Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.doc.DOC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.48 KB, 14 trang )

Lời nói đầu
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang trở thành một trong
những xu thế chủ yếu của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Những phát triển
mạnh mẽ về khoa học và công nghệ đã góp phần đẩy nhanh quá trình quốc tế
hoá nền kinh tế thế giới. Thơng mại thế giới đã tăng lên nhanh chóng. Với sự ra
đời của các thể chế toàn cầu và khu vực nh WTO (Tổ chức thơng mại thế giới),
EU (Cộng đồng châu Âu), APEC (Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình
Dơng), NAFTA (Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ) , thế giới ngày nay đang
sống trong quá trình toàn cầu hoá mạnh mẽ. Quá trình này thể hiện không chỉ
trong lĩnh vực thơng mại mà cả trong các lĩnh vực sản xuất, dịch vụ, tài chính,
đầu t cũng nh các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trờng với các hình thức đa dạng
và mức độ khác nhau. Toàn cầu hoá kinh tế tạo ra những quan hệ gắn bó, sự tuỳ
thuộc lẫn nhau và những tác động qua lại hết sức nhanh nhạy giữa các nền kinh
tế. Thông qua quá trình tự do hoá, toàn cầu hoá tạo ra những lợi thế mới thúc
đẩy lực lợng sản xuất phát triển, đẩy mạnh giao lu kinh tế giữa các nớc, góp
phần khai thác tối đa lợi thế so sánh của các nớc tham gia vào nền kinh tế toàn
cầu.
Quá trình toàn cầu hoá là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh giữa các
quốc gia, không chỉ giữa nớc giàu và nớc nghèo mà còn ngay cả giữa các nớc
giàu với nhau nhằm giành vị trí có lợi nhất cho mình trong phân công lao động
và quan hệ kinh tế quốc tế. Toàn cầu hoá với mặt trái của nó là cuộc cạnh tranh
gay gắt trên quy mô thế giới đã và đang làm nảy sinh những vấn đề xã hội nh
thất nghiệp gia tăng, phân hoá giàu nghèo ngày một sâu thêm, đồng thời toàn
cầu hoá cũng mở đờng cho sự du nhập những văn hoá và lối sống không phù
hợp truyền thống và bản sắc dân tộc của mỗi quốc gia
Quá trình toàn cầu hoá đang thúc đẩy mạnh mẽ sự hội nhập của các nớc
vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Hoà trong bối cảnh đó cùng với phơng
châm "đa dạng hoá, đa phơng hoá quan hệ" và "là bạn với tất cả các nớc
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển", Việt
Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 160 nớc và hầu hết các tổ chức
quốc tế và khu vực quan trọng. Với việc gia nhập ASEAN (7 - 1995), ký Hiệp


định khung về hợp tác kinh tế với EU (7 - 1995), tham gia APEC (11- 1998) và
đang chuẩn bị tích cực cho các cuộc đàm phán gia nhập Tổ chức thơng mại thế
giới (WTO). Việt Nam đã và đang từng bớc vững chắc hội nhập sâu rộng vào
nền kinh tế khu vực và thế giới.
1
Hơn lúc nào hết, quá trình toàn cầu hoá không chỉ là sự quan tâm của mỗi
quốc gia, mỗi tổ chức mà còn đối với mỗi cá nhân chúng ta, có rất nhiều các bài
viết của các nhà nghiên cứu và các chuyên gia đầu ngành trong và ngoài nớc đề
cập đến các khía cạnh khác nhau của quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
quốc tế. Đây là vấn đề rộng lớn, phức tạp và có nhiều biến động; có cả những
nhận thức và quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau.
Qua việc tham khảo tài liệu cùng với những kiến thức đã đợc lĩnh hội trong
nhà trờng, em đã lựa chọn đề tài "Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: xu thế,
thời cơ và thách thức".
Nội dung của bài viết đợc trình bày trong ba phần:
Phần 1: Nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
Phần 2: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: thời cơ và thách thức.
Phần 3: Việt Nam với toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế.
2
PHần 1: Nhận thức về toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế
1. Toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá. Nó đề cập tới một thế giới đang xích lại gần nhau hơn, tới
việc vợt qua những khoảng cách và sự khác biệt, tới việc mọi ngời cùng chia sẻ
hứa hẹn của tơng lai.
Toàn cầu hoá là gì, và tại sao điều đó gây ra nhiều tranh cãi? Thông thờng
đề tài này đợc đa ra liên quan đến thơng mại quốc tế, nhng nó đang vợt qua
ngoài vấn đề đó. Toàn cầu hoá thực ra có nghĩa là thay đổi cách thức mà mọi
việc làm trong nớc. Nhng thay đổi không phải lúc nào cũng là điều tốt. Giờ đây
đối với một số ngời, từ này hiện thân cho thị trờng tài chính tàn phá các nền
kinh tế, các đối thủ cạnh tranh nớc ngoài nghiền nát các doanh nghiệp trong n-

ớc, các quan chức hành chính xa vời đa ra các quyết định làm đảo lộn xã hội.
Có ngời cho rằng hiện nay đã nhất thể hoá kinh tế thế giới (toàn cầu) rồi.
Cách nói này thiếu chính xác. Chỉ khi toàn bộ các yếu tố sản xuất (nguồn vốn,
hàng hoá, nhân viên, dịch vụ lao động) đều đợc lu thông tự do trong quy tắc
thống nhất của toàn cầu, mới có thể gọi là "nhất thể hoá kinh tế toàn cầu".
Trong tình trạng các nớc vẫn tồn tại lợi ích khác nhau thì khi thực hiện "nhất
thể hoá kinh tế thế giới" nên chúng ta chỉ có thể sử dụng những khái niệm tơng
đối chuẩn xác nh "toàn cầu hoá kinh tế" hay "hợp tác kinh tế toàn cầu". Cần
nhận thấy rằng "Toàn cầu hoá" không có chữ "kinh tế" đi kèm thì hàm nghĩa
của nó rộng hơn nhiều bao gồm mọi vấn đề có liên quan tới hợp tác toàn cầu.
Vì thế lại nảy sinh quan niệm cho rằng "toàn cầu hoá" sẽ trở thành một loại
hình thái ý thức và văn hoá thống nhất toàn cầu. Chúng ta không phản đối, thậm
chí còn thúc đẩy trao đổi hợp tác giữa các quốc gia, mong muốn học tập và thu
hút mọi tinh hoa văn hoá có lợi của các nớc. Nhng chúng ta không thể nhập
khẩu hình thái ý thức của nớc khác, càng không đợc Tây hoá hoàn toàn. Vì vậy,
phải sử dụng thận trọng chữ "toàn cầu hoá", chúng ta cũng phải tính toán rằng
lĩnh vực nào có thể toàn cầu hoá, lĩnh vực nào phải hợp tác có lựa chọn thậm chí
không hợp tác.
Vậy toàn cầu hoá kinh tế là dới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và
cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính dựa dẫm vào nhau,
bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nớc ngày càng gia tăng, yếu tố cản trở
sản xuất đang ngày càng mất đi bởi sự tự do lu thông toàn cầu.
Mặc dù vậy, toàn cầu hoá kinh tế vẫn ở trong giai đoạn đầu của nó. Lĩnh
vực then chốt hợp tác toàn cầu hoá kinh tế vẫn chỉ là mậu dịch, tự do lu thông
nguồn vốn và sức lao động còn là vấn đề trong tơng lai.
3
2. Nhận thức chung về hội nhập
Trong bối cảnh hiện nay, ngời ta đều thấy rằng, nhận thức về hội nhập vẫn
là một vấn đề thời sự. Các quốc gia đều khẳng định cần xây dựng nhận thức
thống nhất trong nội bộ rằng hội nhập là cần thiết, phù hợp với xu thế chung,

nhất là tham gia WTO sẽ tạo thuận lợi cho sự phát triển của đất nớc.
- Hội nhập là một quá trình tất yếu, một xu thế bao trùm mà trọng tâm là
mở cửa kinh tế, tạo điều kiện kết hợp tốt nhất nguồn lực trong nớc và quốc tế,
mở rộng không gian để phát triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp nhất có thể trong
quan hệ kinh tế quốc tế. Nh vậy hội nhập vừa là đòi hỏi khách quan vừa là nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế mỗi nớc. Cần phải hội nhập sớm, nhất là
tham gia WTO, để tranh thủ các cơ hội kinh doanh, để có tiếng nói trong quá
trình hình thành luật lệ kinh tế, thơng mại quốc tế có lợi cho mình. Hội nhập
muộn sẽ phải chấp nhận nhiều quy định đã rồi, nghĩa vụ phải thực hiện sẽ lớn
hơn và thời gian chuyển tiếp ngắn hơn.
- Không thể né tránh việc hội nhập mà vấn đề then chốt là cần phải nhận
thức trớc, tính toán đầy đủ cái giá phải trả cho việc tổ chức và vận hành các
hiệp định quốc tế, phải đề ra đợc những chính sách, biện pháp đúng để hạn chế
trả giá ở mức thấp nhất và tranh thủ cao nhất những cơ hội để phát triển.
- Hội nhập thực chất là tham gia cạnh tranh trên quốc tế và ngay trong thị
trờng nội địa. Để hội nhập có hiệu quả, phải ra sức tăng cờng nội lực, cải cách
và điều chỉnh cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu kinh tế
trong nớc để phù với "luật chơi chung" của quốc tế. Điều này không có nghĩa là
các nớc bị ép phải cải cách, mở cửa, hội nhập nhng thực ra cải cách, hội nhập là
vì sự phát triển của mình. Chính sách hội nhập phải dựa và gắn chặt với chiến l-
ợc phát triển của đất nớc, đồng thời cải cách kinh tế, hành chính phải gắn chặt
với yêu cầu của quá trình hội nhập. Cải cách trong nớc và hội nhập là "Con đ-
ờng hai chiều". Cải cách bên trong quyết định tốc độ và hiệu quả hội nhập,
đồng thời hội nhập sẽ hỗ trợ, thúc đẩy tiến trình cải cách trong nớc, qua đó nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cần phải nhận thức rằng dù có hội nhập hay
không thì vẫn tiếp tục cải cách, cải cách mạnh hơn, nhanh hơn vì sự phát triển
của mình. Điều quan trọng là phải duy trì ổn định chính trị, xã hội để phát triển
kinh tế và hội nhập có hiệu quả.
- Hội nhập không phải để đợc hởng u đãi, nhân nhợng đặc biệt. Hội nhập
là mở rộng các cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trờng, có môi trờng pháp lý và

kinh doanh ổn định dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị
phân biệt đối xử, không bị các động cơ chính tị hay những lý do khác cản trở
việc giao lu hàng hoá, dịch vụ và đầu t. Từ ổn định về thị trờng, các nớc sẽ có
điều kiện thuận lợi để xây dựng kế hoạch đầu t, sản xuất, kinh doanh ổn định
4
dựa trên quy chế, luật lệ của các thể chế hội nhập, không bị phân biệt đối xử,
không bị các động cơ chính trị hay những lý do khác cản trở việc giao lu hàng
hoá, dịch vụ và đầu t. Từ ổn định về thị trờng, các nớc sẽ có điều kiện thuận lợi
để xây dựng kế hoạch đầu t, sản xuất, kinh doanh ổn định, giải quyết việc làm
phát triển kinh tế. Ngoài ra, các nớc có thể sử dụng những luật lệ, quy định, cơ
chế giải quyết tranh chấp của các thể chế hội nhập để bảo vệ lợi ích chính đáng
của mình.
- Phải tăng cờng thông tin, tuyên truyền, giải thích để giới kinh doanh
nhận thức sâu sắc và ủng hội hội nhập, chuẩn bị thật tốt mọi mặt để chủ động
hội nhập từng bớc, tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi nớc để cạnh tranh
chiếm lĩnh thị trờng. Đặc biệt quan tâm đến việc thông tin, giải thích cho doanh
nghiệp và nhân dân, đặc biệt các thành phần bị ảnh hởng bởi mở cửa và tự do
hoá, về lợi ích của hội nhập và tham gia WTO. Cần tham khảo và thu hút giới
doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách, lộ trình, các biện pháp hội nhập vì
chính họ sẽ thực hiện các cam kết và bảo đảm hiệu quả của quá trình hội nhập.
5
PHần 2: Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế:
Thời cơ và thách thức
1. Toàn cầu hoá và những động lực.
Theo thuật ngữ kinh tế, động lực của quá trình toàn cầu hoá có thể đợc
biểu hiện thông qua 3 xu hớng chủ đạo sau đây:
- Xu hớng thứ nhất, và là xu hớng có tác động sâu sắc nhất là sự thay đổi
về khoa học - công nghệ. Khoa học và công nghệ có vai trò quyết định lợi thế
cạnh tranh và tốc độ phát triển của các quốc gia.
- Xu hớng thứ hai là việc ngày càng có nhiều Chính phủ theo đuổi chính

sách tự do hoá, mở cửa thị trờng và loại bỏ những cản trở về mặt luật lệ đối với
các hoạt động kinh tế.
- Xu hớng thứ ba là sự kết hợp của những công nghệ mới và những thị tr-
ờng tự do hơn, tạo điều kiện cho các khu vực kinh doanh ở nhiều nớc có thể
quốc tế hoá các hoạt động của mình, dệt nên một mạng lới phức tạp hơn bao
giờ hết các hoạt động liên kết với nhau trên bình diện toàn cầu.
Cả 3 xu hớng này: tiến bộ công nghệ, tự do hoá kinh tế, quốc tế hoá sản
xuất - đã làm cho các quốc gia trở nên phụ thuộc lẫn nhau hơn về mặt kinh tế,
tạo ra những cơ hội cũng nh những thách thức về kinh tế, xã hội, chính trị cha
từng có.
2. Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế: Những lợi ích.
Toàn cầu hoá là xu hớng tất yếu của quá trình tập trung, chuyên môn hoá
sản xuất và phân công lao động quốc tế. Khi nền kinh tế thế giới phát triển
thành một thị trờng thống nhất thì không một quốc gia nào có thể đứng ngoài
tiến trình này mà có thể tồn tại và phát triển đợc.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đã trở thành một trong những xu thế chủ yếu
của quan hệ quốc tế hiện đại và sẽ tiếp tục phát triển mạnh trong thế kỷ tới.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đợc thể hiện rõ trong sự gia tăng rất nhanh trao
đổi quốc tế về hàng hoá, dịch vụ, tài chính và các yếu tố sản xuất.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá còn đợc thể hiện qua sự hình thành và củng
cố của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực.
Toàn cầu hoá và khu vực hoá đợc quyết định bởi nhiều yếu tố liên quan tới
công nghệ, thị trờng và chính sách, nổi lên là: sự cạnh tranh gia tăng trong kinh
tế thế giới thúc đẩy tìm kiếm những thị trờng có lợi nhất cho hàng xuất khẩu và
nguồn nhập khẩu rẻ nhất; những yếu tố thúc đẩy các công ty xuyên quốc gia
phân bố lại dây chuyền sản xuất, tiêu thụ, hình thành nên các mạng lới toàn cầu
và khu vực. Sự phát triển trong công nghệ thông tin, thị trờng tài chính, dịch vụ
và giao thông vận tải
Toàn cầu hoá và khu vực hoá có tác dụng hỗ trợ, bổ sung cho nhau và
cùng nhằm mục tiêu thúc đẩy trao đổi hàng hoá, dịch vụ, vốn và lao động. Liên

kết khu vực vừa củng cố quá trình toàn cầu hoá vừa giúp các nớc trong từng khu
6

×