Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Áp xe gan amíp pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.54 KB, 6 trang )

Áp xe gan amíp


Bệnh lý do amíp nói chung và áp xe gan do amíp nói riêng là bệnh lý thường gặp
ở vùng nhiệt đới, cận nhiệt đới, khí hậu nóng ẩm, vùng có điều kiện kinh tế xã hội
nghèo nàn, tập quán sinh hoạt lạc hậu. Tỷ lệ này gặp khá cao ở các nước Tây Phi,
Nam Phi, Đông Nam Á… trong đó có Việt Nam.
Bệnh có thể xảy ra ở mọi giới, mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp ở nam, trong độ
tuổi 20 – 40. Biểu hiện lâm sàng đa dạng, hiệu quả điều trị tốt nếu được phát hiện
sớm, tuy nhiên nếu không điều trị kịp thời tiến triển tương đối nặng nề, thậm chí
có các biến chứng ảnh hưởng đến tính mạng.
1. Đôi điều về nguyên nhân và cơ chế sinh bệnh.
Đây là bệnh do nhiễm đơn bào Entamoeba histolytica. Sau khi cơ thể nhiễm amíp,
bệnh gây ra các tổn thương đặc trưng là loét ở niêm mạc đại tràng , bệnh có xu
hướng kéo dài và mạn tính nếu không được điều trị tích cực. Thương tổn mạch
máu ở đại tràng giúp amíp theo tĩnh mạch vào tuần hoàn cửa hoặc hệ bạch mạch
đến gan, ở đây chúng thường bị chặn lại bởi các xoang tĩnh mạch gây ra hoại tử
ướt để thành lập các ổ áp xe gan.
Biểu hiện lâm sàng như thế nào.
Biểu hiện lâm sàng đa dạng, tùy thuộc vào từng thể, từng giai đoạn, khi bệnh nhân
đến viện.
Với thể điển hình: là thể hay gặp nhất chiếm khoảng 60-70% trường hợp, có 3
triệu chứng chủ yếu
Sốt : có thể 39 - 400C, có thể sốt nhẹ 37.5 - 380C. Thường sốt 3 - 4 ngày trước khi
đau hạ sườn phải và gan to nhưng cũng có thể xảy ra đồng thời với 2 triệu chứng
đó.
Đau hạ sườn phải và vùng gan : đau ở các mức độ khác nhau từ cảm giác tức nặng
nhoi nhói từng lúc, đến đau mức độ nặng, đau khó chịu không dám cử động mạnh.
Gan to và đau : gan to không nhiều 3-4 cm dưới sườn phải mềm, nhẵn, bờ tù, ấn
đau.
Ngoài ra có thể gặp một số triệu chứng khác như : rối loạn tiêu hoá, mệt mỏi, gầy


sút nhanh ; Có thể có phù nhẹ ở mu chân; Cổ trướng; Tràn dịch màng phổi.
Với một số thể không điển hình
Thể sốt kéo dài : hàng tháng trở lên liên tục hoặc ngắt quãng, gan không to thậm
chí cũng không đau gặp khoảng 5% bệnh nhân.
Thể vàng da : chiếm 3% do khối áp xe đè vào đường mật chính. Thể này bao giờ
cũng nặng, dễ nhầm với áp xe đường mật hoặc ung thư gan, ung thư đường mật.
Thể không đau : gan to nhưng không đau, do ổ áp xe ở sâu hoặc ổ áp xe nhỏ, thể
này chiếm khoảng l,9%.
Thể suy gan : do ổ áp xe quá to phá huỷ 50% tổ chức gan, ngoài phù cổ trướng
thăm dò chức năng gan bị rối loạn, người bệnh có thể chết vì hôn mê gan.
Thể áp xe gan trái : rất ít gặp, chiếm khoảng 3 -5% trường hợp, chẩn đoán khó, dễ
vỡ vào màng tim gây tràn mủ màng tim.
Thể có tràn dịch màng ngoài tim : ngay từ đầu khi thành lập ổ áp xe ở gan đã có
biến chứng vào màng ngoài tim, triệu chứng về bệnh tim nổi bật, còn triệu chứng
về áp xe gan bị che lấp di. Thể này thường chẩn đoán nhầm là tràn dịch màng
ngoài tim.
Thể giả ung thư gan : gan cũng to và cứng như ung thư gan, hoặc cũng gầy nhanh.
Thể này gặp tỷ lệ 15 -16% trường hợp.
2. Cần làm gì để chẩn đoán.
Xét nghiệm máu thường quy: bạch cầu tăng cao, máu lắng tăng.
Siêu âm gan: là xét nghiệm không xâm nhập, dễ thực hiện, rất tốt để phát hiện,
theo dõi tiến triển, và còn để hướng dẫn điều trị. Hình ảnh trên siêu âm giai đoạn
đầu thường là hình ảnh hỗn hợp âm, giai đoạn sau là ổ trống âm kèm theo có vỏ
dày.
Chụp cắt lớp vi tính hoặc cộng hưởng từ thường nhạy và chính xác hơn siêu âm.
Phát hiện amíp bằng phản ứng men ELISA.
Chọc hút khối áp xe có mủ màu socola.
3. Biến chứng nào có thể xảy ra?
Vỡ vào phổi : bệnh nhân khạc ra mủ hoặc ộc ra mủ, mủ có màu socola, không thối.
Vỡ vào màng phổi : gây tràn dịch màng phổi phải. Tràn dịch thường nhiều, gây

khó thở đột ngột, đây là một cấp cứu nội khoa phải chọc màng phổi hút dịch nếu
không bệnh nhân bị chết vì choáng hoặc bị ngạt thở.

Vỡ vào màng ngoài tim : hay xảy ra với áp xe gan nằm ở phân thuỳ 7 - 8 hoặc
ổ áp xe ở gan trái. Đột nhiên bệnh nhân khó thở dữ dội, tím tái, khám tim
thấy các dấu hiệu lâm sàng của tràn dịch màng ngoài tim. Phải chọc hút dịch
màng ngoài tim cấp cứu nếu không bệnh nhân sẽ chết vì hội chứng ép tim
cấp.
Vỡ vào màng bụng gây viêm phúc mạc toàn thể : đột nhiên đau bụng, sốt tăng
lên, bụng cứng, đau toàn bụng, khám thấy bụng có dịch, chọc hút ra mủ. Phải
kịp thời dẫn lưu ổ bụng nếu không bệnh nhân chết vì sốc nhiễm khuẩn.
4. Điều trị như thế nào.
Điều trị áp xe gan amíp là một điều trị nội ngoại khoa hoặc kết hợp kỹ thuật
chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm hoặc CT scanner. Kết quả điều trị phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng chung của bệnh nhân, giai đoạn phát
triển của bệnh, tình trạng tổn thương gan, số lượng, vị trí, kích thước của ổ
áp xe.
Với điều trị nội khoa thường sử dụng các thuốc thuộc nhóm imidazole, trong
đó đáng chú ý là metronidazole hoặc tinidazole.
Chọc hút dưới hướng dẫn của siêu âm, rửa sạch mủ sau đó có thể bơm trực
tiếp thuốc diệt amíp vào ổ áp xe.
Phẫu thuật, hiện nay rất hạn chế dùng, chỉ tiến hành ở các ổ áp xe quá lớn
không chọc hút được hoặc điều trị nội khoa thất bại.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×