Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (548.05 KB, 97 trang )

Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức thiết lập quan hệ. Sự xuất hiện, tồn tại và
phát triển của hợp đồng đã chứng minh đó là một hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả trong
việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá và tiền tệ. Khi nền kinh tế phát triển, xã hôi văn minh thì
việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết, càng được coi trọng và
hoàn thiện.
Ở nước ta, việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng đã được áp dụng từ lâu, song
nó chỉ được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh khi nước ta bước vào công cuộc đổi mới với nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước. Để đáp ứng đòi hỏi khách quan
của nền kinh tế cần một hệ thống pháp luật thống nhất để điều chỉnh quan hệ hợp đồng và để tạo
điều kiện thuận lợi về mặt pháp luật khi đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, WTO, ngày 14/6/2005
Quốc hội khoá XI đã ban hành Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại có hiệu lực thi hành kể từ
ngày 1/01/2006 để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005 và Luật
Thưoơg mại 2005 là cần thiết và quan trọng, đã tiến một bước dài trong việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Khi đến thực tập tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường, vấn đè ký kết và
thực hiện hợp đồng của Công ty đã thu hút sự quan tâm của em, trong đó hợp đồng mua bán hàng
hoá chiếm tới 90% tổng số các loại hợp đồng tại Công ty. Hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò
quan trọng đối với mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là quan hệ trao đổi hợp pháp mà tất cả các
tổ chức sản xuất, kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển của chúng.
Bởi vây, em đã chọn đề tài: "Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng
tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường" để là ꗬ Á ꗬ Љ2ꗬ¿22ꗬ 22؀2ꗬꗬꗬꗬ
222222222Љ
ꗬ ꗬ ꗬ 22ê2222222Ű222¤2222¤2222¤22222222¤2 2ꗬ222ꗬ2ꗬ222ꗬ222ꗬ222ꗬ222ꗬ2µ22222ꗬ 2 ꗬ 2 ꗬ
22 ꗬ 22 ꗬ 82ꗬ ꗬ 2 ꗬ ˤ2ꗬ 222̤ǀ2ꗬ ꗬ 2 ꗬ "2ꗬ 22 ꗬ 22 ꗬ 22 ꗬ ꗬ 2 ꗬ ͬ2ꗬ Ƹ2ꗬ 2ꗬ 22ꗬ 22ꗬ 22ꗬ
22ꗬ 22ꗬ $2Ӥɨ 2ꗬL 2ﹹ ѥ222222222ꗬ222  2222222222 ꗬ Ɗ2ꗬ 22  22  22ﹹ 2huyên đề này sẽ chỉ
đề cập đến những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá trong


nước.
Bố cục của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được kết cấu thành ba
chương:
Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá
Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty cổ phần
công nghiệp dịch vụ Cao Cường
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá
Chuyên đề được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình, khoa học của Tiến sĩ Nguyễn Hợp
Toàn cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô chú CB CNV công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ
Cao Cường. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu đó.
Do năng lực chuyên môn còn hạn chế nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót nhất
định về nội dung và hình thức, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn
có quan tâm đến vấn đề này để đề tài được hoàn thiện hơn.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1. Quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, WTO
1.1. Kinh tế thị trường và mối quan hệ trong nền kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các yếu tố "đầu
vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là một kiểu tố chức kinh
tế- xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản
xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản
phẩm mà nhằm để bán, tức để thỏa mãn nhu cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ
phát triển. Vế cơ bản chúng có cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
3

Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu thông hàng
hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế thị trường. Cơ chế thị
trường chính là một tổ chức kinh tế , trong đó người sản xuất và người tiêu dùng chịu sự tác động
chi phối lẫn nhau qua thị trường. Thị trường là nơi gặp gỡ của người mua và người bán, của người
sản xuất và người tiêu dùng. Trong nền kinh tế thị trường người sản xuất không chỉ sản xuất cái gì
mình có mà phải sản xuất cái gì thị trường cần. Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật của
nền kinh tế hàng hóa. Đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh... Thông qua
các hoạt động trao đổi mua bán, thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Nó điều tiết sản xuất, điều tiết tiêu dùng. Chính "bàn tay vô hình" của thị trường làm cho cơ cấu
sản xuất, cơ cấu hàng hóa phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng và chất lượng. Nó
xác lập mối quan hệ giữa người bán và người mua trên nguyên tắc cùng có lợi. Thị trường cung
cấp thông tin cần thiết cho nhà kinh doanh và tạo yếu tố cạnh tranh làm động lực cho sự phát triển
sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là tự do trao đổi các sản phẩm
hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán với giá cao, còn người
mua bao giờ cũng muốn mua với giá thấp, do đó mà cần có sự thống nhất ý chí, có sự thỏa thuận
giữa người bán và người mua thể hiện qua hợp đồng. Như vậy, hợp đồng về bản chất là sự thỏa
thuận, sự thống nhất ý chí giữa các bên tham gia ký kết theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình
đẳng không trái pháp luật.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của hệ thống các quan hệ hợp đồng, nếu thiếu hợp
đồng thì nền kinh tế không thể vận hành được.
1.2. Vai trò của hợp đồng trong nền kinh tế thị trường
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp trước đây, hợp đồng kinh tế được coi là
công cụ cơ bản đế quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ tiêu kế hoạch là cơ sở để các bên ký
kết hợp đồng kinh tế, do đó mà khi chỉ tiêu kế hoạch thay đổi, các bên cũng phải thay đổi hợp
đồng cho phù hợp. Vi phạm hợp đồng là vi phạm kế hoạch. Trong điều kiện đó hợp đồng kinh tế
chỉ là phương tiện để các đơn vị trao đổi sản phẩm cho nhau một cách hình thức, ghi nhận sự cấp
phát vật tư của Nhà nước cho các đơn vị kinh tế và sự giao nộp sản phẩm của các đơn vị kinh tế
cho Nhà nước mà thôi. Hợp đồng kinh tế "mất đi giá trị đích thực của mình với tư cách là hình

thức pháp lý chủ yếu của quan hệ kinh tế".
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận của các chủ thể kinh doanh
theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể sử dụng pháp luật để tác động
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp
đồng đó và lợi ích chung của toàn xã hội.
Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các chủ thể
kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể thực hiện được nếu người sản xuất
mua được nguyên vật liệu và ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng
cũng cụ thể hóa, chi tiết hóa kế hoạch sản xuất mua bán, giá cả, thời gian giao hàng...Như vậy nhu
cầu sản xuất kinh doanh là do người kinh doanh quyết định và thỏa thuận với khách hàng nhằm
đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận.
Thông qua việc đàm phán ký kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt được nhu cầu thị
trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản xuất kinh doanh có phù
hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình ký kết hợp đồng các doanh nghiệp chủ động cân
nhắc tính toán chênh lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh.
Thông qua hợp đồng kinh tế mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ kinh tế xã
hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật.
Khi hợp đồng được ký kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán giải quyết khi có tranh
chấp.
2. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1. Pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam
2.1.2. Pháp luật về hợp đồng trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với các
thành phần kinh tế còn nhỏ, phát triển chậm, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu lại chịu hậu quả chiến
tranh. Năm 1956, Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số 735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký
kinh doanh (đăng trên công báo số 10 ngày 5/5/1956). Đây là một văn bản pháp luật hợp đồng có

tên là "hợp đồng kinh doanh" điều chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện
thực hiện kế hoạch của Nhà nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, củng cố hậu
phương vững chắc làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Cơ chế kinh tế thay đổi, kéo ntheo sự thay đổi của pháp luật. Ngày 4/1/1960 Thủ tướng
Chính phủ đã ban hành Nghị định 004/TTg về Điều lệ tạm thời về chế độ hợp đồng kinh tế giữa
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Điều lệ này quy định một kiểu hợp đồng mới,
hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước và nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước đồng
thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán kinh tế. Như vậy, trong thời gian này các cơ
quan Nhà nước, các xí nghiệp đã lập và thực hiện hợp đồng kinh tế không phải xuất phát từ lợi ích
riêng của cơ quan, xí nghiệp mình mà nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước, vì lợi ích của Nhà
nước. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của hợp đồng kinh tế theo Điều lệ tạm thời về hợp đồng
kinh tế. Đặc trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung cao.
Ngày 10/3/1975 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/ CP ban hành Điều lệ về
chế độ hợp đồng kinh tế. Đây là bản điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ hợp đồng của nước ta
và nó có hiệu lực thi hành đến năm 1989. Để thực hiện hai Nghị định trên Nhà nước đã ban hành
hàng loạt văn bản hướng dẫn việc thực hiện hợp đồng kinh tế như: Quyết định số 113-TTg ngày
11/9/1965 và chỉ thị 17-TTg ngày 20/01/1967 của Thủ tướng Chính phủ...
Từ việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
chúng ta thấy có nhận xét sau đây :
Một là, pháp luật hợp đồng khi đó là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch Nhà
nước. Do nhà nước được coi là pháp lệnh nên việc ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế là kỷ luật
của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế.
Hai là, hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ mang tính chất tổ chức- kế
hoạch, còn yếu tố tài sản chỉ là thứ yếu. Vì những nội dung chủ yếu mà các bên thỏa thuận trong
hợp đồng kinh tế đều đã được xác định trong chỉ tiêu kế hoạch nhà nước, ý chí của các bên chỉ là
cụ thể hóa ý chí của nhà nước.
Ba là,chủ thể của hợp đồng kinh tế chỉ là các đơn vị tổ chức được giao chỉ tiêu kế hoạch

của nhà nước.
2.1.2. Pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, WTO
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Xuất phát từ quan điểm đòi hỏi phải mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các đơn vị kinh
tế, Đại hội toàn quốc lần th ꗬ Á ꗬ Љ7ꗬ¿77ꗬ 77؀7 ꗬ ꗬ ꗬ ꗬ 777777777Љ
ꗬ ꗬ ꗬ 77ê7777777Ű777¤7777¤7777¤77777777¤7 7ꗬ777ꗬ7ꗬ777ꗬ777ꗬ777ꗬ777ꗬ7µ77777ꗬ 7 ꗬ 7 ꗬ
77 ꗬ 77 ꗬ 87ꗬ ꗬ 7 ꗬ ˤ7ꗬ 777̤ǀ7ꗬ ꗬ 7 ꗬ "7ꗬ 77 ꗬ 77 ꗬ 77 ꗬ ꗬ 7 ꗬ ͬ7ꗬ Ƹ7ꗬ 7ꗬ 77ꗬ 77ꗬ 77ꗬ
77ꗬ 77ꗬ $7Ӥɨ 7ꗬL 7ﹹ ѥ777777777ꗬ777  7777777777 ꗬ Ɗ7ꗬ 77  77  77ﹹ 7ế mới coi nền kinh
tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng quan trọng, coi trọng việc sử dụng đúng đắn các
quan hệ hàng hóa- tiền tệ, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong việc tiếp cận
với nhu cầu thị trường. khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất kinh doanh, nhằm thực hiện
mục tiêu kế hoạch của doanh nghiệp. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi phải rà soát lại tất cả các
chính sách, chế độ, trong đó có pháp luật về hợp đồng kinh tế. Vì vậy ngày 25/9/1989 Hội đồng
Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và sau đó một loạt các văn bản như Nghị định
số 17/HĐBT , Quyết định số 18/HĐBT ngày 16/01/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác. Bộ
luật Dân sự do Quốc hội thông qua ngày 28/10/1995 có nhiều điều về hợp đồng dân sự; Luật
Thương mại thông qua ngày 10/5/1997 cũng có những quy định về hợp đồng trong một số hành vi
thương mại , nhưng thực tế của các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại , Pháp lệnh
hợp đồng kinh tế vẫn là căn cứ áp dụng chủ yếu. Nội dung cụ thể trong chế độ pháp lý về hợp
đồng quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên có nhiều điểm không thống nhất.
Theo quy luật kinh tế khách quan khi cơ sở kinh tế thay đổi đối với thành tựu to lớn của sự
phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế dẫn đến Pháp lệnh hợp đồng kinh tế đã được ban
hành từ năm 1989 đến nay lộ rõ nhiều bất cập. Trong điều kiện đó việc hoàn thiện, đổi mới các
quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng là vấn đề được đặt ra hết sức cấp thiết, có ý nghĩa
quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hơn nữa giao lưu kinh tế cũng như trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thực tiễn pháp luật hợp đồng không thống nhất , các quy định
còn nằm rải rác trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau, chồng chéo, loại trừ nhau, tạo ra lỗ hổng
pháp lý khiến cho người áp dụng và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp

dụng văn bản pháp luật về hợp đồng. Vì thế ngày 14/6/2005 Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội
khóa XI thông qua, trong đó có chế định về hợp đồng là nền tảng thống nhất và đồng bộ để điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh các
quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể.
Trong lĩnh vực hợp đồng thương mại thì luật hiện hành điều chỉnh đó là Bộ luật Dân sự
năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan. Những quy định
của Bộ luật Dân sự về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc, là nội dung cơ bản điều chỉnh các
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan hệ hợp đồng nói chung. Những văn bản luật chuyên ngành như: Luật Thương mại, Luật
Kinh doanh bảo hiểm, Luật Du lịch, Luật Cạnh tranh…là nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng trong lĩnh vực cụ thể. Nguyên tắc áp dụng luật là ưu tiên áp dụng các quy định của luật
chuyên ngành trước, những vấn đề không được quy định trong luật chuyên ngành thì áp dụng theo
quy định của Bộ luật Dân sự. Kể từ ngày 1/1/2006 khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại
2005 có hiệu lực thì Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 hết hiệu lực. Việc ban hành Bộ luật
Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 cũng như chấm dứt vai trò của Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế năm 1989 là cần thiết bởi hiện nay xu thế toàn cầu hóa , hội nhập kinh tế quốc tế và tự do hóa
thương mại đang là vấn đề nổi bật của nền kinh tế thế giới. Từ đó đòi hỏi mỗi quốc gia hoàn thiện
hệ thống pháp luật của nước mình theo hướng đồng bộ và có sự tương thích với luật pháp quốc tế.
Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau càng cao giữa các quốc gia và khu
vực. Các định chế và tổ chức kinh tế- thương mại khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục
vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá
trình giải quyết các vấn đề lớn của kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện
một cách đơn lẻ. Trong xu thế đó đòi hỏi luật pháp Việt Nam cũng phải theo kịp đời sống kinh tế
đang diễn ra hết sức sôi động, linh hoạt. Và một đặc điểm của luật pháp trong giai đoạn hiện nay
đó là phải nội luật hóa các điều ước quốc tế làm cho hệ thống pháp luật trong nước cũng tương
thích với luật quốc tế bảo đảm cho hội nhập quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006 và việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật theo yêu cầu của WTO cũng là một trong các điều kiện để nước ta có đầy đủ điều kiện

để trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại toàn cầu này.
2.2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
2.2.1. Hợp đồng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Cũng như những chủng loại hợp đồng khác, hợp đồng thương mại là sự thỏa thuận giữa
các bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý trong những quan hệ kinh
doanh cụ thể.
- Trong hợp đồng, yếu tố cơ bản nhất là sự thể hiện ý chí, tức là sự ưng thuận giữa các bên
với nhau. Nguyên tắc này là nguyên tắc thỏa thuận và được coi là tiến bộ của kỹ thuật pháp lý
hiện đại.
Nguyên tắc thỏa thuận là hệ quả tất yếu của tự do hợp đồng, khi giao kết hợp đồng các bên
được tự do quyết định nội dung của hợp đồng, tự do xây dựng phạm vi nghĩa vụ của các bên.
Đương nhiên tự do hợp đồng ở tất cả các nước trên thế giới không phải là tự do tuyệt đối mà là tự
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
do trong khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng hóa là giao dịch pháp lý hợp pháp, do vậy
sự ưng thuận ở đây là lẽ công bằng, hợp pháp. Hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu là giao kết dưới tác
động của sự lừa dối, cưỡng bức, đe dọa hay mua chuộc.
Ý chí chỉ phát sinh nghĩa vụ khi người giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực hành vi để
thành lập hợp đồng. Các bên giao kết hợp đồng thông qua người đại diện của mình (có thể là
người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền). Người đại diện chỉ được giao
kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện. Phạm vi thẩm quyền của người đại
diện được quy định bởi pháp luật, điều lệ doanh nghiệp hay văn bản ủy quyền. Hợp đồng được
giao kết bởi người không có thẩm quyền đại diện thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với
cá nhân, tổ chức được đại diện .
- Mọi hợp đồng đều phải có đối tượng xác thực. Đối tượng của hợp đồng phải được xác
định rõ rệt, phải có thể thực hiện được và hợp pháp. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp
thì hợp đồng vô hiệu. Đó là một nguyên tắc cơ bản của luật hợp đồng được thừa nhận chung trên
thế giới. Sau khi hợp đồng được thành lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng
buộc, các bên bắt buộc phải thực hiện các cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn đến

tranh chấp pháp lý mà bên vi phạm sẽ phải gánh chịu. Hợp đồng được thành lập hợp pháp có hiệu
lực ràng buộc đối với cơ quan tài phán được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, xử lý
các vi phạm của hợp đồng bằng tòa án hay trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản mà các bên đã
thỏa thuận trong hợp đồng.
2.2.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một vấn đề nhất
định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền hay nghĩa vụ của các bên
đó. Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự một cách khái quát như sau:
"Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388).
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng cụ thể, mặt khác hợp đồng mua bán
hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động mua bán hàng hóa. Với "mua bán hàng hóa là hành vi
thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người
mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của
hai bên" (Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại 2005).
Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa muốn có hiệu lực được pháp luật bảo vệ thì phải tuân
theo những quy định của pháp luật về các điều khoản có hiệu lực của hợp đồng.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thường thì các bên giao kết phải có
đầy đủ năng lực hành vi.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tức là nó xuất phát từ ý chí
thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận của hợp đồng đó.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối tượng hợp
đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên cạnh đó nội dung của
hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng phải cụ thể và có tính khả thi.
Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thực hiện được thì hợp đồng cũng không được coi là
có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù hợp với

những quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng mua bán hàng hóa.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quan điểm trên cho thấy trong điều kiện cơ chế kinh tế mới, Nhà nước có quan niệm mới
về hợp đồng mua bán hàng hóa, quan niệm chuyển từ thương nhân chỉ được làm những gì nhà
nước cho phép sang được làm những gì nhà nước không cấm, từ đó rút ra những đặc điểm của
hợp đồng mua bá ꗬ Á ꗬ Љ11ꗬ¿1111ꗬ 1111؀11 ꗬ ꗬ ꗬ ꗬ 111111111111111111Љ
ꗬ ꗬ ꗬ
1111
ê11111111111111Ű111111¤11111111¤11111111¤1
111111111111111¤11 11ꗬ111111ꗬ11ꗬ111111ꗬ111111ꗬ111111ꗬ111111ꗬ11µ1111111111ꗬ 11
ꗬ 11 ꗬ 1111 ꗬ 1111 ꗬ 811ꗬ ꗬ 11 ꗬ ˤ11ꗬ 111111̤ǀ11ꗬ ꗬ 11 ꗬ "11ꗬ 1111 ꗬ 1111 ꗬ 1111 ꗬ
ꗬ 11 ꗬ ͬ 11 ꗬ Ƹ11ꗬ 11ꗬ 1111ꗬ 1111ꗬ 1111ꗬ 1111ꗬ 1111ꗬ $11Ӥɨ 11ꗬL 11ﹹ
ѥ111111111111111111ꗬ111111  11111111111111111111 ꗬ Ɗ11ꗬ 1111  1111  1111ﹹ 11n
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Các thương
nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình
thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, hợp đồng thương mại còn được
ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại. Các tổ chức kinh tế
được thành lập hợp pháp có thể bao gồm các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, công ty nhà nước, và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm
các hộ kinh doanh cá thể có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách
thường xuyên, độc lập.
Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được phép mua
bán theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành, đối với hàng hóa thuộc danh mục hàng
hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì thương nhân phải thực hiện đầy đủ quy định
hiện hành của pháp luật về kinh doanh các hàng hóa đó.
Nội dung của hợp đồng chứa đựng những nội dung cơ bản của một hợp đồng mua bán
hàng hóa là: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, địa điểm và
thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải thêm những điều kiện để đảm bảo quyền lợi cho

các bên nếu có tranh chấp xảy ra như nơi giải quyết tranh chấp, phương thức giải quyết tranh
chấp. Do loại hợp đồng này có đặc điểm là các bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận nên đòi hỏi
nội dung của hợp đồng phải đầy đủ, rõ ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy các
bên cần chú ý thận trọng soạn thảo nội dung của hợp đồng. Chẳng hạn đối với điều khoản tên
hàng, cần kèm theo có mã số và mẫu hàng, đối với điều khoản về số lượng và trọng lượng cần
chọn những đơn vị đo lường thống nhất, trường hợp không có đơn vị đo lường thống nhất thì cần
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
có điều khoản giải thích, đối với điều khoản về thanh toán cần quy định rõ ràng đồng tiền thanh
toán và phương thức thanh toán...
Về hình thức của hợp đồng. Theo quy định tại Luật Thương mại 2005, hợp đồng thương
mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Như vậy,
hình thức của hợp đồng là rất đa dạng, linh hoạt, tùy trường hợp cụ thể mà các bên thỏa thuận để
chọn hình thức nào cho phù hợp với hợp đồng mua bán hàng hóa được giao kết phù hợp với quy
định của pháp luật.
II. CHẾ ĐỘ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa:
Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006
(Bộ luật Dân sự 2005); Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực
kể từ ngày 1/1/2006 (Luật Thương mại 2005); và các văn bản pháp luật có liên quan.
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình thương lượng giữa các bên theo những
nguyên tắc và trình tự nhất định để đạt được sự thỏa thuận, qua đó xác lập các quyền và nghĩa vụ
của các bên với nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải bảo đảm theo những nguyên tắc được quy định
tại điều 389 Bộ luật Dân sự 2005 đó là:
-Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
-Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ Điều 10 đến

Điều 15 của mục 2 chương 1 Luật Thương mại 2005. Đó là:
-Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương mại
(Điều 10)
-Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11)
-Nguyên tắc áp dụng thói quen, tập quán trong hoạt động thương mại (Điều 12 và 13)
-Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14)
-Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại
(Điều 15)
Trong các nguyên tắc điều chỉnh chế độ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa sau đây xin
được làm rõ một số nguyên tắc quan trọng sau:
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.1. Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không trái pháp luật, đạo đức xã hội
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép cá nhân, tổ chức được tự do quyết định trong
việc giao kết hợp đồng với ai, như thế nào, với nội dung, hình thức nào. Hợp đồng phải xuất phát
từ ý muốn chủ quan và lợi ích của các chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do thỏa thuận muốn được pháp
luật bảo vệ khi có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ dẫn đến tranh chấp thì phải nằm trong khuôn khổ
của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Vì lợi ích của mình, các chủ thể phải hướng
tới việc không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích của toàn xã
hội.
1.2. Nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Theo nguyên tắc này, các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng phải bảo
đảm nội dung của các quan hệ đó, thể hiện được sự tương xứng về quyền và nghĩa vụ trong hợp
đồng, bảo đảm lợi ích cho các bên. Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân, tổ chức dù thuộc
thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý khi ký kết hợp đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa
vụ. Khi hợp đồng đã được xác lập thì phải bảo đảm quyền và nghĩa vụ tương xứng giữa các chủ
thể, có thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa vụ thì mới được hưởng quyền, nếu vi phạm phải bị xử lý.
Sự bình đẳng được đề cập ở đây là sự bình đẳng về mặt pháp lý, sự bình đẳng trước pháp
luật chứ không phải là sự bình đẳng về mặt kinh tế giữa các chủ thể. Dựa trên cơ sở tự nguyện

cùng nhau giao kết hợp đồng, nhưng nếu giữa các bên không có thiện chí, thiếu sự hợp tác chặt
chẽ với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thì việc xác lập hợp đồng này cũng không mang lại lợi
ích tối đa cho các bên trong quan hệ hợp đồng. Thêm vào đó, trong giao kết hợp đồng các bên
phải thể hiện sự trung thực, ngay thẳng thì mới có thể trở thành đối tác lâu dài của nhau trong các
quan hệ thương mại đặc biệt là trong quan hệ mua bán hàng hóa.
1.3. Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu.
Theo nguyên tắc này trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều
kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá trị pháp lý tương
đương văn bản (thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi, nhận và lưu giữ bằng phương
tiện điện tử).
2. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo quy định của Luật Thương mại 2005 chủ thể của hợp đồng phải là thương nhân hoạt
động thương mại, tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại.
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mụch đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa,
cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mụch đích sinh lợi khác.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Có thể phân chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa thành các loại sau:
2.1. Chủ thể là thương nhân
Để xác định một thỏa thuận có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa hay không thì việc
trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ đồng đó có phải là thương nhân hay không, sau
đó mới xem xét đến đối tượng của hợp đồng. Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành
lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh.
Luật Thương mại 2005 cũng thừa nhận thương nhân thực tế bằng việc không đặt điều kiện
đăng ký kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc để được công nhận là thương nhân.
Đăng ký kinh doanh là nghĩa vụ của thương nhân nhưng đối với trường hợp chưa đăng ký kinh
doanh, thương nhân vẫn phải chịu mọi trách nhiệm về mọi hoạt động của mình. Quy định này đã
giải quyết những vấn đề đã đặt ra trong thực tế là người không đăng ký kinh doanh nhưng có hành

vi kinh doanh thì có được coi là thương nhân không. Nhưng quy định này lại có phần không rõ
ràng vì nó không giới hạn trách nhiệm của thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì
vậy, một tổ chức, cá nhân trước khi đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không nhằm mụch
đích sinh lợi có thể vẫn phải chịu trách nhiệm như thương nhân.
2.1.1. Thương nhân là cá nhân.
Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên như một
nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành thương nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một
cách độc lập thường xuyên như một nghề mà chưa đăng ký kinh doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại, do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ về
hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau đây không được công nhận là thương nhân:
- Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hính sự, người đang phải chấp hành hình phạt tù;
- Người đang trong thời gian bị tòa án cướp quyền hành nghề vì các tội buôn lậu, đầu cơ,
buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hóa, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối
khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Thương nhân là tổ chức
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong ꗬ Á ꗬ Љ15ꗬ¿1515ꗬ 1515؀15 ꗬ ꗬ ꗬ ꗬ 151515151515151515Љ
ꗬ ꗬ ꗬ
1515
ê15151515151515Ű151515¤15151515¤15151515¤1
515151515151515¤15 15ꗬ151515ꗬ15ꗬ151515ꗬ151515ꗬ151515ꗬ151515ꗬ15µ1515151515ꗬ 15 ꗬ 15
ꗬ 1515 ꗬ 1515 ꗬ 815ꗬ ꗬ 15 ꗬ ˤ15ꗬ 151515̤ǀ15ꗬ ꗬ 15 ꗬ "15ꗬ 1515 ꗬ 1515 ꗬ 1515 ꗬ ꗬ 15 ꗬ
ͬ15 ꗬ Ƹ15ꗬ 15ꗬ 1515ꗬ 1515ꗬ 1515ꗬ 1515ꗬ 1515ꗬ $15Ӥɨ 15ꗬL 15ﹹ
ѥ151515151515151515ꗬ151515  15151515151515151515 ꗬ Ɗ15ꗬ 1515  1515  1515ﹹ 15g
nhân. Có thể hiểu tổ chức kinh tế trước hết phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân trong quá

trình hoạt động thương mại và hoạt động một cách độc lập. Một tổ chức được công nhận là pháp
nhân khi có đủ các điều kiện sau đây (Điều 84 Bộ luật Dân sự 2005):
- Được thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Song không phải tất cả các tổ chức được coi là pháp nhân đều có thể trở thành thương nhân
mà chỉ có những pháp nhân nào là tổ chức kinh tế được thành lập để hoạt động thương mại mới
trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ chức kinh tế bao gồm:
- Doanh nghiệp nhà nước.
- Hợp tác xã.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty cổ phần.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các tổ chức kinh tế khác có đủ các điều kiện theo quy định là pháp nhân.
2.2. Chủ thể không phải là thương nhân
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân không
phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa, khi họ giao kết
hợp đồng với thương nhân. Nghĩa là, một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động thương
mại độc lập và thường xuyên, còn bên kia là chủ thể không cần các điều kiện nói trên. Khác với
bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi
để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật. Đó có
thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thể là hộ gia đình, tổ hợp tác và không hoạt động thương mại độc lập thường xuyên như một
nghề.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các

chủ thể đã cam kết thỏa thuận với nhau. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì tùy thuộc vào
tính chất của từng loại hợp đồng, tùy thuộc vào nội dung, tùy thuộc vào lòng tin lẫn nhau của các
bên giao kết mà họ có thể lựa chọn hình thức nào cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể.
Điều 24 Luật Thương mai 2005 quy định "hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa được
thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp
đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập bằng văn bản thì phải tuân theo các
quy định đó". Theo Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại 2005 cũng quy định "hình thức có giá trị
tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo
quy định của pháp luật".
Như vậy, đối với những hợp đồng mà pháp luật đã quy định buộc phải giao kết bằng hình
thức văn bản thì các bên phải tuân theo quy định đó. Còn lại thì các bên có thể lựa chọn một trong
những hình thức sau đây để giao kết:
- Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể: Là sự thỏa thuận bằng việc thực hiện một hành vi
nào đó;
- Hình thức miệng (bằng lời nói): Hình thức này được áp dụng trong trường hợp hợp đồng
thỏa thuận thực hiện một công việc cụ thể hoặc giá trị của hợp đồng là không lớn, các bên tin
tưởng lẫn nhau. Cho nên các bên giao kết chỉ cần thỏa thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản
của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau;
- Hình thức bằng văn bản (viết): Các bên giao kết hợp đồng cam kết thỏa thuận về quyền
và nghĩa vụ hợp đồng bằng văn bản. Trong văn bản đó, các bên phải ghi rõ nội dung cơ bản mà
các bên đã cam kết với nhau và người đại diện của các bên phải ký tên vào văn bản. Thông điệp
dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử cũng được coi là hình thức văn bản. Nếu xảy ra tranh
chấp, hợp đồng được nký kết bằng hình thức văn bản là căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên có cơ sở chắc chắn hơn là bằng hình thức lời nói. Đôi khi đối tượng của hợp
đồng có giá trị lớn, phức tạp, dễ dẫn đến tranh chấp trong quan hệ giao kết thì các bên có thể lập
thành văn bản có chứng nhận của cơ quan công chứng nhà nước, hoặc của Ủy ban nhân dân cấp
có thẩm quyền nếu nơi đó không có công chứng. Hợp đồng được giao kết bằng hình thức này có
giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy mà có những quan hệ hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
16

Website: Email : Tel : 0918.775.368
giao kết hợp đồng bằng hình thức này nhưng để có căn cứ chắc chắn, các bên nên chọn hình thức
văn bản để giao kết hợp đồng.
4. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng
thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng. Nội dung của hợp đồng xác định
rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, quyết định tính khả thi của hợp đồng cũng như hiệu lực pháp lý
của hợp đồng. Các bên khi thỏa thuận về nội dung của hợp đồng phải bảo đảm là những nội dung
hợp pháp với các điều khoản rõ ràng, cụ thể, có tính hiện thực cao.
Luật Thương mại 2005 đã không quy định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trên cơ sở xác lập mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, khi xem xét vấn đề nội dung của hợp đồng
mua bán hàng hóa chúng ta có thể dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự. Theo đó, trong hợp
đồng mua bán hàng hóa các bên có thể thỏa thuận về những nội dung sau đây:
- Đối tượng của hợp đồng
- Số lượng, chất lượng
- Giá, phương thức thanh toán
- Quyền, nghĩa vụ của các bên
- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
- Phạt vi phạm hợp đồng
- Các nội dung khác.
Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác nhau:
điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ và điều khoản tùy nghi.
4.1. Điều khoản chủ yếu
Các điều khoản chủ yếu nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên, làm cơ sở
cho việc thực hiện mà nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi là đã xác lập. Có những
điều khoản luôn được coi là điều khoản chủ yếu vì không có nó không thể nói là đã hình thành
hợp đồng. Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá thì điều khoản về đối tượng luôn là điều khoản
chủ yếu. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. " Hàng hóa bao gồm: Tất cả các
loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai" (Điều 3
Khoản 2 Luật Thương mại 2005). Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng phải tuân theo quy định tại

Nghị định số 59/2006/NĐ-CP và Nghị định số 89/2006 NĐ-CP. Điều khoản chủ yếu cũng có thể
là đối tượng, chất lượng, số lượng, giá cả, địa điểm... khi các bên thấy cần phải thỏa thuận trong
giao kết hợp đồng.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
4.2. Điều khoản thường lệ
Là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Dù các điều khoản
này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc nhiên thừa nhận và phải thực hiện đúng
như pháp luật quy định. Ví dụ theo điều 35 Luật Thương mại 2005 về địa điểm giao hàng trong
hợp đồng mua bán hàng hóa, "các bên có thể tự thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì địa điểm
giao hàng được xác định như sau: Trường hợp hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán
phải giao hàng tại nơi có hàng hóa đó..." .Như vậy, để giảm bớt những công việc không cần thiết
trong giao kết hợp đồng cũng như nếu có tranh chấp xảy ra mặc dù các bên không ghi vào văn bản
hợp đồng thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định mức độ thực hiện quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hợp đồng, từ đó xác định rõ trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng.
4.3. Điều khoản tùy nghi
Là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên căn cứ vào
khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số điều khoản khác. Trong khuôn khổ pháp
luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa thuận về những hành vi cụ thể. Điều đó nhằm làm cho nội
dung hợp đồng được rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện cho việc thực hiện hợp đồng nhanh chóng,
tránh sự hiểu lầm trong quan hệ hợp đồng. Ví dụ thỏa thuận về giám định hàng hóa, kiểm dịch,
hòa giải, trọng tài để giải quyết tranh chấp... Từ vai trò này của điều khoản tùy nghi mà các bên có
quyền tự lựa chọn và tự nguyện thỏa thuận với nhau sao cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp
đồng mua bán hàng hóa thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.
5. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được ký kết bằng phương thức trực tiếp hoặc phương
thức gián tiếp.
Ký kết bằng phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên trực tiếp
gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội dung của hợp đồng và

cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng được xác lập và phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời
điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng.
Ký kết bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc thảo luận
mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng, đơn chào hàng, thông
điệp dữ liệu điện tử... trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao dịch. Trình tự ký kết hợp đồng
theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn : chào hàng và chấp nhận chào hàng.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
5.1. Chào hàng
Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời hạn nhất
định, được chuyển cho một người hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoạn này, một bên đưa ra
lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là lời chào bán hoặc chào mua hàng, đồng thời đưa ra một
thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng. Luật Thương mại 2005 không quy định hình
thức bắt buộc của chào hàng nói chung song để chuyển tải được đầy đủ những nội dung cần thiết
và tránh hiểu lầm thì hình thức văn bản là cần thiết. Tuy nhiên, hình thức văn bản không phải là
điều kiện bắt buộc để chào hàng có hiệu lực.
Bên chào hàng có trách nhiệm đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã đưa ra
trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng có những đề nghị thay đổi nội dung chủ yếu
của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào hàng mới. Nếu
bên được chào hàng chỉ thay đổi những nội dung không chủ yếu thì chào hàng được coi là đã
được chấp nhận, trừ trường hợp người chào hàng ngay lập tức từ chối những thay đổi đó.
Chào hàng hết hiệu lực khi hết thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng đã hết hoặc bị
từ chối. Chào hàng cũng có thể bị coi là bị từ chối nếu chào hàng này không được chấp nhận một
cách vô điều kiện mà bị bên nhận được chào hàng đưa ra những yêu cầu mới. Về mặt thực tế,
chào hàng đương nhiên bị coi là hết hiệu lực nếu bên chào hàng, vì một nguyên nhân nào đó mà
ngay khi chưa hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định, đã không tham gia kinh doanh nữa. Đó
có thể là trường hợp bên chào hàng bị giải thể, bị phá sản, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh.
5.2. Chấp nhận chào hàng

Là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp thuận toàn
bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phải là chấp nhận vô điều
kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung một trong những nội dung chủ
yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành một chào mới. Chào
hàng chỉ được coi là được chấp nhận nếu người được chào hàng chấp nhận toàn bộ mọi sửa đổi,
bổ sung do người chào hàng đưa ra.
Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng. Vì vậy, chấp nhận chào
hàng có thể được thực hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là chào hàng đã được
chấp nhận một cách vô điều kiện. Đó có thể là lời nói hoặc một hành vi cụ thể biểu thị sự đồng ý
với toàn bộ chào hàng. Im lặng hoặc không hành động không được coi là đồng ý với chào hàng.
Tuy Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng, nhưng để tránh những hiểu
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
lầm dẫn đến tranh chấp, chấp nhận chào hàng nên được thể hiện dưới hình thức văn bản. Bên
nhận được chào hàng trả lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định bằng một thông báo chấp
nhận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính từ
thời điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận chào
hàng được ghi trong chào hàng. Trong trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng không được xác
định rõ trong chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng được luật quy định là ba mươi
ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng. Thời điểm chấp nhận là thời
điểm bản thông báo chấp nhận được chuyển đi cho bên chào hàng. Đây cũng là thời điểm bắt đầu
trách nhiệm của bên chấp nhận chào hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào
hàng sau khi hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ
trường hợp bên chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp nhận dù
quá hạn.
* Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt ký vào
hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký vào hợp đồng, hợp đồng được coi
là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo chấp nhận toàn bộ các điều kiện

đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của người chào hàng. Sau khi hợp đồng mua
bán hàng hóa được ký kết, chỉ bản hợp đồng này có giá trị bắt buộc đối với các bên hợp đồng, mọi
thư từ giao dịch và đàm phán trước đó về hợp đồng đều hết hiệu lực, trừ trường hợp các bên có
thỏa thuận khác.
* Những vấn đề khác trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
- Giao kết hợp đồng theo mẫu: Các bên có thể thỏa thuận giao kết hợp đồng theo mẫu là
hợp đồng được một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý.
- Phụ lục hợp đồng: Kèm theo hợp đồng có thể có phụ lục hợp đồng để quy định một cách
cụ thể, chi tiết một số điều khoản của hợp đồng mà các bên phải làm rõ khi thực hiện hợp đồng để
các bên không thể hiểu mập mờ, mâu thuẫn về các cam kết trong hợp đồng.
- Giải thích hợp đồng: Phải dựa trên những quy định của pháp luật nhằm bảo đảm hợp
đồng là ý chí chung và thể hiện lợi ích của tất cả các bên. Nguyên tắc của việc giải thích hợp đồng
được quy định riêng cho từng trường hợp: hợp đồng có điều khoản không rõ ràng, khi một điều
khoản của hợp đồng có thể hiểu theo nhiều nghĩa, hợp đồng có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, khi có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu, hợp đồng thiếu một số điều khoản,
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngôn từ sử dụng trong hợp đồng mâu thuẫn với ý chí chung và khi bên mạnh thế đưa vào hợp
đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế (Điều 409 Bộ luật Dân sự 2005).
III.THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1. Nguyêh tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 412 Bộ luật Dân sự 2005, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc trong quá
trình thực hiện hợp đồng đó là:
1.1. Thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng
Điều đó có nghĩa là các bên phải thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, đúng số lượng
và chất lượng, đúng chủng loại, đúng thời hạn, đúng phương thức đã xây dựng trong hợp đồng
hoặc do pháp luật đã quy định. Nếu không thực hiện đúng, vi phạm nghĩa vụ đã được ghi nhận
trong nội dung của hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Mà cụ thể là thực
hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh từ hợp đồng.

Các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được Luật
Thương mại 2005 quy định chi tiết trên cơ sở kế thừa những quy định về mua bán hàng hóa trong
Luật Thương mại 1997, tham khảo công ước Viên 1980 và các tập quán, thông lệ quốc tế về mua
bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa phù hợp với điều kiện
thực tế của Việt Nam.
Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa được quy định
tại Mục 2 Mhương 2 của Luật Thương mại 2005 như sau:
1.1.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng, chất lượng,
cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Điều 35 Luật Thương mại
quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận thì bên mua có quyền nhận hoặc
không nhận nếu các bên không có thỏa thuận khác (Điều 38).
Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 Luật Thương
mại 2005. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa vụ giao chứng từ
liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng hình thức đã thỏa thuận.
Một trong những nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao hàng. Bên
bán phải chịu trách nhiệm về những khuyết điểm của hàng hóa mà bên mua hoặc đại diện của bên
mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể phát hiện được trong quá trình
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết hoặc không thể không biết về các khiếm
khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua (Khoản 5 Điều 44 Luật Thương mại 2005).
Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó bên bán phải
bảo đảm: (1) quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên thứ
ba; (2) hàng hóa đó phải hợp pháp; (3) việc chuyển giao hàng hóa là hợp pháp.
Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều 46 Luật
Thương mại 2005). Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải chịu trách nhiệm
bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn bảo hành đã thỏa thuận và phải chịu các chi phí

về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác (Điều 49 Luật Thương mại 2005).
1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
Điều 50 và 55 Luật Thương mại 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ:
- Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận
- Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự, thủ tục đã
thỏa thuận và theo quy định của pháp luật
- Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ liên quan
đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp hàng hóa mất mát, hư
hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua, trừ trường hợp mất mát, hư hỏng
do lỗi của bên bán gây ra.
Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng
hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ ba đối với hàng hóa
được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó, trừ trường hợp bên bán biết
hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba (Điều 45 và 46 Khoản 1 Luật Thương mại 2005).
Bên mua cũng có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp: (1) Bên
mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh toán; (2) Bên mua
có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì có quyền tạm nhừng thanh
toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; (3) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán
đã giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên
bán khắc phục được sự không phù hợp đó.
1.2. Thực hiện hợp đồng một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác, có lợi nhất cho các
bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau
Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi giao kết hợp đồng cho đến khi thực hiện hợp đồng các
bên phải kịp thời thông báo cho nhau về tình trạng, đặc tính của đối tượng, bao gồm cả khó khăn,
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nếu một bên vì lợi ích của mình mà che giấu
khuyết tật của vật là đối tượng của hợp đồng, gây ra thiệt hại cho bên đối tác thì phải bồi thường
thiệt hại. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các bên luôn thông tin cho nhau về tiến độ thực

hiện hợp đồng. Đó chính là biểu hiện sự hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, luôn quan tâm đến
lợi ích của cả hai bên giao kết hợp đồng. Có như vậy mới tạo ra lòng tin đối với nhau để trở thành
đối tác lâu dài của nhau. Muốn vậy, khi thực hiện hợp đồng không được ỷ lại, vin vào các khó
khăn khách quan mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng đã giao kết hoặc chỉ
nghĩ đến lợi ích của mình mà thờ ơ, không chú ý đến lợi ích của bên cùng giao kết hợp đồng.
Ngoài ra, nguyên tắc này còn đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để ngăn chặn bớt
thiệt hại có thể xảy ra cho nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng.
1.3. Thực hiện hợp đồng không được xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích của người khác
Về nguyên tắc này, khi các bên ký kết, thực hiện hợp đồng vì lợi ích của mình nhưng phải
hướng tới lợi ích công cộng, lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của nhà nước. Có như vậy thì trật tự
pháp luật nói chung mới được giữ vững, thực hiện được nghĩa vụ của công dân đối với nhà nước.
Qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo vệ, không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp
pháp của người khác.
2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Để ràng buộc và tăng cường trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ của hợp đồng,
các bên có thể thỏa thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện các nghĩa vụ được pháp luật
quy định. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được điều 318 Bộ luật Dân sự quy
định bao gồm: Cầm cố tài sản, Thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp.
Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể thoả thuận để áp dụng các biện pháp để bảo
đảm thực hiện hợp đồng như: cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo
lãnh.
2.1. Cầm cố tài sản
Là việc một bên giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ (Điều 326 Bộ luật Dân sự 2005). Về hình thức, việc cầm cố tài sản phải được lập thành
văn bản (có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính). Trong đó ghi rõ đối tượng, giá trị
tài sản, thời hạn cầm cố và phương thức xử lý tài sản cầm cố.
Tài sản cầm cố có thể bị khấu trừ phần nghĩa vụ chưa thực hiện, được giao cho bên nhận
cầm cố cầm trước một tài sản của bên cầm cố để bảo đảm cho quyền lợi của mình. Các bên trong
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45

23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
quan hệ cầm cố có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác, nhưng phải thỏa mãn các yêu cầu
về năng lực chủ thể.
Khi người có nghĩa vụ giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người có quyền, từ thời
điểm đó họ bị hạn chế một số quyền năng đối với tài sản của mình. Phải báo cho bên nhận cầm cố
về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, đồng thời thanh toán cho bên nhận cầm cố
những chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố. Nhưng chỉ được bán tài sản cầm cố,
thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu được bên nhận đồng ý, hoặc có thể nhận lại tài
sản khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt.
Trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực, người nhận cầm cố tài sản có nghĩa vụ bảo
đảm nguyên giá trị của tài sản cầm cố, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm cố cho người
khác cũng như không đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác hoặc không được
khai thác công dụng tài sản cầm cố, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu bên cầm cố
không đồng ý.
2.2. Thế chấp tài sản
Là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ đối với bên kia (bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp giữ, không chuyển
giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận giao cho người thứ ba
giữ tài sản thế chấp (Điều 342 Bộ luật Dân sự 2005 ).
Tài sản thế chấp có thể là toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ đó cũng
thuộc tài sản thế chấp. Nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ
thuộc tài sản thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng
hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp có quy định thì văn bản thế chấp phải được
chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền
hoặc việc thế chấp phải được đăng ký nếu tài sản thế chấp có đăng ký quyền sở hữu.
Trong thời hạn văn bản thế chấp có hiệu lực, bên thế chấp tài sản phải có nghĩa vụ bảo
quản, giữ gìn tài sản thế chấp hoặc phải có nghĩa vụ giữ nguyên giá trị của tài sản thế chấp cũng
như không được chuyển dịch quyền sở hữu hoặc tự động giao tài sản thế chấp cho người khác.

Đồng thời phải thông báo cho bên nhận thế chấp về các quyền của người thứ ba đối với tài sản thế
chấp nếu có. Nếu bên nhận thế chấp giữ giấy tờ về tài sản thế chấp thì khi chấm dứt thế chấp phải
hoàn trả lại cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
2.3. Đặt cọc
Là việc một bên giao cho bên kia một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá
trị khác (tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết, thực hiện hợp đồng. Khi tiến
hành đặt cọc phải được lập thành văn bản ghi rõ đối tượng, giá trị bằng tiền hoặc bằng tài sản đặt
cọc, thời hạn đặt cọc (Điều 358 Bộ luật Dân sự 2005).
Trong trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho
bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Nếu bên đặt cọc không thực hiện hoặc
thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng thì hoặc tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc hoặc
tài sản đặt cọc bị khấu trừ một khoản tiền tương đương để thực hiện nghĩa vụ đó, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác.
2.4. Ký cược
Là việc bên thuê tài sản là động sản giao cho bên cho thuê một khoản tiền hoặc kim khí
quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác (tài sản ký cược) trong thời hạn để bảo đảm việc trả lại tài sản
thuê (Điều 359 Bộ luật Dân sự 2005). Khi bên đi thuê đã trả lại tài sản thì họ được nhận lại tài sản
ký cược, sau khi trừ tiền thuê. Nếu bên thuê không trả lại tài sản thuê, thì bên cho thuê có quyền
đòi lại tài sản thuê, nếu tài sản thuê không còn thì tài sản ký cược thuộc về bên cho thuê.
2.5. Ký quỹ
Là việc bên có nghĩa vụ gửi một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá
trị khác vào tài khoản phong tỏa tại một ngân hàng để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ (Điều 360
Bộ luật Dân sự 2005). Khi bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
thì bên có quyền được ngân hàng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ
gây ra, sau khi đã trừ chi phí dịch vụ ngân hàng.
2.6. Bảo lãnh
Là việc người thứ ba (bên bảo lãnh) cam kết với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực

hiện nghĩa vụ (bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực
hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361
Bộ luật Dân sự 2005).
Hình thức bảo lãnh bằng văn bản, có thể lập thành văn bản riêng, nếu trong trường hợp
pháp luật quy định thì phải có chứng nhận của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp có thẩm quyền hoặc là ghi vào hợp đồng chính.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh K45
25

×