Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Chế độ pháp lý của hợp đồng thuê nhà xưởng và thực tiễn áp dụng tại CIRT - 7 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.76 KB, 11 trang )

vừa qua chưa có một vụ tranh chấp xảy ra trong quan hệ hợp đông thuê nhà xưởng
giữa công ty với bên cho thuê, và luôn giữ được mối quan hệ tốt đẹp với đối tác.
Chương III
Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà
xưởng tại Công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRT)
I. Đánh giá về thực tiễn ký kết 2 thực hiện hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà xưởng
tại Công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất
Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế về việc thuê nhà xưởng tại Công ty
quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI) có những thuận lợi và khó khăn cơ bản từ
phía Công ty như sau:
1. Những thuận lợi
Trong những năm qua việc ký kết và thực hiện hợp đồng thuê nhà xưởng được diễn
ra suôn sẻ và thuận lợi là do những mạt sau:
- Trình độ cán bộ công nhân viên đã được nâng cao về mọi mặt, các nghiệp vụ lẫn
hiểu biết về pháp luật đặc biệt là am hiểm về mặt pháp luật ngày càng được vững
vàng hơn.
- Nhờ sự tìm hiểu, nghiên cứu về thị trường và đối tác một cách tỷ mỉ và sâu rộng
như: tình hình tài chính, tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác (bên cho thuê),
tình hình thị trường thuê mua tài chính Từ đó, thu thông được những thông tin cần
thiết, đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác lập mối quan hệ kinh tế với các
đối tác và tiến hành giao kết hợp đồng.
- Quá trình đàm phán và ký kết diễn ra nhanh chóng và thuận lợi. Vì việc đàm phán,
ký kết hợp đồng được dựa trên cơ sở thoả thuận từ các hợp đồng trước đó (nếu bên
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
cho thuê là đối tác lâu năm), đồng thời dựa trên sự uy tín của Công ty. Đối với các
đối tác là bên cho thuê mới lần đầu tiên xác lập quan hệ hợp đồng thì dựa trên cơ sở
tìm hiểu, thu thập thông tin kỹ lưỡng mà việc đàm phán, ký kết cũng như việc thực
hiện hợp đồng được nhanh chóng và đạt hiệu quả.
2. Những khó khăn
Bên cạnh những mặt thuận lợi trên thì cũng có những khó khăn sau:
- Tuy trình độ của cán bộ công nhân viên của Công ty được nâng cao song vẫn còn


nhiều hạn chế chưa đáp ưngs sự "nhanh nhạy" tình hình thực tế. Hơn nữa, các chế
độ, chính sách và luật pháp do Nhà nước ban hành luôn có sự thay đổi nên không
thể cập nhật được hết.
- Thị trường thuê mua tài chính cũng thường có biến động thất thường nên cũng có
ảnh hưởng không toót tỏng quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng thuê nhà xưởng, lý
do là từ phía bên cho thuê.
- Nhiều khi vì mục đích phục vụ cho các phương án kinh doanh (lợi ích kinh tế ) mà
việc thực hiện hợp đồng không đúng nghĩa vụ cam kết.
- Việc soạn thảo hợp đồng thuê nhà xưởng còn có nhiều điều khoản rất đơn sơ, chưa
thật cụ thể theo quy định của pháp luật.
Ví dụ: Trong hợp đồng thuê nhà xưởng ngày 25/2/2001 trong điều khoản giá cả
không quy định rõ tổng giá trị hợp đồng là giám tạm thời hay giá cố định. Bởi vì,
trong thời gian thuê rất dài thì sẽ có sự biến động của giá cả.
- Nhiều khi trong quá trình thực hiện hợp đồng, có phát sinh, thay đổi hợp đồng
thuê nhà xưởng nhưng hai bên lại không làm phụ lục mà chỉ thoả thuận trên cơ sở
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
tin cậy (bằng miệng) vì thế khi có tranh chấp xảy ra thì hai bên sẽ không có cơ sở để
giải quyết tranh chấp (nếu có).
Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng thuê nhà xưởng tại Công ty quan hệ
quốc tế - Đầu tư sản xuất, bên cạnh những thuận lợi khó khăn từ phía Công ty thì
cũng có một số nguyên nhân ảnh hưởng từ hía các quy định của pháp luật trong việc
áp dụng.
3. Một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật
Trong các văn bản pháp luật điều chỉnh trực tiếp các quan hệ hợp đồng kinh tế thì
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế (đ• dẫn) có ảnh hưởng to lớn và sâu rộng nhất, là nguồn
luật điều chỉnh chủ yếu trong chế độ hợp đồng kinh tế . Vai trò của Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế rất quan tọng trong quá trình xác lập quan hệ hợp đồng kinh tế với bản
chất đúng nghi• của nó đó là việc xác lập quan hệ hợp đồng dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng, cũng có lợi và không trái pháp luật. Tuy nhiên, Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế được ban hành vào thời kỳ đầu của công cuộc đổi mới nền kinh tế khi

mà nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần chưa được định hình rõ rệt, tri thức của
chúng ta về nền kinh tế thị trường còn hạn chế. Do đó, các quy định trong Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế còn có nhiều điểm hạn chế, nhiều quy định còn quá sơ sài chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn hiện nay của nền kinh tế. Đây là điều tốt của quá
trình phát triển đi lên của đất nước.
Chúng ta có thể liệt kê những hạn chế trong các quy định của Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế như sau:
3.1. Sự không rõ ràng trong phạm vi điều chỉnh của pháp lệnh hợp đồng kinh tế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Hiện nay chúng ta đã ban hành rất nhiều luật, Bộ luật khác nhau thuộc về các lĩnh
vực khác nhau, song trong các quy định của các luật, Bộ luật đó cũng có những vấn
đề liên quan đến lĩnh vực hoạt động kinh tế như là: hoạt động thương mại trao đổi
hàng hoá trong Luật Thương mại hay là các hoạt động vận chuyển hàng hoá trong
Luật Hàng hải, Luật Hàng không…, đặc biệt vấn đề liên quan đến thuê mua, quyền
sử dụng, quyền sở hữu trong Luật dân sự (vấn đề này cũng có liên quan đến việc
xác lập hợp đồng thuê nhà xưởng). Vì vậy quan hệ nào thuộc phạm vi điều chỉnh
của Pháp luật hợp đồng kinh tế ? Đây cũng là vấn đề mà hiện nay chưa được quy
định rõ ràng, nhiều lúc còn chồng chéo nhau, bên cạnh đó lại có những vấn đề
không được quy định, bỏ sót như những quan hệ về tài sản. Chính sự không quy
định rõ ràng này đã gây lúng túng cho các chủ thể tham gia các quan hệ hợp đồng
kinh tế. Cụ thể, xong quan hệ hợp đồng về htuê nhà xưởng tại Công ty thì sự thoả
thuận về các điều khoản như quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản không được quy
định một cách rõ ràng cụ thể hơn Đó cũng là do sự quy định của pháp luật hợp
đồng kinh tế không rõ ràng nên việc áp dụng cũng trở nên khó khăn.
3.2. Sự không rõ ràng về hình thức của hợp đồng kinh tế
Điều 1 và Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: "Hợp đồng kinh tế là sự
thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch ". Nhưng việc ký kết hợp đồng kinh tế
theo hình thức giao tiếp (tài liệu giao dịch) quy định còn quá sơ sài, chưa quy định
cụ thể về sự hình thành hợp đồng kinh tế. Theo quy định tại Điều 11 - Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế" hợp đồng kinh tế được coi là đã hình thành và có hiệu lực pháp lý

từ thời điểm các bên đã vào văn bản hoặc từ khi các bên nhận được tài liệu giao
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
dịch thể hiện sự thoả thuận tất cả những điều khoản chủ yếu của hợp đồng trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác đối với từng hợp đồng kinh tế.
Quy định này chưa thực sự rõ ràng vì chưa lường hết được sự phức tạp của việc ký
kết hợp đồng kinh tế. Bởi theo quy định trong Điều 11 - Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
thì các bên chỉ thống nhất với nhau về những điều khoản chủ yếu trong hợp đồng
còn những điều khoản khác ngoài hợp đồng (không đưa vào hợp đồng) cũng có thể
là lý do để hợp đồng không thể hình thành được. Tức là những điều khoản thoả
thuận gián tiếp qua tài liệu giao dịch nhiều khi lại không có giá trị pháp lý. Vì theo
quy định tại phần VII Tông tư 108TT/PC của trọng tài kinh tế Nhà nước thì những
chứng thư hợp đồng kinh tế không chứng minh cho một hợp đồng kinh tế hợp pháp
mà chỉ chứng minh cho một sự kiện pháp lý hay cho một quan hệ hợp đồng giữa
các chủ thể mà thôi. Chính điều này rất dễ gây tranh chấp giữa các bên tham gia
hợp đồng kinh tế.
Vì lý do đó, mà trong quá trình ký kết hợp đồng thuê nhà xưởng tại Công ty nhiều
lúc không áp dụng hình thức ký kết hợp đồng gián tiếp qua tài liệu giao dịch với các
đối tác lâu năm, đó cũng là một hạn chế đối với việc giao kết hợp đồng kinh tế.
3.3. Những hạn chế trong quy định về chủ thể hợp đồng kinh tế
Điều 2 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định: Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa
các bên:
- Pháp nhân với pháp nhận
- Pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Như vậy, chủ thể hợp đồng kinh tế ít nhất một bên phải có tư cách pháp nhân còn
bên kia có thể là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng ký kinh doanh.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
Trong giai đoạn hiện nay quy định như trên là không phù hợp với thực tiễn, bởi
cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần rất nhiều chủ thể
kinh doanh mới ra đời trong số đó không phải chủ thể nào cũng có tư cách pháp
nhân (như Doanh nghiệp tư nhân, Công ty hợp danh ). Điều muốn nói ở đây là khi

các chủ thể không có tư cách pháp nhân này ký kết hợp đồng với nhau với mục đích
kinh doanh thì hợp đồng đó vẫn không được coi là hợp đồng kinh tế. Thực tế các
tranh chấp từ hợp đồng này lại được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự (giải
quyéet tịa Toà án dân sự) mà không được giải quyết bởi trọng tài kinh tế hoặc Toà
án kinh tế. Đây là điều hạn chế đối với các chủ thể không có tư cách pháp nhân
muốn xác lập hợp đồng kinh tế với nhau vì mục đích kinh doanh.
Chính vì thế mà hạn chế quyền tự do kinh doanh của các chủ thể, gây ra sự bất lợi
cho các chủ thể kinh doanh không phải là pháp nhân và sự bất bình đẳng giữa các
chủ thể. Hơn ưữa, việc quy định hợp đồng kinh tế được ký kết giữa một bên là pháp
nhân với một bên là cá nhân có đăng ký kinh doanh nhưng phải có mục đích kinh
doanh chứ không phải là mục đích tiêu dùng. Điều này cũng có hạn chế trong việc
mở rộng giao kết hợp đồng của các chủ thể có mục đích kinh doanh. Vì có những
trường hợp phía chủ thể khác có thể đáp ứng được nhu cầu kinh doanh của mình
nhưng lại không được phép xác lập hợp đồng kinh tế với chủ thể đó.
Đây cũng là điều hạn chế đối với Công ty trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng
thuê nhà xưởng.
Trên đây là những hạn chế đã trở thành nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến quá
trình ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nói chung và hợp đồng thuê nhà xưởng
tại Công ty Quan hệ quốc tế - Đầu tư Sản xuất nói riêng. Ngoài ra còn có những hạn
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
chế khác nữa trong quy định của chế độ hợp đồng kinh tế. Đó cũng là lý do để có
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp lýa hợp đồng kinh tế.
II. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế và việc thuê nhà
xưởng Công ty quan hệ quốc tế - Đầu tư sản xuất (CIRI)
1. Sự cần thiết và yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng kinh tế
1.1. Sự cần thiết phải có những thay đổi nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng
kinh tế
Pháp luật với vai trò là một phần của kiến trúc thượng tầng, được hình thành và quy
định bởi các điều kiện vật chất của hạ tầng co sở. Pháp luật cũng là sự phản ánh của
quy luật khách quan của sự phát triển xã hội. Pháp luật một mặt phụ thuộc vào kinh

tế, mặt khác lại có sự tác động trở lại đối với kinh tế. Mối quan hệ đó thể hiện ở
chỗ: nội dung của các quy phạm pháp luật là do các quan hệ kinh tế xã hội quuyết
định. Chế độ kinh tế là cơ sở của pháp luật. Mọi sự thay đổi xã hội ở tầm vĩ mô bao
giờ cũng kéo theo sự thay đổi của pháp luật. Khi nước ta chuyển đối cơ chế quản lý
kinh tế thì pháp luật cũng thay đổi theo để đáp ứng yêu cầu phát triển chung của
toàn xã hội. Vì thế, so sánh với thực tế hiện nay đã đến lúc phải tiến hành hoàn
thiện chế độ pháp luật về hợp đồng kinh tế.
* Về điều kiện kinh tế - xã hội.
Trước đay, khi Nhà nước quản lý kinh tế theo kế hoạch, nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung đã làm hợp đồng kinh tế mất đi giá trị đích thực của nó. Đến khi Nhà nước
ta chuyển sang cơ chế quản lý kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế mang một sắc
thái mới xuất hiện, và để đáp ứng những đòi hỏi đó, chế độ hợp đồng kinh tế cũng
có những thay đổi căn bản. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
nền kinh tế còn có nhiều khó khăn về vật chất, nền kinh tế hình thành chưa đầy đủ,
hơn nữa không tri thức về luật pháp còn hạn chế. Do đó, việc xây dựng hệ thống các
quy tắc xử sự trong đời sống kinh tế chưa thật sự đầy đủ và hoàn thiện. Cho đến nay
khi nền kinh tế thị trường đã có những chuyển biến mới cả về chiều rộng, chiều sâu,
và ngày càng thể hiện rõ các quy luật khách quan (quy luật cạnh tranh, quy luật giá
trị, quy luật cung cầu ). Nền kinh tế thị trường bộc lộ rõ bản chất của nó đó là sự
xuất hiện nhiều thành phần kinh tế hoạt động dưới nhiều hình thức khác nhau với
nguyên tắc tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh. Hơn nữa, việc mở rộng quạ hệ hợp
tác với các quốc gia trê thế giới, việc gia nhập các tổ chức thế giới của nước ta là
nhằm thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đây là nguồn đóng góp không nhỏ cho quá
trình phát triển kinh tế đất nước.
Chính vì thế, trong nền kinh tế sẽ xuất hiện nhiều chủ thể tham gia quan hệ kinh tế,
điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống các quy phạm pháp luật hoàn chỉnh để điều
chỉnh các quan hệ đó. Hay nói cách khác, các quy định trong chế độ hợp đồng kinh
tế hiện nay chưa đáp ứng hết nhu cầu thực tế.
* Về mặt pháp luật:

Kinh tế - xã hội ngày càng phát triển thì đòi hỏi hệ thống pháp luật cũng phát triển
theo. Hai mặt này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tác động và phụ thuộc lẫn
nhau. Vì thế, nếu những quy phạm pháp luật mà lạc hậu chắc chắn sẽ kìm hãm sự
phát triển của đất nước.
Pháp luật hợp đồng kinh tế được ban hành năm 1989, là thời kỳ đầu của công cuộc
đổi mới kinh tế ở nước ta. Khi đó tư duy pháp luật về nền kinh tế thị trường còn
nhiều hạn chế, kinh tế - xã hội cũng chưa có nhiều thay đổi. Nhưng sau 15 năm đổi
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
mới điều kiện về kinh tế - xã hội đã thay đổi rất nhiều. Do đó, những quy định trong
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã bộc lộ rất nhiều điểm yếu, nó không thể đáp ứng
được hết các yếu tố của thực tiễn hiện nay. Yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu tìm ra
giải pháp tốt nhất cho việc sửa đổi, hoàn thiện Pháp lệnh hợp đồng kinh tế.
Mặt khác, Pháp lệnh hợp đồng kinh tế ra đời trước khi có Bộ luật dân dự và Luật
Thương mại. Vì thế hiện nay trong ba văn bản này có nhiều quy định chồng chéo
nhau nên đã tạo ra khe hở pháp luật cho việc trục lợi. Bởi vì Bộ Luật dân sự và Luật
Thương mại ra đời khi mà điều kiện kinh tế - xã hội tương đối đầy đủ nên nó tiến bộ
hơn nhiều so với Pháp lệnh hợp đồng kinh tế .
Sau đây chúng ta sẽ xem xét tính không đồng bộ ở ba văn bản trên:
Trước hết, cần xem xét mối quan hệ giữa Pháp lệnh hợp đồng kinh tế với Bộ luật
dân sự. ở đây, chúng ta chỉ xem xét về khía cạnh quan hệ hợp đồng. Đối với các
quan hệ hợp đồng kinh tế thì do Pháp lệnh hợp đồng kinh tế điều chỉnh (cụ thể là
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế) đó là những quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể có điều
kiện nhằm mục đích sinh lời. Còn đối với các quan hệ hợp đồng dân sự cho pháp
luật dân sự điều chỉnh (cụ thể Bộ luật dân sự) là quan hệ hợp đồng phá sinh giữa các
chủ thể nhằm mục đích tiêu dùng. Tuy nhiên, trong bộ luật dân sự lại điều chỉnh
một số quan hệ mang tính chất kinh doanh rất cao như quan hệ hợp đồng giữa hai
chủ thể nhằm mục đích sinh lời hoặc một chủ thể bán quyền tác giả cho một tổ chức
nào đó, đây cũng có thể được coi là hình thức kinh doanh chất xám trong nền kinh
tế trí thức Song những quan hệ này lại không thuộc phạm vi của Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế. Tiếp đến, chúng ta xem xét mối quan hệ giữa Pháp lệnh hợp đồng

kinh tế với Luật Thương mại . ở cả hai nguồn này chúng ta có thể tìm thấy các chế
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
định điều chỉnh cùng một loại hàng hoá tiền tệ đó là quan hệ mua bán hàng hoá,
trong đó pháp nhân có thể trở thành thương nhân và ngược lại. Đây chính là vấn đề
được coi là trùng lặp giữa Luật Thương mại và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Điều
này đã gây sự lúng túng cho các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng
hoá bởi họ không biết nên căn cứ vào luật nào. Tuy nhiên đối tượng điều chỉnh của
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế rộng hơn rất nhiều, còn Luật Thương mại thì đối tượng
điều chỉnh của nó chỉ giới hạn bởi khái niệm "hàng hoá". Mặc dù vậy nhưng trong
quan hệ hợp đồng thì ở hai văn bản này cũng có sự trùng lặp.
Như vậy, việc phân biệt ba nguồn luật là rất phù hợp với tư duy của người Việt
Nam hiện nay, nên việc nghiên cứu để đưa phương hướng hoàn thiện Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế là một yêu cầu cần thiết.
1.2. Yêu cầu cần thiết của việc hoàn thiện pháp luật hợp đồng kinh tế
Như đã phân tích ở trên, yêu cầu cấp thiết hiện nay để hoàn thiện pháp luật hợp
đồng kinh tế là chúng ta phải nghiên cứu làm thế nào để pháp luật về hợp đồng kinh
tế thực sự phát huy hết hiệu lực của nó, nhằm thúc đẩy các hoạt động của nền kinh
tế mang lại các hiệu quả thiết thực nhất. Để thực hiện điều đó, không còn cách nào
khác là phải xây dựng một hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế một cách đầy đủ,
đồng bộ và phù hợp với quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế xã hội.
Thứ nhất, phải phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội.
Hiện nay, chủ trương của nước ta là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước và theo định hướng XHCN
đã đặt ra nhiều yêu cầu mới. Đó là giữa các thành phần kinh tế với nhau, trong quá
trình hoạt động vừa có sự cạnh tranh gay gắp vừa trhể hiện tính hợp tác, đùng thời
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -
các thành phần kinh tế đó đòi hỏi có một sự thừa nhận và bảot vệ quyền sở hữu hợp
pháp, quyền tự do kinh doanh Như vậy, yêu cầu đặt ra là Nhà nước không nên can
thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh doanh của các thành phần kinh tế mà chỉ nên can
thiệp thông qua các chính sách, pháp luật nhằm tạo luật môi trường cạnh tranh lành

mạnh, một hành lang pháp lý vững chắc để các quan hệ kinh tế giữa mọi thành phần
kinh tế được hình thành và thực hiện trên cơ sở của nguyên tắc tự do, bình đẳng
cũng có lợi và tự chịu trách nhiệm trong quan hệ kinh tế đó (cụ thể là trong quan hệ
hợp đồng kinh tế) theo pháp luật.
Thứ hai, phải phù hợp với các văn bản pháp luật khác. Trong thời gian qua,
do nhu cầu của điều kiện kinh tế xã hội mà đã có nhiều văn bản pháp luật quan
trọng đã được ban hành trong lĩnh vực kinh tế nói riêng và trong mọi lĩnh vực nói
chung. Đáng chú ý nhất là Bộ Luật dân sự, Luật thương mại và gần đây nhất là Luật
doanh nghiệp Do đó, yêu cầu đặt ra cho việc sửa đổi pháp lệnh hợp đồng kinh tế
phải chú ý đến việc bảo đảm sự thống nhất với các văn bản pháp luật khác nhằm
tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, từ đó tạo ra điều kiện
thuận lợi trong việc áp dụng. Vì nếu không có sự thống nhất giữa các văn bản thì
những qui định của pháp luật sẽ tạo ra khe hở trong pháp luật như hiện nay, chính
điều đó sẽ là sự kìm hãm cho sự phát triển đất nước.
Thứ ba, phải phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hiện nay, xu hướng quốc tế hoá ngày càng được mở rộng trên mọilĩnh vực.Việt
nam trên con đường giao lưu, hợp tác làm ăn với các quốc gia trên thế giới cần phải
hoà nhập để mở rộng giao lưu thương mại, mở rộng thị trường nhằm thúc đẩy sự
hợp tác kinh tế với các nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chính vì thế, pháp
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version -

×