Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Nâng cao hiệu quả công tác thu bảo hiểm xã hội của người lao động tại các doanh nghiệp - 2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.16 KB, 11 trang )

kinh doanh trong nền kinh tế xã hội, các lĩnh vực này bao gồm tất cả các loại công
việc từ đơn giản đến phức tạp, từ nhẹ nhàng đến công việc nặng nhọc độc hại. Do
vậy, BHXH xã hội hóa cao hơn hẳn các loại hình BHXH khác đồng thời cũng thể
hiện tính công bằng xã hội cao.
- BHXH là đòn bẩy, khuyến khích NLĐ hăng hái tham gia lao động sản xuất
và từ đó nâng cao năng suất lao động: BHXH góp phần kích thích người lao động
hăng hái lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động cá nhân và tăng năng suất
lao động xã hội góp phần tăng mối quan hệ tốt đẹp và gắn bó lợi ích giữa NLĐ,
NSDLĐ và nhà nước.
- BHXH thực hiện chức năng điều hoà lợi ích giữa ba bên: NLĐ, NSDLĐ,
Nhà nước đồng thời làm giảm bớt mâu thuẫn xã hội, góp phần ổn định chính trị,
kinh tế, xã hội.
- BHXH còn thực hiện chức năng giám đốc bởi BHXH tiến hành kiểm tra,
giám sát việc tham gia thực hiện chính sách BHXH của NLĐ, NSDLĐ theo quy
định của pháp luật nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần ổn định xa hội.
3. Quan điểm về BHXH.
BHXH ra đời và phát triển lúc đầu còn mang tính tự phát về sau được nhà nước luật
pháp hóa các chế độ BHXH. Hiện nay trên thế giới có khoảng trên 140 quốc gia
thực hiện BHXH tuy nhiên việc thực hiện BHXH ở mỗi nước là khác nhau. Tuỳ vào
mỗi mỗi quốc gia trên thế giới mà chính sách BHXH được lựa chọn với hình thức,
cơ chế và mức độ thoả mãn nhu cầu BHXH phù hợp với tập quán, khả năng trang
trải và định hướng phát triển kinh tế xã hội của Quốc gia đó. Nhưng có một số quan
điểm về BHXH được hầu hết các nước trên thế giới đã thừa nhận.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là một bộ phận quan trọng
nhất trong hệ thống các chính sách xã hội. Quan điểm này chứng tỏ rằng các nước
đều thừa nhận tính xã hội cao của BHXH. ở Việt nam BHXH được xếp trong hệ
thống các chính sách đảm bảo xã hội của Đảng và Nhà nước. Bởi mục đích chủ yếu
của chính sách này là nhằm đảm bảo đời sống cho NLĐ và gia đình họ khi mà có
sự kiện rủi ro bất ngờ đến với họ.
- NSDLĐ phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho NLĐ. NSDLĐ, họ phải


có nghĩa vụ và trách nhiệm đóng góp quỹ BHXH đồng thời thực hiện đầy đủ các
chế độ BHXH đối với NLĐ mà mình sử dụng theo đúng luật pháp quy định. Bởi
NSDLĐ muốn ổn định kinh doanh sản xuất thì ngoài sự hoạt động của máy móc ra
cũng cần phải có đội ngũ công nhân đảm bảo cho máy móc được vận hành và vận
chuyển. Do vậy, NSDLĐ cần phải đảm bảo cho người công nhân được ổn định cả
về mặt vật chất lẫn tinh thần. Chỉ có như vậy hoạt động sản xuất kinh doanh mới
không bị gián đoạn góp phần nâng cao năng xuất lao động.
- Tất cả mọi NLĐ đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ đối với BHXH mà
không phân biệt nam nữ hay dân tộc tôn giáo, nghề nghiệp… Điều này có nghĩa là
mọi NLĐ trong xã hội đều được hưởng quyền lợi BHXH như tuyên ngôn độc lập
nhân quyền đã nêu đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng góp và quyền trợ cấp
BHXH.
- Nhà nước thống nhất quản lý BHXH từ việc hoạch định các chế độ chính
sách, tổ chức bộ máy thực hiện đến việc kiểm tra kiểm soát. Quan điểm này xuất
phát từ việc BHXH được coi là một chính sách xã hội, là hoạt động phi lợi nhuận vì
thế mà nhà nước cần đứng ra tổ chức và quản lý.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
- Mức trợ cấp BHXH phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: tình trạng mất khả năng
lao động, tiền lương lúc đang đi làm, tuổi thọ bình quân của NLĐ, điều kiện kinh tế
- xã hội của đất nước trong từng thời kì, xác định hợp lý mức tối thiểu của các chế
độ BHXH. Ngoài ra còn quan tâm đến vấn đề công bằng trong xã hội, mức trợ cấp
này phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm nhưng mức thấp nhất cũng phải
đảm bảo mức sống tối thiểu cho người hưởng chế độ BHXH.
- BHXH phải đảm bảo sự thống nhất và liên tục cả về mức tham gia và thời
gian thực hiện, bảo đảm quyền lợi của NLĐ, đảm bảo công bằng xã hội.
4. Đối tượng và đối tượng tham gia BHXH.
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỷ 19 khi mà nền công nghiệp và kinh tế
hàng hóa bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu âu. Từ năm 1883 ở nước phổ
(CHLB Đức ngày nay) đ• ban hành luật Bảo hiểm y tế. Một số nước châu Âu và
Bắc mĩ m•i đến cuối năm 1920 mới có đạo luật về BHXH mặc dù ra đời từ rất lâu

như vậy nhưng đối tượng của BHXH vẫn có nhiều quan điểm khác nhau gây ra
nhiều tranh c•i. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tượng BHXH với đối tượng
tham gia BHXH.
4.1. Đối tượng của BHXH.
BHXH là một hệ thống bảo đảm khoản thu nhập bị giảm hoặc mất do giảm, mất khả
năng lao động, mất việc làm vì có các nguyên nhân như ốm đau tai nạn, tuổi già.
Chính vì vậy, đối tượng của BHXH là phần thu nhập của NLĐ bị biến động hoặc
giảm, mất đi do gặp phải những rủi ro ngẫu nhiên, bất ngờ xảy ra.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Đối tượng của BHXH không chỉ là các khoản thu nhập theo lương mà bao gồm các
khoản thu nhập khác ngoài lương như: thưởng, phụ cấp… cho NLĐ có nhu cầu
đóng góp thêm để được hưởng mức trợ cấp BHXH.
4.2. Đối tượng tham gia BHXH.
Đối tượng tham của BHXH là NLĐ và NSDLĐ. Họ là những người trực tiếp tham
gia đóng góp tạo nên quỹ BHXH với một khoản % nhất định so với tiền lương của
NLĐ theo quy định của luật BHXH. Tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những NLĐ nào
đó trong xã hội.
Trong thời kì đầu khi triển khai BHXH ở hầu hết các nước chỉ áp dụng đối với
những người làm công ăn lương để đảm bảo mức đóng góp ổn định, đảm bảo an
toàn quỹ BHXH.
Hiện nay khi nền kinh tế phát triển nhu cầu sử dụng NLĐ trong và ngoài doanh
nghiệp nhà nước tăng lên rất nhiều thì đối tượng tham gia BHXH và đối tượng của
BHXH cũng được mở rộng ra. Vì vậy đối tượng tham gia của BHXH bao gồm:
- Đối tượng bắt buộc tham gia BHXH: là NLĐ và NSDLĐ phải tham gia
BHXH một cách bắt buộc với mức đóng và mức hưởng BHXH theo quy định của
luật BHXH.
- Đối tượng tự nguyện tham gia BHXH: áp dụng cả với người làm công ăn
lương và NLĐ không làm công ăn lương. Thường là do sự đóng góp của NLĐ cùng
với sự giúp đỡ của ngân sách Nhà nước.

5. Các chế độ BHXH.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
BHXH đã xuất hiện vào thế kỷ XIII ở Nam Âu. Tuy nhiên, lúc đầu BHXH chỉ là
mang tính sơ khai và tự phát được áp dụng trong phạm vi nhỏ.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai BHXH được nhiều nước biết đến trên thế giới
với những thay đổi, bổ sung phong phú và đa dạng hơn. BHXH là một trong những
chính sách xã hội cơ bản nhất đối với hầu hết các quôc gia trên thế giới. Theo công
ước 102 kí kết tại Giơnevơ tháng 6 năm 1952 của Tổ chức Lao động quốc tế với sự
tham gia của rất nhiều quốc gia đã xác định rõ, BHXH bao gồm các chế độ sau:
1. Chế độ chăm sóc y tế.
2. Chế độ trợ cấp ốm đau.
3. Chế độ trợ cấp thất nghiệp.
4. Chế độ trợ cấp tại nạn lao động & bệnh nghề nghiệp (TNLĐ-BNN).
5. Chế độ trợ cấp tuổi già.
6. Chế độ trợ cấp gia đình.
7. Chế độ trợ cấp sinh đẻ.
8. Chế độ trợ cấp khi tàn phế.
9. Chế độ trợ cấp cho người còn sống.
Chín chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ điều kiện kinh tế
chính trị xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó
ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được 3 trong 9 chế độ. Trong đó
có ít nhất một trong năm chế độ: 3, 4, 5, 8, 9. Tuy vậy, không phải Quốc gia nào
cũng thực hiện được cả 9 chế độ đã nêu trên.
ở Việt nam, trong thời kỳ Pháp thuộc, thực dân pháp đã thực hiện BHXH cho một
số người làm việc trong bộ máy của chúng còn đối với công nhân Việt nam làm
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
việc cho Chính phủ pháp thì hầu như không được tham gia BHXH. Đến năm 1945,
nước Việt nam dân chủ cộng hoà được thành lập Chính phủ đã ban hành điều lệ, sắc
lệnh 54/SL ngày 14/6/1946 của Chính phủ ban hành về việc cấp hưu bổng cho công
chức. Sau khi miền Bắc hoà bình, thực hiện hiến pháp năm 1949 hội đồng Chính

phủ ban hành điều lệ tạm thời về các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức
Nhà nước kèm theo Nghị định 218/CP ra đời ngày 27/12/1961 quy định chế độ
BHXH ở Việt nam gồm 6 loại chế độ trợ cấp: ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu
trí, mất sức lao động, chế độ tử tuất. Khi nền kinh tế phát triển và chuyển đổi theo
cơ chế thị trường từ năm 1986 đặc biệt là từ những năm 1990 trở lại đây, điều kiện
kinh tế đã thay đổi thì Nghị định 43/CP ngày 22/6/1993 và Nghị định số 12/CP
ngày 26/1/1995 thống nhất bỏ chế độ trợ cấp mất sức lao động. Như vậy là hiện nay
BHXH Việt nam thực hiện 5 chế độ. Đến năm 2003, do BHYT Việt nam sát nhập
với BHXH Việt nam do đó hiện nay ở Việt nam thực hiện 6 chế độ BHXH. Các chế
độ đó là: ốm đau, thai sản, TNLĐ-BNN, hưu trí, chế độ tử tuất, chế độ chăm sóc y
tế.
6. Quỹ BHXH.
6.1. Khái niệm về quỹ BHXH.
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà
nước. Quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho các đối tượng hưởng BHXH và chi
phí cho sự nghiệp quản lý BHXH ở các cấp, các nghành.
Có thể hiểu quỹ BHXH là tập hợp đóng góp bằng tiền của các bên tham gia
BHXH: NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước bù thiếu nhằm mục đích chi trả cho các chế độ
BHXH và đảm bảo cho hoạt động của hệ thống BHXH.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Như vậy, quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung, hạch toán độc lập với ngân
sách Nhà nước, được Nhà nước bảo hộ và bù thiếu. Quỹ này được quản lý theo cơ
chế cân bằng thu chi do đó quỹ BHXH không đơn thuần ở trạng thái tĩnh mà luôn
có sự biến động theo chiều hướng tăng lên hoặc thâm hụt. Quỹ BHXH hình thành
và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người
tham gia với tổng dự trữ ít nhất, do rủi ro được dàn trải cho số đông người tham gia.
Đồng thời quỹ này cũng góp phần giảm chi ngân sách cho Nhà nước; khi có biến cố
xã hội xảy ra như thiên tai, hạn hán, dịch bệnh, quỹ BHXH cũng là một khoản
không nhỏ giúp Nhà nước thay cho cứu trợ xã hội, phúc lợi xã hội, …
6.2. Nguồn hình thành quỹ.

BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, mặc dù tính xã hội được thể
hiện nổi trội hơn. Theo các nhà kinh tế cho rằng, kinh tế là nền tảng của BHXH vì
chỉ khi NLĐ có thu nhập đạt đến một mức độ nào đó thì việc tham gia BHXH mới
thiết thực và có hiệu quả. Cũng theo các nhà kinh tế, BHXH chỉ có thể phát triển
được theo đúng nghĩa trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tức là người tham gia
BHXH phải có trách nhiệm đóng góp BHXH để bảo hiểm cho mình từ tiền
lương/thu nhập cá nhân, người sử dụng lao động cũng phải đóng góp BHXH cho
người lao động mà mình thuê mướn từ quỹ lương của doanh nghiệp/ đơn vị đồng
thời Nhà nước cũng có phần trách nhiệm bảo hộ quỹ BHXH như đóng góp thêm khi
quỹ BHXH bị thâm hụt. Như vậy:
- Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau:
+ Người sử dụng lao động: sự đóng góp này không những thể hiện trách nhiệm của
NSDLĐ đối với NLĐ đồng thời còn thể hiện lợi ích của NSDLĐ bởi đóng góp một
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
phần BHXH cho NLĐ, NSDLĐ sẽ tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi ra một
khoản tiền lớn khi có rủi ro xảy ra đối với NLĐ của mình đồng thời cũng giảm bớt
được những tranh chấp. Thông thường phần đóng góp này được xác định dựa trên
quỹ lương của đơn vị, doanh nghiệp.
+ Người lao động: hệ thống BHXH ở các nước trên thế giới chủ yếu vẫn thực hiện
trên nguyên tắc có đóng có hưởng vì vậy người tham gia phải đóng góp cho quỹ
mới được hưởng BHXH. Người lao động tham gia đóng góp cho mình để bảo hiểm
cho chính bản thân mình. Thông qua hoạt động này người lao động đã dàn trải rủi
ro theo thời gian, khoản đóng góp vào quỹ BHXH chính là khoản để dành dụm, tiết
kiệm cho về sau bằng cách là hưởng lương hưu hoặc được hưởng trợ cấp khi gặp rủi
ro xảy ra. Khoản trợ cấp này được xác định một cách khoa học và có cơ sở theo
nguyên nhân.
+ Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm: Quỹ BHXH được nhà nước bảo hộ và đóng góp
khi quỹ bị thâm hụt không đủ khả năng để chi trả cho các chế độ xã hội. Nhằm mục
đích đảm bảo cho các hoạt động xã hội diễn ra được đều đặn, ổn định. Nguồn thu từ
sự hỗ trợ Ngân sách Nhà nước đôi khi là khá lớn, sự hỗ trợ này là rất cần thiết và

quan trọng. Có thể nói hoạt động của chính sách BHXH mà không có sự hỗ trợ của
Nhà nước thì chẳng khác nào đứa trẻ mới tập đi.
+ Các nguồn khác: như sự giúp đỡ của các tổ chức từ thiện trong và ngoài nước, lãi
do đầu tư phần quỹ nhàn rỗi, khoản tiền thu nộp phạt từ các đơn vị chậm đóng
BHXH Đây là phần thu nhập tăng thêm đô bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ
BHXH được cơ quan BHXH đưa vào hoạt động sinh lời. Việc đầu tư quỹ nhàn rỗi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
này cũng cần phải đảm bảo khả năng thanh khoản khi cần thiết, an toàn và mang
tính xã hội.
- Phương thức đóng góp.
Phương thức đóng góp BHXH của NLĐ và NSDLĐ hiện vẫn còn hai quan điểm:
+ Căn cứ vào mức lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp.
+ Căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của NLĐ được cân đối chung trong toàn bộ nền
kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp.
- Mức đóng góp BHXH: ở một số nước quy định người sử dụng lao động phải
chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ
cấp gia đình, các chế độ còn lại cả NGLĐ và NSDLĐ cùng đóng góp mỗi một phần
bằng nhau. Một số nước khác lại quy định quỹ BHXH do NLĐ và NSDLĐ đóng,
Chính phủ sẽ bù thiếu.
ở Việt nam quy định NLĐ đóng 5% lương tháng cho BHXH, 1% lương
tháng cho BHYT; còn NSDLĐ đóng 15% quỹ lương tháng cho BHXH và 2% quỹ
lương tháng cho BHYT.
6.3. Mục đích sử dụng quỹ BHXH.
Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho 2 mục đích sau:
- Chi trả trợ cấp cho các chế độ BHXH: Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn
nhất của BHXH nhằm đảm bảo ổn định, duy trì cuộc sống cho NLĐ đồng thời góp
phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp
Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử
dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho
bản thân và gia đình họ khi mà đối tượng tham gia gặp rủi ro và các chế độ được

Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
BHXH trợ cấp là 9 chế độ BHXH đã nêu trong công ước 102 tháng 6/1952 tại
Giơnevơ.
Trong thực tế việc chi trả cho các chế độ BHXH diễn ra thường xuyên trên phạm vi
rộng, hầu hết các nước trên thế giới đều có những khoản chi thường xuyên là chi
lương hưu và trợ cấp tuất.
- Chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH: Ngoài việc trợ cấp cho các đối tượng
hưởng BHXH, quỹ BHXH còn được sử dụng để chi cho các khoản chi phí quản lý
như: tiền lương cho cán bộ làm việc trong hệ thống BHXH, khấu hao tài sản cố
định, văn phòng phẩm và một số khoản chi khác.
II. Công tác thu BHXH.
1. Vai trò của công tác thu BHXH.
Quỹ BHXH hiện đang được thực hiện nhằm đạt mục tiêu là một công quỹ độc lập
với ngân sách nhà nước, nhằm đảm bảo về tài chính để chi trả các chế độ BHXH
cho NLĐ. Vì thế công tác thu BHXH ngày càng trở thành khâu quan trọng và quyết
định đến sự tồn tại và phát triển của việc thực hiện chính sách BHXH.
- Công tác thu BHXH là hoạt động thường xuyên và đa dạng của ngành BHXH
nhằm đảm bảo nguồn quỹ tài chính BHXH đạt được tập trung thống nhất: Thu đóng
góp BHXH là hoạt động của các cơ quan BHXH từ Trung ương đến địa phương
cùng với sự phối hợp của các ban ngành chức năng trên cơ sở quy định của pháp
luật về thực hiện chính sách BHXH nhằm tạo ra nguồn tài chính tập trung từ việc
đóng góp của các bên tham gia BHXH. Đồng thời tránh được tình trạng nợ đọng
BHXH từ các cơ quan đơn vị, từ người tham gia BHXH. Qua đó, đảm bảo sự công
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
bằng trong việc thực hiện và triển khai chính sách BHXH nói chung và giữa những
người tham gia BHXH nói riêng.
- Để chính sách BHXH được diễn ra thuận lợi thì công tác thu BHXH có vai trò
như một điều kiện cần và đủ trong quá trình tạo lập cùng thực hiện chính sách
BHXH: Bởi đây là đầu vào, là nguồn hình thành cơ bản nhất trong quá trình tạo lập
quỹ BHXH. Đồng thời đây cũng là một khâu bắt buộc đối với người tham gia

BHXH thực hiện nghĩa vụ của mình. Do vậy công tác thu BHXH là một công việc
đòi hỏi độ chính xác cao, thực hiện thường xuyên, liên tục, kéo dài trong nhiều năm
và có sự biến động về mức đóng và số lượng người tham gia.
- Công tác thu BHXH vừa đảm bảo cho quỹ BHXH được tập trung về một mối,
vừa đóng vai trò như một công cụ thanh kiểm tra số lượng người tham gia BHXH
biến đổi ở từng khối lao động, cơ quan, đơn vị ở từng địa phương hoặc trên phạm vi
toàn quốc. Bởi công tác thu BHXH cũng đòi hỏi phải được tổ chức tập trung thống
nhất có sự ràng buộc chặt chẽ từ trên xuống dưới, đảm bảo an toàn tuyệt đối về tài
chính, đảm bảo độ chính xác trong ghi chép kết quả đóng BHXH của từng cơ quan
đơn vị cũng như của từng người lao động. Hơn nữa, hoạt động thu BHXH là hoạt
động liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của cả một đời người và có tính kế thừa,
số thu BHXH một phần dựa trên số lượng người tham BHXH để tạo lập lên quỹ
BHXH, cho nên nghiệp vụ của công tác thu BHXH có một vai trò hết sức quan
trọng và rất cần thiết trong thực hiện chính sách BHXH. Bởi đây là khâu đầu tiên
giúp cho chính sách BHXH thực hiện được các chức năng cũng như bản chất của
mình.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×