Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác thu bảo hiểm xã hội của người lao động tại các doanh nghiệp - 3 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.57 KB, 11 trang )

- Hoạt động của công tác thu BHXH ở hiện tại ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi
và quá trình thực hiện chính sách BHXH trong tương lai. Do BHXH cũng như các
loại hình bảo hiểm khác đều dựa trên cơ sở nguyên tắc có đóng có hưởng BHXH đã
đặt ra yêu cầu quy định đối với công tác thu nộp BHXH. Nếu không thu được
BHXH thì quỹ BHXH không có nguồn để chi trả cho các chế độ BHXH cho NLĐ.
Vậy hoạt động thu BHXH ảnh hưởng trực tiếp đến công tác chi và quá trình thực
hiện chính sách BHXH. Do đó, thực hiện công tác thu BHXH đóng một vai trò
quyết định, then chốt trong quá trình đảm bảo ổn định cho cuộc sống của NLĐ cũng
như các đơn vị doanh nghiệp được hoạt động bình thường.
2. Quy trình thu BHXH.
Đăng kí tham gia BHXH.
NSDLĐ, cơ quan, doanh nghiệp quản lý các đối tượng tham gia có trách nhiệm
đăng kí tham gia BHXH với cơ quan BHXH được phân công quản lý nhằm xác
định số lượng người tham gia BHXH để thông báo với cơ quan chức năng có thẩm
quyền về BHXH. Đây là khâu đầu tiên trong quá trình thu và quản lý thu quỹ
BHXH, tuỳ vào mỗi nước mà có quy định khác nhau trong việc nộp hồ sơ đăng kí
tham gia BHXH cho người lao động nhưng nhìn chung hồ sơ đăng kí tham gia
BHXH thường bao gồm:
- Các quy định, công ước đăng kí tham gia BHXH.
- Danh sách lao động và quỹ tiền lương trích nộp BHXH
- Hồ sơ hợp lệ về đơn vị và NLĐ trong danh sách
Cơ quan BHXH tiếp nhận, thẩm định danh sách tham gia BHXH, số tiền
lương phải đóng hàng tháng.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đơn vị quản lý đối tượng căn cứ thông báo hoặc hợp đồng đã ký kết với cơ
quan BHXH tiến hành cấp sổ BHXH.
Sau quá trình đăng kí tham gia BHXH cho người lao động: cơ quan BHXH định kì
(theo quy định của từng nước) sẽ tiến hành thu BHXH từ người tham gia BHXH
hoặc từ các đơn vị, cơ quan sử dụng lao động tham gia BHXH thông qua việc mở
tài khoản tại ngân hàng hoặc tại kho bạc Nhà nước. Hoặc cũng có thể đến trực tiếp
từng đơn vị, từng người tham gia BHXH để thu đóng góp BHXH. Quá trình thu


được tiến hành theo hai cách như sau:
- Trường hợp 1: Cán bộ BHXH phải trực tiếp thu BHXH từ người tham gia
BHXH: trường hợp này cán bộ BHXH hoặc bộ phận chuyên trách thu của cơ quan
BHXH sẽ trực tiếp thu đóng góp từ người tham gia BHXH. Họ sẽ xuống tận cơ sở,
nơi người lao động làm việc để trực tiếp thu.
- Trường hợp 2: Cơ quan BHXH thu thông qua NSDLĐ hoặc thông qua đại lý
thu của mình như Ngân hàng, bưu điện, thông qua cơ quan thuế…Cơ quan BHXH
thường mở tài khoản tại ngân hàng hoặc tại kho bạc nhà nước để công việc chuyển
tiền từ NSDLĐ và các đại lý thu đến cơ quan BHXH được thuận lợi hơn. Khi đó,
NSDLĐ được giao kết là đại lý cho cơ quan BHXH sẽ tiến hành thu BHXH từ NLĐ
sau đó chuyển toàn bộ đóng góp BHXH của cả NSDLĐ và NLĐ cho cơ quan
BHXH có kèm theo báo cáo số thu nộp BHXH và danh sách lao động nộp BHXH
thông qua việc chuyển khoản vào tài khoản của cơ quan BHXH đã được mở tại
Ngân hàng hoặc tại kho bạc Nhà nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hàng tháng nếu có sự biến động so với danh sách đã đăng kí tham gia BHXH, đơn
vị quản lý đối tượng lập danh sách điều chỉnh theo mẫu quy định (tuỳ vào quy định
của mỗi nước) gửi cơ quan BHXH có chức năng để kịp thời điều chỉnh, xử lý.
3. Quản lý thu BHXH.
Tham gia BHXH là nhiệm vụ, nghĩa vụ của các đơn vị sử dụng lao động nhằm thực
hiện quyền lợi cho NLĐ nhằm thực hiện quyền lợi cho NLĐ. Việc đóng góp vào
quỹ BHXH của các bên tham gia BHXH là tất yếu vì nguyên tắc có đóng có hưởng.
Vậy thu từ đóng góp của những người tham gia BHXH là nguồn nguồn thu chủ yếu
quan trọng nhất cho quỹ BHXH ở hầu hết các quốc gia.
Trên cơ sở nhiệm vụ của công tác thu là phải thu đúng, thu đủ, thu đúng đối tượng
và rõ ràng minh bạch nhằm đảm bảo tính công bằng và quyền lợi giữa những người
tham gia BHXH. Bên cạnh đó cần phải tổ chức theo dõi, ghi chép kết quả đóng
BHXH của từng người, đơn vị để làm cơ sở cho việc tính mức hưởng BHXH theo
quy định.
Hơn nữa, công tác thu BHXH có những đặc điểm sau:

+ Số đối tượng phải thu là rất lớn và gia tăng theo thời gian nên công tác quản lý
thu BHXH là rất khó khăn và phức tạp.
+ Công tác thu mang tính chất định kỳ, lặp đi lặp lại do đó khối lượng công việc là
rất lớn đòi hỏi nguồn nhân lực và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thu cũng phải
tương ứng.
+ Đối tượng thu là tiền nên dễ xảy ra sai pham, vi phạm đạo đức và lạm dụng quỹ
vốn tiền thu BHXH.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Do vậy, công tác quản lý thu BHXH cũng là nhiệm vụ quan trọng và khó khăn của
ngành BHXH. Để công tác thu BHXH đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi phải có quy trình
quản lý thu chặt chẽ hợp lý, khoa học nhất là trong thời đại công nghệ thông tin
bùng nổ hiện nay. Vì vậy, công tác quản lý thu BHXH phải được tổ chức chặt chẽ,
thống nhất trong cả hệ thống từ lập kế hoạch thu, phân cấp thu, ghi kết quả đặc biệt
là quản lý tiền thu quỹ BHXH…
Trong quá trình tiến hành công tác thu với phương châm là thu đúng đối tượng,
đúng phạm vi thu và quan trọng hơn nữa là thu được đủ số tiền đóng BHXH từ các
đối tượng tham gia BHXH thì việc tăng cường công tác quản lý thu BHXH là vấn
đề được các cơ quan quản lý và mọi người rất quan tâm. Để hình thành nên một kế
hoạch thu, một chính sách thu BHXH thích ứng với cơ chế quản lý kinh tế đang
trong quá trình đổi mới, đòi hỏi phải nghiên cứu, giải quyết hàng loạt vấn đề cả về
lý luận và thực tiễn.
chương II: Thực trạng của công tác thu BHXH ở việt nam
I. khái quát về chính sách BHXH ở việt nam.
Chính sách BHXH ở Việt nam cho đến nay đã trải qua một chặng đường dài trên
nửa thế kỷ. Đây là một trong những chính sách lớn thể hiện sự quan tâm, chăm lo
của Đảng và Nhà nước ta đối với NLĐ.
BHXH ở nước ta đã xuất hiện từ những năm còn dưới ách đô hộ của Thực dân
Pháp. Tuy nhiên, chính sách BHXH chỉ thực sự phục vụ NLĐ từ thời kì thành lập
nước Việt nam dân chủ cộng hoà. Trải qua một chặng đường lịch sử lâu dài trên nửa
thế kỉ, BHXH Việt nam cũng có nhiều thay đổi . Vì vậy, để khái quát về chính sách

BHXH ở Việt nam có thể chia làm hai giai đoạn sau:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Giai đoạn trước năm 1995: cùng với cơ chế quản lý nền kinh tế kế hoạch hành
chính tập trung là thời kỳ bao cấp của Nhà nước về BHXH.
Giai đoạn từ năm 1995 đến nay: cùng với cơ chế quản lý của nền kinh tế thị trường
có sự điều tiết của Nhà nước là thời kỳ cải cách về BHXH phù hợp với công cuộc
đổi mới của đất nước và gắn liền với sự hình thành và phát triển của ngành BHXH.
1. Giai đoạn trước năm 1995.
BHXH xuất hiện ở Việt nam ngay từ thời kỳ Pháp thuộc. Khi đó Chính phủ bảo hộ
Pháp đã thực hiện một số chế độ BHXH cho những người Việt nam làm việc trong
bộ máy cai trị của chính quyền Pháp.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm và thực
hiện chính sách BHXH đối với NLĐ. Đối tượng được hưởng chính sách BHXH chủ
yếu là NLĐ trong biên chế Nhà nước. Thời kì này, ở nước ta đã thực hiện chữa
bệnh miễn phí cho người dân và hoạt động BHYT trong thời gian này nằm trong
chương trình chăm sóc y tế của Quốc gia.
Trước năm 1995 chính sách BHXH được thực hiện và hoạt động theo hàng loạt các
Sắc lệnh, Nghị định ban hành nhằm xác định về đối tượng và chế độ, mức đóng,
mức hưởng. Sắc lệnh 54 ngày 3/11/1945 của Chính phủ lâm thời, sắc lệnh số 105
ngày 14/6/1946 của chủ tịch nước Việt nam dân chủ cộng hòa. Sắc lệnh 29 ngày
13/3/1947 của Chính phủ Việt nam dân chủ cộng hòa… cùng với cơ sở pháp lý tiếp
theo của BHXH thể hiện trong hiến pháp năm 1959 thừa nhận công nhân viên chức
có quyền được trợ cấp BHXH. Quyền này được cụ thể hóa trong điều lệ tạm thời về
BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nước được ban hành kèm theo Nghị định
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
số 218/CP ngày 27/2/1961 và điều lệ đai ngộ quân nhân ban hành kèm theo Nghị
định 161/CP ngày 30/10/1964 của Chính phủ.
Trong thời gian này, chính sách BHXH nước ta đã góp phần ổn định về mặt thu
nhập, ổn định cuộc sống cho người công nhân viên chức, quân nhân và gia đình họ,
góp phần rất lớn trong việc động viên sức người, sức của cho thắng lợi của cuộc

kháng chiến chống xâm lược, thống nhất đất nước.
Năm 1986 Việt nam tiến hành cải cách kinh tế và chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế
kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường với nền kinh tế nhiều thành phần theo
định hướng của Nhà nước. Sự thay đổi về cơ chế kinh tế đòi hỏi có những thay đổi
tương ứng về chính sách xã hội nói chung và chính sách BHXH nói riêng.
Đến năm 1989, bắt đầu có Quyết định số 45/HĐBT ngày 24/4/1989 của Chính phủ
về việc thu một phần viện phí gồm các khoản tiền giường nằm điều trị, thuốc men,
máu, xét nghiệm…
Hiến pháp năm 1992 nêu rõ: Nhà nước thực hiện chế độ BHXH đối với công chức
Nhà nước và người làm công ăn lương khuyến khích phát triển các hình thức
BHXH khác đối với NLĐ.
Ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP quy định tạm thời chế độ
BHXH cho NLĐ ở các thành phần kinh tế, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong sự nghiệp thực hiện chính sách BHXH.
Ngày 23/1/1994 Quốc hội nước cộng hòa xã hộ chủ nghĩa Việt nam thông qua Bộ
luật lao động trong đó có chương XII quy định về BHXH.
Những nội dung chính về chính sách BHXH trong thời kì này:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Về đối tượng tham gia và hưởng chế độ BHXH là công nhân viên chức trong khu
vực Nhà nước, các đoàn thể xã hội, chính trị và trong lực lượng vũ trang như: công
nhân viên chức Nhà nước, lực lượng vũ trang (quân đội, công an…), người làm việc
trong các tổ chức đoàn thể, tổ chức xã hội thuộc hệ thống chính trị của Đảng và Nhà
nước, người làm việc trong các doanh nghiệp quốc doanh… Thời kì này, những
người làm việc trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không được hưởng
các chế độ BHXH.
+ Về thực hiện các chế độ BHXH: Nhà nước ta đã thực hiện 6 chế độ BHXH đó là:
trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản, trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, trợ cấp
mất sức lao động, trợ cấp hưu trí và trợ cấp tử tuất.
+ Về tổ chức thực hiện: Nhà nước giao cho 3 cơ quan quản lý thu và chi các chế độ
như sau: Bộ nội vụ (nay là Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội) quản lý khoản thu

1% tổng quỹ lương thông qua hệ thống Ngân sách Nhà nước và thực hiện giải quyết
3 chế độ hưu trí, mất sức lao động, tử tuất và có phân cấp cho các cơ quan trực
thuộc giải quyết chế độ BHXH; Tổng công đoàn Lao động Việt Nam (nay là Tổng
Liên đoàn lao động Việt Nam) quản lý thu 3,7% quỹ tổng quỹ lương của đơn vị) và
tổ chức chi 3 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-
BNN); Quỹ thu về Bộ tài chính quản lý và tiến hành cấp phát kinh phí chi cho các
chế độ đài hạn hàng năm theo kế hoạch của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội
+ Thời gian cuối những năm 1980 đầu những năm 1990, quỹ thu đóng góp BHXH
do Bộ tài chính quản lý và tính vào thu ngân sách nhà nước (NSNN) mà không hình
thành quỹ BHXH độc lập.
2. Giai đoạn từ năm 1995 đến nay.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Từ cuối những năm 80, đầu những năm 90 của thế kỷ trước, đất nước ta bước vào
thời kì đổi mới. Nền kinh tế từng bước chuyển sang vận hành theo cơ chế kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
Năm 1995 đánh dấu thời kì phát triển mới về sự nghiệp BHXH. Ngày 01/01/1995
Bộ luật lao động có hiệu lực thi hành, trong đó có chương XII về BHXH. Nghị định
số 12/CP ngày 26/1/1995 ban hành điều lệ BHXH đối với người lao động với nội
dung cơ bản đổi mới thể hiện trên các mặt:
- BHXH dựa trên nguyên tắc có đóng có hưởng, đối tượng tham gia BHXH
bao gồm cả NLĐ làm công ăn lương trong các doanh nghiệp cơ quan, tổ chức thuộc
mọi thành phần kinh tế. Điều này tạo sự bình đẳng giữa những NLĐ làm việc trong
các thành phần kinh tế khác nhau.
- Đã hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của 3 bên: NSDLĐ
đóng 15%, NLĐ đóng 5% và sự bảo hộ của Nhà nước, quỹ BHXH được thành lập
độc lập với NSNN. Với sự cải cách này, BHXH ở Việt nam đã đảm bảo thực hiện
nguyên tắc có đóng có hưởng, dần dần xóa bỏ bao cấp từ Nhà nước về BHXH.
- Tổ chức thực hiện chế độ BHXH, với 5 chế độ: ốm đau, thai sản, tai nạn lao
động - bệnh nghề nghiệp, hưu trí và tử tuất.
- Về tổ chức quản lý: Hệ thống BHXH Việt nam được hình thành từ Trung

ương đến cấp huyện và thống nhất bước vào hoạt động từ 01/10/1995.
Cũng vào năm 1995 sau khi Nghị định 12/CP ra đời Chính phủ đã ban hành Nghị
định 19/CP vào ngày 16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt nam với những chức
năng, nhiệm vụ quyền hạn tổ chức, thực hiện chính sách và quản lý quỹ BHXH. Từ
đây, quỹ BHXH Việt nam được quản lý thống nhất trong cả nước.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Tiếp theo là các Nghị định: số 45/CP Ngày 15/7/1997 của Chính phủ ban hành Điều
lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ Quân đội
nhân dân và Công an nhân dân. Nghị định số 09/1998/NĐ - CP ngày 23/1/1998 của
Chính phủ, sửa đổi bổ sung Nghị định số 50/CP ngày 26/7/1995 của Chính phủ về
chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ xã phường, thị trấn.
Ngày 24/1/2002 Chính phủ đã có quyết định số 20/2002/QĐ-TTg về việc sát nhập
BHYT vào BHXH Việt nam. Ngày 6/12/2002 Chính phủ ban hành nghị định số
100/2002/NĐ - CP quy định chức năng nhiệm vụ và quyền hạn, cơ cấu tổ chức của
BHXH sau khi BHYT Việt nam sát nhập vào BHXH Việt nam (thay thế Nghị định
19/CP ngày 16/02/1995) có chức năng thực hiện chính sách BHXH và quản lý quỹ
BHXH (bao gồm cả BHYT) theo quy định của pháp luật. Sự thay đổi này đã tạo ra
nhiều thuận lợi và cũng gây không ít khó khăn cho ngành BHXH nước ta trong việc
tổ chức thực hiện chế độ BHXH và quản lý thống nhất trong cả nước.
Năm 2003 BHYT Việt nam sát nhập vào BHXH Việt nam. Theo Nghị định số
01/2003/NĐ - CP ngày 09/01/2003 của Chính phủ về việc sửa đổi bổ sung điều lệ
BHXH ban hành kèm theo Nghị định số 12/CP đã mở rộng quyền lợi tham gia
BHXH đến mọi NLĐ thuộc các thành phần kinh tế.
Nhìn chung: việc cải cách BHXH là phù hợp với tình hình thực tế nước ta khi mà
xu hướng của Đảng và Nhà nước ta là tiến hành thực hiện mở rộng chính sách
BHXH đến mọi người dân, từng bước tạo điều kiện thuận lợi cho NLĐ ở các thành
phần kinh tế tham gia BHXH. Có thể thấy trong giai đoạn này:
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
+ Đối tượng tham gia BHXH từng bước được mở rộng: Thông qua bảng số liệu
dưới đây cho thấy được hoạt động của chính sách BHXH ở nước ta trong thời gian

vừa qua
Bảng 1: Tình hình tham gia BHXH từ năm 1995-2004.
1996 3.222 946 41,56
1997 3.560 338 10,49
1998 3.755 195 5,48
1999 3.959 204 5,43
2000 4.276 317 8,01
2001 4.476 200 4,68
2002 4.845 369 8,24
2003 5.387 542 11,19
2004 5.820 433 8,04
(Nguồn: BHXH Việt nam )
Qua số liệu bảng 1, cho thấy: việc thực hiện chính sách BHXH ở nước ta ngày một
có hiệu quả do đó số người tham gia BHXH không ngừng tăng lên với số lượng
năm sau cao hơn năm trước, số người tham gia tăng lên rõ rệt theo từng năm. Tuy
số lượng người tham gia BHXH năm sau cao hơn năm trước nhưng tốc độ tăng
trưởng liên hoàn lại tăng không đều và có xu hướng giảm dần. Có những năm số
lượng người tham gia tăng lên rất cao: như năm 1996 số người tham gia BHXH
tăng so với năm 1995 là 41,56% tương ứng 946 nghìn người là năm có số người
tham gia BHXH cao hơn cả, năm 2003 số người tham gia BHXH tăng so với năm
2002 là 11,19% tương ứng 542 nghìn người nhưng lại có những năm số lượng
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
người tham gia BHXH tăng lên rất ít như: năm 1998 tốc độ tăng trưởng là 5,48%
tương ứng 195 nghìn người về số tuyệt đối, năm 2001 tốc độ tăng trưởng của số
người tham gia BHXH là 4,68% tương ứng là 200 nghìn người.
Như vậy, năm 1995 có khoảng 2.276 nghìn người tham gia BHXH thì đến năm
2004 số người tham gia BHXH tăng lên hơn 5.820 nghìn người. Nếu tính trong cả
10 năm qua số người tham gia BHXH đã tăng lên là 3.544 nghìn người. Đồng thời
cũng đã giải quyết cho hơn 1.256 nghìn người nghỉ hưu và trợ cấp BHXH một lần
thì bình quân mỗi năm tăng 47 vạn người bằng khoảng 1,2% nguồn lao động xã hội.

Từ số liệu bảng 1 còn cho thấy, việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH ở
nước ta ngày một mở rộng đến NLĐ ở các thành phần kinh tế khác nhau. Số lượng
người tham gia BHXH ngày một tăng cho thấy được sự nhận thức của NLĐ về
BHXH đã được nâng lên rất nhiều; đồng thời cũng thể hiện chính sách của Đảng và
Nhà nước ngày càng quan tâm, chăm lo và đáp ứng nhu cầu của người dân khi tham
gia. Điều này càng thể hiện rõ hơn khi mà nền kinh tế nước ta đang trong xu hướng
cổ phần hóa các doanh nghiệp, chuyển đổi từ nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế
thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước.
+ Tách bạch hoạt động của sự nghiệp thu chi quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng
quản lý Nhà nước. Quỹ BHXH được hạch toán độc lập trên cơ sở và nguyên tắc của
cân bằng thu chi nhằm: Đảm bảo sự công bằng và bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ BHXH cho mọi NLĐ.
+ Quỹ BHXH tập trung thống nhất độc lập với NSNN thực hiện theo cơ chế tự quản
của 3 bên tham gia NLĐ, NSDLĐ và sự bù thiếu của Nhà nước là phù hợp với tình
hình thực tế ở nước ta từ đó tạo điều kiện cho sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×