Nội saocho gõ lênở Hải
Phòng cũngngheđược.Sau khi gõ chuôngchừng 5phút, ở Hải Phòngmới nghe
được, thay môi trườngkhông khí bằng nước biển thì sau 66giây ở đó mới phát
hiện được, nếu thaybằngmôi trườngthép thì chỉ 18 giây sauđã nghe đượctiếng
chuông. Qua đó ta thấy được vận tốc truyền sóng âm thanhtrong các môi trường
khác nhau là rất khác nhau.Môi trườngcàng rắn, hay nói theo chuyên mônlà môi

trường có hằngsố đàn hồi càng lớn,vận tốc truyền sóng âmthanhcàng lớn. Chẳng
hạn đối với loại đá như đá pirit,vận tốctruyền sóngâm đạt tới 7200 m/s, lớn hơn
vận tốctruyền trong thép. Đối với tinh thể như tinhthể Berili(Be), vận tốc sóng
âm thanh còn cao hơn nữa,đạt tới 12000 m/s. Vận tốc sónglan truyền tính toán
được nhờ hai điểm bất kỳ có khoảng cách phù hợp được chọn trênmặt đất.Do tốc
độ sóng lantruyền qua những vật liệu cứng nhanh hơn sovới đấtsét haychất liệu
mềm nên cácđặc tính khảo cổ học như những bề mặt di tích có thể khảo cứu được.
Kết quả khảo cứu tại các khu vực được đưavàobản đồ đường mứcthể hiện những
đặc tínhdướimặt đất.
Nhiều loại tạo hiệu ứng tiếng vangkhác như máy Sonar định vị âm thanh cũng
được sử dụng tạinhiều nơikhác như KentWeekscùng nhóm nghiên cứu thuộc Đại
Học Califoniađã vẽ lại bản đồ một cách có hệ thống các nấmmộ trong thung lũng
Các Vuatại Thebes, Ai Cập. Năm1987, họ cũng đã tái xác định đượcvị trí một hầm
mộ (vị trí trướcđây đã mất hết dấu vết) cách hầmmộ PharaohRamessesII 15m
vốn trước đâycho là của50 người con của Ramesses,bố trí theo hình chữ T.Trên
đây là một số ứng dụng củasóngâm trongnghiêncứu khảo cổ học dưới đất. Tại
đây, sónghạ âm có một vị trí đặc biệt để xác định và vẽ lại bản đồ các di tíchdưới
đất, việcnày đòi hỏi cácnhà nghiên cứuphải có những kiến thức sâurộng để định
hình các loại hình di vậtdưới lòng đất. Sóng âm mở rahướng nghiên cứu mới cho
các nhà Khảo cổ khôngphải xác địnhcácdi tích một cách mơ hồ, mặtkhácnó còn
giúpchúng ta bớt đượcthời gian, tiền bạc, và nhất là giảmbớt sự tác động của
chúng ta vào các di tích– điều này có ý nghĩa tolớn vì khi đã khai quật, các di tích
khôngthể giữ lại được nguyên thể ban đầu của nó – tức các nhà Khảo cổ cũng
chínhlà những người pháhoạidi tích nghiêm trọng hơn hết.
Đối với Khảo cổ học dưới nước,đây là một lĩnhvực khá mớimẻ đối với các
nhà nghiên cứu. Ban đầungười ta chỉ xác nhận cho việc trụcvớtcác tàu đắm, để
tìm kiếm cổ vật bị thất lạc trên biển. Tuynhiên về sau này, công việc đòi hỏi các
nhà nghiên cứu khôngnhững chỉ nghiêncứu giao thông trênbiển cổ mà còn phải
xác định nhữngdi tích vì nhữnglý do khách quanđã bị chìm xuốngđáy đại dương,
các đườngbờ biển cổ và quá trìnhkiến tạo địa lý – qua đó con người định cư trên

những khuvực “thấp”.Việc nghiên cứu dưới nước đòi hỏi rất nhiều công sức cũng
như tài lực. Đi kèm đó là cả một hệ thống bảo quản hiệnvật ngay saukhikhai quật.
Do nhữngđiềukiện củamôi trườngnước biển, không chophép cácnhà nghiên
cứu tiến hành một cách hời hợt. Trái lại, Khảo cổ họcdưới nước là một công việc
cực kỳ khó khăn.Ta biết rằngmôi trường nước là môi trường bảo quản hiện vật
tốt nhất, cũng như chínhlà môi trường hủyhoại hiện vật nhanh nhất, khôngchỉ
nước biển mà cả nướcngọt cũng như thế (điều này chúng ta sẽ bàn kỹ hơn trong
giaiđoạn sau).Chính vìnhững lý dođó,việc nghiêncứu dướinước mangtầm quan
trọng không chỉ đối với khảo cổ học nói riêngmàcòn đối với các ngành khoa học
hàng hảikhác nói chung. Trong các lĩnhvực nghiên cứu,biển và đại dương mang
tính toàn cầu và cũng là mục tiêu củamọi quốcgia trênthế giới. Không chỉ vì
những lợi ích mà biển mang lạicho chúng ta, màđó là nơi thu hút tính hiếu kỳ rất
lớn của conngười. Nhữnggì chúng ta biết về nó quá ít, không thể cho chúngta có
những hiểu biết tườngtận về khu vực chiếm diện tích ¾ Trái Đất.Nguyênnhân rất
đơn giản, mặc dù con người hằng mơ ước nhìn xuống đáyđại dương,thiên nhiên
vẫn không hề ưu đãi: Sóng ánhsáng không thể xuyên thâu xuống dưới đáy đại
dương,nó chỉ truyền được vàmét đến vài chục mét là cùng. Một điều kiệnnữa
khiếncon người phải đauđầu: Ápsuất thủy tĩnhquá lớnkhi càngxuống sâu, quá
mức giới hạnmà con người cóthể chịu đựng được, cho dù có trangbị một cách tối
tân. Mặt khác, con người chúng ta là động vật cóthân nhiệt ổn định, khôngthể thở
dướinước cách tự nhiêncũng như chịu được nhiệt độ không lườngtrong lòng đại
dương.Những hạn chế trên trong những thập kỷ gần đây đã đượckhắc phục phần
nào dựa vàonhững kỹ thuật tiêntiến nhất: Tàu ngầm, sóngradar,laser cùngkỹ
thuật khoan thăm dò hiện đại…Nhưng tất cả những gì mà con người có đượccũng
khôngthể xuyên suốtđại dương được,nó chỉ mở ra nhữnghướngnghiên cứumới
mẻ và một tầm nhìn khác củachúng ta về những bí ẩn trong lòng nó mà thôi. Sự ra
đời của kỹ thuật âm học cũng là một trong những thành tựu đó của conngười. Đặc
tính của sóng âm có thể truyền được trongnướcbiển hàng chục km,thậm chí hàng
chụcngàn km.Giúp chúngta từng bướcxác định nhiệm vụ của mìnhtrongcông
cuộc chinhphục thiênnhiên. Việnsĩ Viện Hàn Lâm Khoa HọcLiên Xô (cũ)

Brekhovxkic đã nói như sau: “Nếu sóng vô tuyến điện chế ngự bầu trời,thì sóng
âm thanh là thống soái dưới biển”. Sóng vùng siêu âm có nhữngtính chất đặc biệt
và thực sự hiệu quả trong môi trường nước biển.Sau đây là một số tính chất có
liên quanđến những ứng dụngcủa chúng saunày:
Kênhâm: Biểnlà môi trường phức tạp về cấu trúc cũngnhư địa hình. Cho nên, vận
tốc truyền âm trongnướcbiển không phải cố định mà thay đổi theo quy luật khá
phức tạp. Kếtquả đo đạcvận tốc truyềnâm trong biển lần đầu tiên được công bố
trên thế giới năm 1828 là1500m/s, thậtra đây chỉ là vậntốc trung bình. Trong
nước biển, vậntốc âmtùy thuộcvào các điều kiệnvật lý, trạng thái hóa họccũng
như điều kiệnđịa hình.
Điều kiện vậtlý của biểnrất phức tạp, các thamsố khác nhauảnhhưởng lên vận
tốc truyền âm với nhữngmứcđộ khác nhau,trước tiên lànhiệt độ nước biển.
Thôngthường, nhiệt độ càng tăng thì vậntốc truyền âm càng lớn; chẳnghạn ở
10oC, nếu tăngthêm 1oC thì vậntốc tăng thêm 3,58m/s, ở nhiệtđộ 20oC nếu tăng
thêm1oC thì vậntốc âm tăngthêm là2,7 m/s. Thamsố thứ hailà độ mặn của biển,
nếu thayđổi một lượng nồng độ muối 1 o/oothì vận tốc âm thayđổi cùng chiều
một vận tốc là 1,3 m/s. Ngoài ra,càng xuống sâu, áp suất thủy tĩnh càngtăng, vận
tốc âm cũng càng tăng song mứcđộ ảnh hưởng không lớn bằnghai nguyên nhân
đầu. Trạng thái hóa học(sự thay đổinồng độ các loại muối trong nước biển,sự
phân lycủa các ion…) cũngnhư các trạngthái địa hình cũngảnh hưởng lênvận tốc
truyền âm. Vận tốc âm ở các vùng biểnsâu, vùng của sông,gần bờ,vùng gần xích
đạo,gần các dònghải lưu…cũngkhônggiống nhau.Thời tiết các mùa,thậm chỉ cả
thời tiết trong ngày cũngảnh hưởng trựctiếp đếnvận tốc truyềnâm. Quy luật phụ
thuộccủa vận tốc âm vào chiều sâu củabiển có nhiều dạngkhác nhau:
• Trước hết làvận tốc âm tăngdần theochiều sâu. Quy luật này thườngxảy ra ở
các vùngbiểnsâu, vào thời kỳ xuân hè và không ổn định.Theo quy luật này, sóng
âm có trị số cực tiểu được truyềntrực tiếp từ mặt biển xuốngđáy mà không truyền
được vào khí quyển. Lớpnước mặt hìnhthànhmột ống dẫn sóng âm tự nhiên,
trong đó,sóng âm được truyền đi rất xa gọi là kênh âm.
• Trường hợp thứ hai là vận tốcâm giảmtheo chiều sâu, trong trườnghợp này vận

tốc âm ở lớp mặt có giá trị cực đại. Nếu đặt nguồn âm tại lớp mặt biển, sóngâm lan
truyền xuống đáy và đi vào cáclớp có vận tốc âmnhỏ hơn,nên cáctia âm có xu
hướngcong về phía đáy biển. Trongbiển hình thành nhữngvùng âm không truyền
tới đượcgọi là vùng chết âm.
• Trường hợp thứ ba làvận tốc âm giảm ở lớp mặt, sau đó tăng dần ở các lớp sâu.
Vận tốc âm cựctiểu ứng với độ sâu nào đó.Ta thường gặp sự phânbố này ở các
vùng biển sâu. Đồng thời chúngrất ổn định trong các đại dương. trên trục đi qua vị
trí cựctiểu (đi lên) và cựcđại (đixuống)của âm,nếu đặt một nguồn phátthì âm sẽ
truyền theo hai hướng đi lên vàđi xuống nhưng dohiện tượngphản xạ toàn phần
vì các tia âm đi vào các lớp nướccó vậntốc lớn hơn. Do vậy, dù đi lên phíatrên hay
phía dưới trục cóvận tốcâm cựctiểu, tiaâm đềubị phản xạ toàn phần, nên chúng
chỉ tập trung hầunhư ở lớp nướcxung quanhtrục đó. Sóng âm lantruyền trong
trụcđó đi rất xatới hàng chục ngàn kmgọi là kênh âm ngầm. Các trục kênh âm này
thường phân bố khá sâu từ sáu bảy chục mét trở lên đến vài ngànmét, song chúng
rất ổnđịnh.
Trongcả ba trường hợp trên, côngthức tínhtoánđã cho ra nhữngkết quả chắc
chắn (mà xinkhông đề cập đến trong đây), ứng dụng trên nhiều lĩnhvực khác
nhau:trong quân sự, người ta sử dụng sóng âm trong việc dò tìm các mục tiêu
dướinước, chế tạo thủylôi, mìnâm thanh…Trong ngư nghiệp, ngườita sử dụng dò
tìm các bãi cá, tôm vì khisống thành đànlớn, các âm thanhcủa các loạitôm cá phát
ra khá lớn.Chính vì thế, từ lâu nhữngngườidânchài ở vùng Hoàng Hải và nhiều
nơi khác đã dựa vào kinhnghiệmđể nghe cá từ xa.Lặn sâu chừng nửa métvà lắng
nghe,những người có kinhnghiệm có thể phán đoán được vị trí, hướng đi của đàn
cá, phân biệtđược cácloạicá, xácđịnhđược mật độ vàcònbiếtđược cá to hay nhỏ.
Trongnghiêncứu và thám hiểm đáy biển, người ta bố trí các trạm thủy âmdựa
trên nguyên lýcủa cáckênh âm ngầm. Quađó người ta sẽ vẽ lại bản đồ dưới đáy
biển bằngcách thu phát nguồn sóngsiêu âm được phản xạ lại. Tínhtoáncác hằng
số cụ thể, sẽ đem lại những kếtquả chínhxác với saisố là 0,01%, biết được cấu
trúccũng như thành phần đáy biển, người ta sẽ cho khai thác vùng biển đó một
cách tối đa. Hằngnăm, đạidương cung cấp choloài người hàngtrăm triệutấn hải

sản, vàtrong tương lai, nhucầu đòi hỏi phải cócon số tăng hơngấp đôi. Về muối,
hàng năm thế giới khaithác 22 triệu tấn muối, trongbiển lại chứa hơn 3,8 triệu tỷ
tấn muốitrong 1,4tỷ km khốinước. Ngoài ra đại dương còn chứahơn 40 loại
nguyêntố quývà hiếmnhư vàng (10 tỷ tấn), urani(5 tỷ tấn),magie (1000
tấn/km3),dầumỏ chiếm gần 1/3trữ lượng so với mặt đất (chỉ riêng phần thềm
lục địa).Thôngqua một số số liệu cụ thể trên, ta thấy tiềmnăng phát triểncác
ngành kinhtế dựa vàobiển quả thật rất tolớn.
Đối với các nhà địa chất,cùng với các nhà địa vật lý nói riêng, việcứng dụng sóng
âm trong quá trínhnghiên cứulà khôngthể thiếu. Thăm dò địa chấn và carotazo
siêu âm(thămdò bằng lỗ khoandùngsiêu âm)là những phương pháp thăm dòđịa
vật lý phổ biến và có vị tríquantrọng đặc biệt ngày nay.Sóng âmthanh ngàycàng
được áp dụngnhiều trongcác lĩnhvực địa chất côngtrình, trinhsát mặt bằng và vẽ
bình đồ bề mặt đáy biển,đến nghiên cứu cấu trúcphân lớp phứctạp của lớpvỏ
Trái Đấtnằm sâu dướiđáy đại dương,cũng như thăm dòcác tài nguyênphong phú
tàng trữ trong lòng đáyđại dương ở đây. Một số thành tựu của sóng âm trong lĩnh
vực nàyxin khôngđề cập đến trong phần này.Ngoài ra âmhọc còncó những ứng
dụngnhất địnhtrong y học cũngnhư trong nôngnghiệp, đều tạo những bước nhảy
lớn trongkhoa họckỹ thuật.
Đối với các nhà Khảo cổ học, căn cứ và những lý thuyết cơ bản của sóng âm, mở ra
một chântrờimới cho các nhà nghiên cứu dưới nước. Họ sẽ đỡ vất vả tìmkiếm
những ditích bị chìm sâu dưới lòngđại dương. Không nhữngthế,việc thamgia
trong các côngtrình địa hải dương như đã nói ở trên làm xuất lộ nhiều dạng di tích
khác nhau mà nhà Khảo cổ cần nghiên cứu. Khảo cổ học dưới nướccòn là môn
khoa họcrất mới và tốn kém. Chính vì thế, việc ápdụng sóngâm(đặc biệt là sóng
siêu âm)trong khitìm hiểu đại dương là không thể thiếu.Bằng những kỹ thuật
hiện đạivà những hiểu biết của chúng ta về âm thủy học. Chúng ta có thể xác định
vị trí cũng như vẽ lại đượcmặt bình đồ của các ditích, cấu trúc ditích cũngnhư
những điều kiện tự nhiênlàm chodi tích chìm dưới đáyđại dương. Mặc dù rất
phức tạp nhưng chỉ có nó mới giúp chúngta – trong những điều kiện màgiới hạn
con người không cho phép – triểnkhai những dự án đi kèmvới nó là sự hiểu biết

tường tận hơn nhữnggì đã xảy ra trongquá khứ đối với những ditích này.Trong
quá trìnhđó, đòihỏi nhàKhảo cổ có được sự hỗ trợ từ nhiềunguồnkhác nhau,
khôngchỉ riêngvề tài lựcmà còncó sự chuyên mônhóa nghiên cứu.
Tóm lại, sóngâm là mộtứng dụng mới trongnhững thậpkỷ gần đây, nómở ra
những chân trời khoa họcmới trongnhiều lĩnh vực nghiên cứu khác nhau.Cách
riêng đối với cácnhà Khảo cổ học dưới nước, việcứng dụngsóng âm cần phải
được chứng minh thựcsự có hiệu quả chắc chắn,không những thế, nó cònlà mối
dây liên kết các khoa học “biển”lại vớinhau. Vì thế, các nhà Khảo cổ học cần phải
tìm ranhững phương pháp thích hợp để có thể hiểu biết rõ hơn những gì về biển
và những gì xảy ra ở quá khứ.

×