Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - thực tiễn áp dụng tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ cao cường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.47 KB, 105 trang )

Khóa luận tốt nghiệp 1 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống xã hội, hợp đồng là một hình thức thiết lập quan hệ giữa người
với người. Sự xuất hiện, tồn tại và phát triển của hợp đồng đã chứng minh đó là một
hình thức pháp lý thích hợp và hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hoá
và tiền tệ. Khi nền kinh tế phát triển, xã hôi văn minh thì việc điều chỉnh bằng pháp luật
quan hệ hợp đồng ngày càng cần thiết, càng được coi trọng và hoàn thiện.
Ở nước ta, việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng đã được áp dụng từ
lâu, song nó chỉ được hoàn thiện hơn và phát triển mạnh khi nước ta bước vào công
cuộc đổi mới với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý của Nhà nước.
Để đáp ứng đòi hỏi khách quan của nền kinh tế cần một hệ thống pháp luật thống nhất
để điều chỉnh quan hệ hợp đồng và để tạo điều kiện thuận lợi về mặt pháp luật khi đất
nước hội nhập kinh tế quốc tế, WTO, ngày 14/6/2005 Quốc hội khoá XI đã ban hành Bộ
luật Dân sự và Luật Thương mại có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/01/2006 để điều
chỉnh quan hệ hợp đồng. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005
là cần thiết và quan trọng, đã tiến một bước dài trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
điều chỉnh quan hệ hợp đồng.
Trong các loại hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hoá có vai trò quan trọng đối với
mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là quan hệ trao đổi hợp pháp mà tất cả các tổ chức
sản xuất, kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển của chúng.
Khi đến thực tập tại công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường, vấn đề ký kết và
thực hiện hợp đồng của Công ty đã thu hút sự quan tâm của em, trong đó hợp đồng mua
bán hàng hoá chiếm tới 90% tổng số các loại hợp đồng tại Công ty. Qua xem xét việc ký
kết và thực hiện hợp đồng tại Công ty, em thấy có nhiều điều cần quan tâm. Bởi vậy, em
đã chọn đề tài: "Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá - Thực tiễn áp dụng tại
công ty cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường" để làm luận văn tốt nghiệp. Quan
hệ hợp đồng mua bán hàng hoá không chỉ là quan hệ giữa các thương nhân trong nước
với nhau mà còn là quan hệ giữa các thương nhân trong nước với các thương nhân nước
ngoài. Song để tập trung vào nội dung cần bàn bạc, bài luận văn sẽ chỉ đề cập đến những
vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh


K45
Khóa luận tốt nghiệp 2 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Bố cục của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành
ba chương:
Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hoá
Chương II: Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hoá tại công ty
cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán
hàng hoá
Luận văn được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình, khoa học của Thầy giáo -
Tiến sĩ Nguyễn Hợp Toàn cũng như sự giúp đỡ tận tình của các cô chú CB CNV công ty
cổ phần công nghiệp dịch vụ Cao Cường. Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu
đó.
Trong luận văn em đã sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp giữa lý thuyết và
thực tế; phương pháp duy vật biện chứng; từ phân tích, tổng hợp, đánh giá, nhận xét từ
đó đưa ra những kiến nghị và giải pháp cho vấn đề cần giải quyết.
Do kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế với thời gian khảo sát thực tế chưa
nhiều nên những thiếu sót trong luận văn này là không thể tránh khỏi. Em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn có quan tâm đến vấn đề này để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 3 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
CHƯƠNG I
CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1. Quan hệ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế,
WTO
1.1. Kinh t ế th ị tr ườ ng và m ố i quan h ệ trong n ề n kinh t ế th ị tr ườ ng

Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các
yếu tố "đầu vào" và "đầu ra" của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là
một kiểu tố chức kinh tế- xã hội, mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán
trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn
nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức để thỏa mãn nhu
cầu của người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Kinh tế hàng hóa và kinh tế thị trường
không đồng nhất với nhau, chúng khác nhau về trình độ phát triển. Vế cơ bản chúng có
cùng nguồn gốc và cùng bản chất.
Trong nền kinh tế thị trường nào thì các quy luật kinh tế của sản xuất và lưu
thông hàng hóa đều được phản ánh và tác động một cách khách quan thông qua cơ chế
thị trường. Cơ chế thị trường chính là một tổ chức kinh tế , trong đó người sản xuất và
người tiêu dùng chịu sự tác động chi phối lẫn nhau qua thị trường. Thị trường là nơi gặp
gỡ của người mua và người bán, của người sản xuất và người tiêu dùng. Trong nền kinh
tế thị trường người sản xuất không chỉ sản xuất cái gì mình có mà phải sản xuất cái gì
thị trường cần. Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật của nền kinh tế hàng hóa.
Đó là quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh Thông qua các hoạt động
trao đổi mua bán, thị trường có vai trò to lớn đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nó
điều tiết sản xuất, điều tiết tiêu dùng. Chính "bàn tay vô hình" của thị trường làm cho cơ
cấu sản xuất, cơ cấu hàng hóa phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng về số lượng và
chất lượng. Nó xác lập mối quan hệ giữa người bán và người mua trên nguyên tắc cùng
có lợi. Thị trường cung cấp thông tin cần thiết cho nhà kinh doanh và tạo yếu tố cạnh
tranh làm động lực cho sự phát triển sản xuất, giảm chi phí, hạ giá thành, nâng cao chất
lượng sản phẩm.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 4 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là tự do trao đổi các
sản phẩm hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán
với giá cao, còn người mua bao giờ cũng muốn mua với giá thấp, do đó mà cần có sự
thống nhất ý chí, có sự thỏa thuận giữa người bán và người mua thể hiện qua hợp đồng.

Như vậy, hợp đồng về bản chất là sự thỏa thuận, sự thống nhất ý chí giữa các bên tham
gia ký kết theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng không trái pháp luật.
Nền kinh tế thị trường là nền kinh tế của hệ thống các quan hệ hợp đồng, nếu
thiếu hợp đồng thì nền kinh tế không thể vận hành được.
1.2. Vai trò c ủ a h ợ p đồ ng trong n ề n kinh t ế th ị tr ườ ng
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung và bao cấp trước đây, hợp đồng kinh tế
được coi là công cụ cơ bản đế quản lý nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Chỉ tiêu kế hoạch là
cơ sở để các bên ký kết hợp đồng kinh tế, do đó mà khi chỉ tiêu kế hoạch thay đổi, các
bên cũng phải thay đổi hợp đồng cho phù hợp. Vi phạm hợp đồng là vi phạm kế hoạch.
Trong điều kiện đó hợp đồng kinh tế chỉ là phương tiện để các đơn vị trao đổi sản phẩm
cho nhau một cách hình thức, ghi nhận sự cấp phát vật tư của Nhà nước cho các đơn vị
kinh tế và sự giao nộp sản phẩm của các đơn vị kinh tế cho Nhà nước mà thôi. Hợp
đồng kinh tế "mất đi giá trị đích thực của mình với tư cách là hình thức pháp lý chủ yếu
của quan hệ kinh tế".
Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thỏa thuận của các chủ thể
kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể sử dụng
pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các
chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chung của toàn xã hội.
Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các
chủ thể kinh doanh, làm cho kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể thực hiện được nếu
người sản xuất mua được nguyên vật liệu và ký được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của
mình. Đồng thời hợp đồng cũng cụ thể hóa, chi tiết hóa kế hoạch sản xuất mua bán, giá
cả, thời gian giao hàng Như vậy nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người kinh doanh
quyết định và thỏa thuận với khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi
nhuận.
Thông qua việc đàm phán ký kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt được
nhu cầu thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 5 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình ký kết hợp đồng
các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính toán chênh lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh
tế của phương án kinh doanh.
Thông qua hợp đồng kinh tế mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ
kinh tế xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật.
Khi hợp đồng được ký kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm
quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán
giải quyết khi có tranh chấp.
2. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1. Pháp lu ậ t v ề h ợ p đồ ng ở Vi ệ t Nam
2.1.1. Pháp luật về hợp đồng trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung
Sau khi hòa bình lập lại năm 1954, công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc với các thành phần kinh tế còn nhỏ, phát triển chậm, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu
lại chịu hậu quả chiến tranh. Năm 1956, Nhà nước đã ban hành điều lệ tạm thời số
735/TTg về chế độ hợp đồng đăng ký kinh doanh (đăng trên công báo số 10 ngày
5/5/1956). Đây là một văn bản pháp luật hợp đồng có tên là "hợp đồng kinh doanh" điều
chỉnh quan hệ giữa hai hay nhiều chủ thể cam kết tự nguyện thực hiện kế hoạch của Nhà
nước nhằm phục vụ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, củng cố hậu phương vững chắc
làm ra nhiều sản phẩm cho xã hội.
Cơ chế kinh tế thay đổi, kéo ntheo sự thay đổi của pháp luật. Ngày 4/1/1960 Thủ
tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 004/TTg về Điều lệ tạm thời về chế độ hợp
đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước. Điều lệ này quy định
một kiểu hợp đồng mới, hợp đồng được ký kết trên cơ sở kế hoạch Nhà nước và nhằm
thực hiện kế hoạch Nhà nước đồng thời thực hiện các nguyên tắc của chế độ hạch toán
kinh tế. Như vậy, trong thời gian này các cơ quan Nhà nước, các xí nghiệp đã lập và
thực hiện hợp đồng kinh tế không phải xuất phát từ lợi ích riêng của cơ quan, xí nghiệp
mình mà nhằm thực hiện kế hoạch Nhà nước, vì lợi ích của Nhà nước. Đây là đặc điểm
quan trọng nhất của hợp đồng kinh tế theo Điều lệ tạm thời về hợp đồng kinh tế. Đặc
trưng cơ bản của sự phát triển kinh tế theo kế hoạch tập trung cao.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45
Khóa luận tốt nghiệp 6 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Ngày 10/3/1975 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 54/CP ban hành
Điều lệ về chế độ hợp đồng kinh tế. Đây là bản điều lệ chính thức đầu tiên về chế độ
hợp đồng của nước ta và nó có hiệu lực thi hành đến năm 1989. Để thực hiện hai Nghị
định trên Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản hướng dẫn việc thực hiện hợp đồng
kinh tế như: Quyết định số 113-TTg ngày 11/9/1965 và chỉ thị 17-TTg ngày 20/01/1967
của Thủ tướng Chính phủ
Từ việc nghiên cứu pháp luật về hợp đồng kinh tế trong cơ chế kế hoạch hóa tập
trung chúng ta thấy có nhận xét sau đây :
Một là, pháp luật hợp đồng khi đó là công cụ pháp lý của việc thực hiện kế hoạch
Nhà nước. Do nhà nước được coi là pháp lệnh nên việc ký kết và thực hiện hợp đồng
kinh tế là kỷ luật của Nhà nước đối với các đơn vị kinh tế.
Hai là, hợp đồng kinh tế là hình thức pháp lý của các quan hệ mang tính chất tổ
chức- kế hoạch, còn yếu tố tài sản chỉ là thứ yếu. Vì những nội dung chủ yếu mà các bên
thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế đều đã được xác định trong chỉ tiêu kế hoạch nhà
nước, ý chí của các bên chỉ là cụ thể hóa ý chí của nhà nước.
Ba là,chủ thể của hợp đồng kinh tế chỉ là các đơn vị tổ chức được giao chỉ tiêu kế
hoạch của nhà nước.
2.1.2. Pháp luật về hợp đồng trong nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc
tế, WTO
Xuất phát từ quan điểm đòi hỏi phải mở rộng quyền tự chủ kinh doanh của các
đơn vị kinh tế, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng
12/1986 đã ra quyết định đổi mới cơ chế quản lý kinh tế theo hướng xóa bỏ tập trung
quan liêu bao cấp, xây dựng cơ chế mới phù hợp với quy luật khách quan và với trình độ
phát triển cơ sở kinh tế. Cơ chế quản lý kinh tế mới coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều
thành phần là một đặc trưng quan trọng, coi trọng việc sử dụng đúng đắn các quan hệ
hàng hóa- tiền tệ, bảo đảm quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp trong việc tiếp
cận với nhu cầu thị trường. khai thác mọi tiềm năng để phát triển sản xuất kinh doanh,
nhằm thực hiện mục tiêu kế hoạch của doanh nghiệp. Cơ chế quản lý kinh tế mới đòi hỏi

phải rà soát lại tất cả các chính sách, chế độ, trong đó có pháp luật về hợp đồng kinh tế.
Vì vậy ngày 25/9/1989 Hội đồng Nhà nước đã thông qua Pháp lệnh hợp đồng kinh tế và
sau đó một loạt các văn bản như Nghị định số 17/HĐBT , Quyết định số 18/HĐBT ngày
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 7 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
16/01/1990 và nhiều văn bản hướng dẫn khác. Bộ luật Dân sự do Quốc hội thông qua
ngày 28/10/1995 có nhiều điều về hợp đồng dân sự; Luật Thương mại thông qua ngày
10/5/1997 cũng có những quy định về hợp đồng trong một số hành vi thương mại,
nhưng thực tế của các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại, Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế vẫn là căn cứ áp dụng chủ yếu. Nội dung cụ thể trong chế độ pháp lý về
hợp đồng quy định trong các văn bản pháp luật nêu trên có nhiều điểm không thống
nhất.
Theo quy luật kinh tế khách quan khi cơ sở kinh tế thay đổi đối với thành tựu to
lớn của sự phát triển kinh tế của các thành phần kinh tế dẫn đến Pháp lệnh hợp đồng
kinh tế đã được ban hành từ năm 1989 đến nay lộ rõ nhiều bất cập. Trong điều kiện đó
việc hoàn thiện, đổi mới các quy định của pháp luật về vấn đề hợp đồng là vấn đề được
đặt ra hết sức cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy hơn
nữa giao lưu kinh tế cũng như trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thực tiễn
pháp luật hợp đồng không thống nhất , các quy định còn nằm rải rác trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau, chồng chéo, loại trừ nhau, tạo ra lỗ hổng pháp lý khiến cho người
áp dụng và các cơ quan tài phán gặp nhiều khó khăn, lúng túng khi áp dụng văn bản
pháp luật về hợp đồng. Vì thế ngày 14/6/2005 Bộ luật Dân sự đã được Quốc hội khóa
XI thông qua, trong đó có chế định về hợp đồng là nền tảng thống nhất và đồng bộ để
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung, bên cạnh các văn bản pháp luật riêng để
điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong các lĩnh vực cụ thể.
Trong lĩnh vực hợp đồng thương mại thì luật hiện hành điều chỉnh đó là Bộ luật
Dân sự năm 2005, Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Những quy định của Bộ luật Dân sự về hợp đồng dân sự có tính nguyên tắc, là nội dung
cơ bản điều chỉnh các quan hệ hợp đồng nói chung. Những văn bản luật chuyên ngành

như: Luật Thương mại, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Du lịch, Luật Cạnh tranh…là
nguồn luật điều chỉnh các quan hệ hợp đồng trong lĩnh vực cụ thể. Nguyên tắc áp dụng
luật là ưu tiên áp dụng các quy định của luật chuyên ngành trước, những vấn đề không
được quy định trong luật chuyên ngành thì áp dụng theo quy định của Bộ luật Dân sự.
Kể từ ngày 1/1/2006 khi Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 có hiệu lực thì
Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 hết hiệu lực. Việc ban hành Bộ luật Dân sự 2005
và Luật Thương mại 2005 cũng như chấm dứt vai trò của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 8 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
năm 1989 là cần thiết bởi hiện nay xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và tự do
hóa thương mại đang là vấn đề nổi bật của nền kinh tế thế giới. Từ đó đòi hỏi mỗi quốc
gia hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước mình theo hướng đồng bộ và có sự tương
thích với luật pháp quốc tế. Chính đặc điểm này tạo ra sự liên kết và phụ thuộc lẫn nhau
càng cao giữa các quốc gia và khu vực. Các định chế và tổ chức kinh tế - thương mại
khu vực và quốc tế đã được hình thành để phục vụ cho kinh tế quốc tế, tạo lập hành lang
pháp lý chung và để các nước cùng tham gia vào quá trình giải quyết các vấn đề lớn của
kinh tế thế giới mà không một quốc gia nào có thể thực hiện một cách đơn lẻ. Trong xu
thế đó đòi hỏi luật pháp Việt Nam cũng phải theo kịp đời sống kinh tế đang diễn ra hết
sức sôi động, linh hoạt. Và một đặc điểm của luật pháp trong giai đoạn hiện nay đó là
phải nội luật hóa các điều ước quốc tế làm cho hệ thống pháp luật trong nước cũng
tương thích với luật quốc tế bảo đảm cho hội nhập quốc tế. Đặc biệt khi Việt Nam đã là
thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào ngày 7/11/2006 và việc
hoàn thiện hệ thống pháp luật theo yêu cầu của WTO cũng là một trong các điều kiện để
nước ta có đầy đủ điều kiện để trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại
toàn cầu này.
2.2. Khái ni ệ m, đặ c đ i ể m c ủ a h ợ p đồ ng mua bán hàng hóa
2.2.1. Hợp đồng thương mại trong nền kinh tế thị trường
Cũng như những chủng loại hợp đồng khác, hợp đồng thương mại là sự thỏa
thuận giữa các bên nhằm xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ pháp lý trong

những quan hệ kinh doanh cụ thể.
- Trong hợp đồng, yếu tố cơ bản nhất là sự thể hiện ý chí, tức là sự ưng thuận
giữa các bên với nhau. Nguyên tắc này là nguyên tắc thỏa thuận và được coi là tiến bộ
của kỹ thuật pháp lý hiện đại.
Nguyên tắc thỏa thuận là hệ quả tất yếu của tự do hợp đồng, khi giao kết hợp
đồng các bên được tự do quyết định nội dung của hợp đồng, tự do xây dựng phạm vi
nghĩa vụ của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng ở tất cả các nước trên thế giới không
phải là tự do tuyệt đối mà là tự do trong khuôn khổ pháp luật. Hợp đồng mua bán hàng
hóa là giao dịch pháp lý hợp pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây là lẽ công bằng, hợp pháp.
Hợp đồng sẽ bị vô hiệu nếu là giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức, đe dọa
hay mua chuộc.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 9 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Ý chí chỉ phát sinh nghĩa vụ khi người giao kết hợp đồng có đầy đủ năng lực
hành vi để thành lập hợp đồng. Các bên giao kết hợp đồng thông qua người đại diện của
mình (có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền). Người
đại diện chỉ được giao kết hợp đồng trong phạm vi thẩm quyền của người đại diện.
Phạm vi thẩm quyền của người đại diện được quy định bởi pháp luật, điều lệ doanh
nghiệp hay văn bản ủy quyền. Hợp đồng được giao kết bởi người không có thẩm quyền
đại diện thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ đối với cá nhân, tổ chức được đại diện.
- Mọi hợp đồng đều phải có đối tượng xác thực. Đối tượng của hợp đồng phải
được xác định rõ rệt, phải có thể thực hiện được và hợp pháp. Nếu đối tượng của hợp
đồng là bất hợp pháp thì hợp đồng vô hiệu. Đó là một nguyên tắc cơ bản của luật hợp
đồng được thừa nhận chung trên thế giới. Sau khi hợp đồng được thành lập với đầy đủ
các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng buộc, các bên bắt buộc phải thực hiện các cam
kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn đến tranh chấp pháp lý mà bên vi phạm sẽ
phải gánh chịu. Hợp đồng được thành lập hợp pháp có hiệu lực ràng buộc đối với cơ
quan tài phán được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp kinh tế, xử lý các vi phạm của
hợp đồng bằng tòa án hay trọng tài phải căn cứ vào các điều khoản mà các bên đã thỏa

thuận trong hợp đồng.
2.2.2. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng hiểu theo nghĩa rộng là sự thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên về một
vấn đề nhất định trong xã hội nhằm làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền hay
nghĩa vụ của các bên đó. Bộ luật Dân sự 2005 đã đưa ra khái niệm về hợp đồng dân sự
một cách khái quát như sau: "Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự" (Điều 388).
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hợp đồng cụ thể, mặt khác hợp đồng
mua bán hàng hóa là hình thức pháp lý của hoạt động mua bán hàng hóa. Với "mua bán
hàng hóa là hành vi thương mại, theo đó người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển
quyền sở hữu hàng hóa cho người mua và nhận tiền; người mua có nghĩa vụ trả tiền cho
người bán và nhận hàng theo thỏa thuận của hai bên" (Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại
2005).
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 10 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa muốn có hiệu lực được pháp luật bảo vệ thì
phải tuân theo những quy định của pháp luật về các điều khoản có hiệu lực của hợp
đồng.
Thứ nhất, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hợp pháp. Thường thì các bên giao
kết phải có đầy đủ năng lực hành vi.
Thứ hai, các chủ thể ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện, tức là nó xuất
phát từ ý chí thực, từ sự tự do ý chí của các bên trong các thỏa thuận của hợp đồng đó.
Thứ ba, nội dung của hợp đồng không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối
tượng hợp đồng không thuộc hàng hóa cấm giao dịch, công việc cấm thực hiện. Bên
cạnh đó nội dung của hợp đồng cần cụ thể, bởi vì việc xác lập nghĩa vụ trong hợp đồng
phải cụ thể và có tính khả thi. Những nghĩa vụ trong hợp đồng mà không thực hiện được
thì hợp đồng cũng không được coi là có hiệu lực pháp lý làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ của các bên.
Thủ tục và hình thức của hợp đồng phải tuân theo những thể thức nhất định phù

hợp với những quy định của pháp luật đối với loại hợp đồng mua bán hàng hóa.
Quan điểm trên cho thấy trong điều kiện cơ chế kinh tế mới, Nhà nước có quan
niệm mới về hợp đồng mua bán hàng hóa, quan niệm chuyển từ thương nhân chỉ được
làm những gì nhà nước cho phép sang được làm những gì nhà nước không cấm, từ đó
rút ra những đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa trong giai đoạn hiện nay như
sau:
2.2.3. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về chủ thể của hợp đồng, theo Luật thương mại 2005, hợp đồng thương mại có
thể được giao kết giữa các chủ thể bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá
nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Các thương nhân này có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa
bàn, dưới các hình thức và theo các phương thức mà pháp luật không cấm. Ngoài ra,
hợp đồng thương mại còn được ký kết giữa các tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên
quan đến thương mại. Các tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp có thể bao gồm các
doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty nhà nước,
và các tổ chức kinh tế khác. Thương nhân là cá nhân bao gồm các hộ kinh doanh cá thể
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 11 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
có đăng ký kinh doanh và tiến hành hoạt động thương mại một cách thường xuyên, độc
lập.
Đối tượng của hợp đồng là hàng hóa. Hàng hóa theo hợp đồng là hàng hóa được
phép mua bán theo quy định của pháp luật. Theo quy định hiện hành, đối với hàng hóa
thuộc danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, kinh doanh có điều kiện thì thương nhân
phải thực hiện đầy đủ quy định hiện hành của pháp luật về kinh doanh các hàng hóa đó.
Nội dung của hợp đồng chứa đựng những nội dung cơ bản của một hợp đồng
mua bán hàng hóa là: tên hàng, số lượng, quy cách chất lượng, giá cả, phương thức
thanh toán, địa điểm và thời hạn giao hàng. Ngoài ra hợp đồng còn phải thêm những
điều kiện để đảm bảo quyền lợi cho các bên nếu có tranh chấp xảy ra như nơi giải quyết
tranh chấp, phương thức giải quyết tranh chấp. Do loại hợp đồng này có đặc điểm là các

bên đều nhằm đến mục tiêu lợi nhuận nên đòi hỏi nội dung của hợp đồng phải đầy đủ, rõ
ràng, tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp. Vì vậy các bên cần chú ý thận trọng
soạn thảo nội dung của hợp đồng. Chẳng hạn đối với điều khoản tên hàng, cần kèm theo
có mã số và mẫu hàng, đối với điều khoản về số lượng và trọng lượng cần chọn những
đơn vị đo lường thống nhất, trường hợp không có đơn vị đo lường thống nhất thì cần có
điều khoản giải thích, đối với điều khoản về thanh toán cần quy định rõ ràng đồng tiền
thanh toán và phương thức thanh toán
Về hình thức của hợp đồng. Theo quy định tại Luật Thương mại 2005, hợp đồng
thương mại được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ
thể. Như vậy, hình thức của hợp đồng là rất đa dạng, linh hoạt, tùy trường hợp cụ thể mà
các bên thỏa thuận để chọn hình thức nào cho phù hợp với hợp đồng mua bán hàng hóa
được giao kết phù hợp với quy định của pháp luật.
II. CHẾ ĐỘ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
Các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa:
Bộ luật Dân sự được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2005, có hiệu lực kể từ ngày
1/1/2006 (Bộ luật Dân sự 2005); Luật Thương mại được Quốc hội thông qua ngày
14/6/2005, có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2006 (Luật Thương mại 2005); và các văn bản
pháp luật có liên quan.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 12 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa là quá trình thương lượng giữa các bên
theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để đạt được sự thỏa thuận, qua đó xác lập
các quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau trong quan hệ mua bán hàng hóa.
Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa phải bảo đảm theo những nguyên tắc được
quy định tại điều 389 Bộ luật Dân sự 2005 đó là:
-Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
-Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Cùng các nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thương mại được quy định từ Điều

10 đến Điều 15 của mục 2 chương 1 Luật Thương mại 2005. Đó là:
-Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của thương nhân trong hoạt động thương
mại (Điều 10)
-Nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại (Điều 11)
-Nguyên tắc áp dụng thói quen, tập quán trong hoạt động thương mại (Điều 12 và
13)
-Nguyên tắc bảo vệ lợi ích chính đáng của người tiêu dùng (Điều 14)
-Nguyên tắc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động
thương mại (Điều 15)
Trong các nguyên tắc điều chỉnh chế độ giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa sau
đây xin được làm rõ một số nguyên tắc quan trọng sau:
1.1. Nguyên t ắ c t ự do giao k ế t h ợ p đồ ng nh ư ng không trái pháp lu ậ t, đạ o đứ c
xã h ộ i
Nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng cho phép cá nhân, tổ chức được tự do quyết
định trong việc giao kết hợp đồng với ai, như thế nào, với nội dung, hình thức nào. Hợp
đồng phải xuất phát từ ý muốn chủ quan và lợi ích của các chủ thể. Tuy nhiên, sự tự do
thỏa thuận muốn được pháp luật bảo vệ khi có sự vi phạm quyền và nghĩa vụ dẫn đến
tranh chấp thì phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, không trái pháp luật và đạo đức
xã hội. Vì lợi ích của mình, các chủ thể phải hướng tới việc không làm ảnh hưởng đến
lợi ích hợp pháp của người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 13 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
1.2. Nguyên t ắ c t ự ngu y ệ n, bình đẳ ng, thi ệ n chí, h ợ p tác, trung th ự c và ngay
th ẳ ng
Theo nguyên tắc này, các bên tự nguyện cùng nhau xác lập quan hệ hợp đồng
phải bảo đảm nội dung của các quan hệ đó, thể hiện được sự tương xứng về quyền và
nghĩa vụ trong hợp đồng, bảo đảm lợi ích cho các bên. Trong nền kinh tế thị trường, các
cá nhân, tổ chức dù thuộc thành phần kinh tế nào, do cấp nào quản lý khi ký kết hợp
đồng đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Khi hợp đồng đã được xác lập thì phải bảo

đảm quyền và nghĩa vụ tương xứng giữa các chủ thể, có thực hiện đúng, đầy đủ nghĩa
vụ thì mới được hưởng quyền, nếu vi phạm phải bị xử lý.
Sự bình đẳng được đề cập ở đây là sự bình đẳng về mặt pháp lý, sự bình đẳng
trước pháp luật chứ không phải là sự bình đẳng về mặt kinh tế giữa các chủ thể. Dựa
trên cơ sở tự nguyện cùng nhau giao kết hợp đồng, nhưng nếu giữa các bên không có
thiện chí, thiếu sự hợp tác chặt chẽ với nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thì việc xác
lập hợp đồng này cũng không mang lại lợi ích tối đa cho các bên trong quan hệ hợp
đồng. Thêm vào đó, trong giao kết hợp đồng các bên phải thể hiện sự trung thực, ngay
thẳng thì mới có thể trở thành đối tác lâu dài của nhau trong các quan hệ thương mại,
đặc biệt là trong quan hệ mua bán hàng hóa.
1.3. Nguyên t ắ c th ừ a nh ậ n giá tr ị pháp lý c ủ a thông đ i ệ p d ữ li ệ u .
Theo nguyên tắc này trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng
các điều kiện, tiêu chuẩn kỹ thuật theo quy định của pháp luật thì được thừa nhận có giá
trị pháp lý tương đương văn bản (thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi,
nhận và lưu giữ bằng phương tiện điện tử).
2. Chủ thể giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo quy định của Luật Thương mại 2005 chủ thể của hợp đồng phải là thương
nhân hoạt động thương mại, tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương
mại.
Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mụch đích sinh lợi, bao gồm mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mụch
đích sinh lợi khác.
Có thể phân chủ thể tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa thành các loại sau:
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 14 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
2.1. Ch ủ th ể là th ươ ng nhân
Để xác định một thỏa thuận có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa hay không thì
việc trước tiên là phải xác định một bên trong quan hệ đồng đó có phải là thương nhân
hay không, sau đó mới xem xét đến đối tượng của hợp đồng. Thương nhân bao gồm tổ

chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.
Luật Thương mại 2005 cũng thừa nhận thương nhân thực tế bằng việc không đặt
điều kiện đăng ký kinh doanh là một trong những điều kiện bắt buộc để được công nhận
là thương nhân. Đăng ký kinh doanh là nghĩa vụ của thương nhân nhưng đối với trường
hợp chưa đăng ký kinh doanh, thương nhân vẫn phải chịu mọi trách nhiệm về mọi hoạt
động của mình. Quy định này đã giải quyết những vấn đề đã đặt ra trong thực tế là
người không đăng ký kinh doanh nhưng có hành vi kinh doanh thì có được coi là thương
nhân không. Nhưng quy định này lại có phần không rõ ràng vì nó không giới hạn trách
nhiệm của thương nhân trong phạm vi hoạt động thương mại. Vì vậy, một tổ chức, cá
nhân trước khi đăng ký kinh doanh tiến hành các hành vi không nhằm mụch đích sinh
lợi có thể vẫn phải chịu trách nhiệm như thương nhân.
2.1.1. Thương nhân là cá nhân.
Để được công nhận là thương nhân thì một cá nhân phải có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể trở thành thương nhân ngay cả
khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên như một nghề mà chưa đăng
ký kinh doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại, do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy
đủ về hành vi thương mại của mình, vì vậy những người sau đây không được công nhận
là thương nhân:
- Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành vi
dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
- Người đang bị truy cứu trách nhiệm hính sự, người đang phải chấp hành hình
phạt tù;
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 15 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
- Người đang trong thời gian bị tòa án cướp quyền hành nghề vì các tội buôn lậu,
đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hóa, kinh doanh trái phép,

trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy định của pháp luật.
2.1.2. Thương nhân là tổ chức
Trong thực tiễn hoạt động thương mại, thương nhân là tổ chức là chủ thể chủ yếu
của hợp đồng mua bán hàng hóa. Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục
đích hoạt động thưong mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh sẽ
được coi là thương nhân. Có thể hiểu tổ chức kinh tế trước hết phải là một tổ chức có tư
cách pháp nhân trong quá trình hoạt động thương mại và hoạt động một cách độc lập.
Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây (Điều 84 Bộ
luật Dân sự 2005):
- Được thành lập hợp pháp;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó;
- Nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Song không phải tất cả các tổ chức được coi là pháp nhân đều có thể trở thành
thương nhân mà chỉ có những pháp nhân nào là tổ chức kinh tế được thành lập để hoạt
động thương mại mới trở thành thương nhân. Pháp nhân là tổ chức kinh tế bao gồm:
- Doanh nghiệp nhà nước.
- Hợp tác xã.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn.
- Công ty cổ phần.
- Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Các tổ chức kinh tế khác có đủ các điều kiện theo quy định là pháp nhân.
2.2. Ch ủ th ể không ph ả i là th ươ ng nhân
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lợi, thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa,
khi họ giao kết hợp đồng với thương nhân. Nghĩa là, một bên của hợp đồng là cá nhân,
tổ chức hoạt động thương mại độc lập và thường xuyên, còn bên kia là chủ thể không
cần các điều kiện nói trên. Khác với bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh

K45
Khóa luận tốt nghiệp 16 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
có thể là mọi chủ thể có đủ năng lực hành vi để tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật. Đó có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức
có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân, cũng có thể là hộ gia đình, tổ
hợp tác và không hoạt động thương mại độc lập thường xuyên như một nghề.
3. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá là phương tiện để ghi nhận nội dung
mà các chủ thể đã cam kết thỏa thuận với nhau. Đối với hợp đồng mua bán hàng hóa thì
tùy thuộc vào tính chất của từng loại hợp đồng, tùy thuộc vào nội dung, tùy thuộc vào
lòng tin lẫn nhau của các bên giao kết mà họ có thể lựa chọn hình thức nào cho phù hợp
với từng trường hợp cụ thể.
Điều 24 Luật Thương mai 2005 quy định "hình thức của hợp đồng mua bán hàng
hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể.
Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập bằng
văn bản thì phải tuân theo các quy định đó". Theo Khoản 15 Điều 3 Luật Thương mại
2005 cũng quy định "hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex,
fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật".
Như vậy, đối với những hợp đồng mà pháp luật đã quy định buộc phải giao kết
bằng hình thức văn bản thì các bên phải tuân theo quy định đó. Còn lại thì các bên có
thể lựa chọn một trong những hình thức sau đây để giao kết:
- Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể: Là sự thỏa thuận bằng việc thực hiện
một hành vi nào đó;
- Hình thức miệng (bằng lời nói): Hình thức này được áp dụng trong trường hợp
hợp đồng thỏa thuận thực hiện một công việc cụ thể hoặc giá trị của hợp đồng là không
lớn, các bên tin tưởng lẫn nhau. Cho nên các bên giao kết chỉ cần thỏa thuận miệng với
nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất
định đối với nhau;
- Hình thức bằng văn bản (viết): Các bên giao kết hợp đồng cam kết thỏa thuận
về quyền và nghĩa vụ hợp đồng bằng văn bản. Trong văn bản đó, các bên phải ghi rõ nội

dung cơ bản mà các bên đã cam kết với nhau và người đại diện của các bên phải ký tên
vào văn bản. Thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện tử cũng được coi là
hình thức văn bản. Nếu xảy ra tranh chấp, hợp đồng được ký kết bằng hình thức văn bản
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 17 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
là căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có cơ sở chắc chắn
hơn là bằng hình thức lời nói. Đôi khi đối tượng của hợp đồng có giá trị lớn, phức tạp,
dễ dẫn đến tranh chấp trong quan hệ giao kết thì các bên có thể lập thành văn bản có
chứng nhận của cơ quan công chứng nhà nước, hoặc của Ủy ban nhân dân cấp có thẩm
quyền nếu nơi đó không có công chứng. Hợp đồng được giao kết bằng hình thức này có
giá trị chứng cứ cao nhất. Vì vậy mà có những quan hệ hợp đồng mà pháp luật không
yêu cầu phải giao kết hợp đồng bằng hình thức này nhưng để có căn cứ chắc chắn, các
bên nên chọn hình thức văn bản để giao kết hợp đồng.
4. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Nội dung của hợp đồng bao gồm những điều khoản mà các bên tham gia giao kết
hợp đồng thỏa thuận xác lập nên sau khi đã tự do bàn bạc, thương lượng. Nội dung của
hợp đồng xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên, quyết định tính khả thi của hợp
đồng cũng như hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Các bên khi thỏa thuận về nội dung của
hợp đồng phải bảo đảm là những nội dung hợp pháp với các điều khoản rõ ràng, cụ thể,
có tính hiện thực cao.
Luật Thương mại 2005 đã không quy định về nội dung của hợp đồng mua bán
hàng hóa. Trên cơ sở xác lập mối quan hệ với Bộ luật Dân sự, khi xem xét vấn đề nội
dung của hợp đồng mua bán hàng hóa chúng ta có thể dựa trên các quy định của Bộ luật
Dân sự. Theo đó, trong hợp đồng mua bán hàng hóa các bên có thể thỏa thuận về những
nội dung sau đây:
- Đối tượng của hợp đồng
- Số lượng, chất lượng
- Giá, phương thức thanh toán
- Quyền, nghĩa vụ của các bên

- Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng
- Phạt vi phạm hợp đồng
- Các nội dung khác.
Nội dung của hợp đồng có thể chia thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa
khác nhau: điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ và điều khoản tùy nghi.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 18 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
4.1. Đ i ề u kho ả n ch ủ y ế u
Các điều khoản chủ yếu nêu lên những quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên,
làm cơ sở cho việc thực hiện mà nếu thiếu nó thì quan hệ hợp đồng chưa được coi là đã
xác lập. Có những điều khoản luôn được coi là điều khoản chủ yếu vì không có nó
không thể nói là đã hình thành hợp đồng. Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá thì điều
khoản về đối tượng luôn là điều khoản chủ yếu. Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng
hóa là hàng hóa. " Hàng hóa bao gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
thành trong tương lai; Những vật gắn liền với đất đai" (Điều 3 Khoản 2 Luật Thương
mại 2005). Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng phải tuân theo quy định tại Nghị định
số 59/2006/NĐ-CP và Nghị định số 89/2006 NĐ-CP. Điều khoản chủ yếu cũng có thể là
đối tượng, chất lượng, số lượng, giá cả, địa điểm khi các bên thấy cần phải thỏa thuận
trong giao kết hợp đồng.
4.2. Đ i ề u kho ả n th ườ ng l ệ
Là điều khoản đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Dù các
điều khoản này không được ghi vào hợp đồng nhưng các bên mặc nhiên thừa nhận và
phải thực hiện đúng như pháp luật quy định. Ví dụ theo điều 35 Luật Thương mại 2005
về địa điểm giao hàng trong hợp đồng mua bán hàng hóa, "các bên có thể tự thỏa thuận,
nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao hàng được xác định như sau: Trường hợp
hàng hóa là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao hàng tại nơi có hàng hóa
đó " .Như vậy, để giảm bớt những công việc không cần thiết trong giao kết hợp đồng
cũng như nếu có tranh chấp xảy ra mặc dù các bên không ghi vào văn bản hợp đồng thì
quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định mức độ thực hiện quyền và nghĩa vụ của

các bên trong hợp đồng, từ đó xác định rõ trách nhiệm khi vi phạm hợp đồng.
4.3. Đ i ề u kho ả n tùy nghi
Là những điều khoản được đưa vào hợp đồng theo sự thỏa thuận của các bên căn
cứ vào khả năng, nhu cầu của các bên để xác định thêm một số điều khoản khác. Trong
khuôn khổ pháp luật, các bên có quyền lựa chọn và thỏa thuận về những hành vi cụ thể.
Điều đó nhằm làm cho nội dung hợp đồng được rõ ràng, cụ thể, tạo điều kiện cho việc
thực hiện hợp đồng nhanh chóng, tránh sự hiểu lầm trong quan hệ hợp đồng. Ví dụ thỏa
thuận về giám định hàng hóa, kiểm dịch, hòa giải, trọng tài để giải quyết tranh chấp
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 19 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Từ vai trò này của điều khoản tùy nghi mà các bên có quyền tự lựa chọn và tự nguyện
thỏa thuận với nhau sao cho việc thực hiện nghĩa vụ trong hợp đồng mua bán hàng hóa
thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.
5. Thủ tục giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được ký kết bằng phương thức trực tiếp hoặc
phương thức gián tiếp.
Ký kết bằng phương thức trực tiếp: Người đại diện có thẩm quyền của các bên
trực tiếp gặp nhau, cùng bàn bạc, thương lượng và thỏa thuận thống nhất về các nội
dung của hợp đồng và cùng ký tên vào văn bản hợp đồng. Hợp đồng được xác lập và
phát sinh hiệu lực pháp lý từ thời điểm các bên có mặt ký vào hợp đồng.
Ký kết bằng phương thức gián tiếp: Các bên không trực tiếp gặp nhau để bàn bạc
thảo luận mà trao đổi qua các tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn đặt hàng,
đơn chào hàng, thông điệp dữ liệu điện tử trong đó ghi rõ nội dung công việc cần giao
dịch. Trình tự ký kết hợp đồng theo phương thức này bao gồm hai giai đoạn : chào hàng
và chấp nhận chào hàng.
5.1. Chào hàng
Chào hàng là một đề nghị giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa trong một thời
hạn nhất định, được chuyển cho một người hay nhiều người đã xác định. Ở giai đoạn
này, một bên đưa ra lời chào hàng, tùy theo nội dung có thể là lời chào bán hoặc chào

mua hàng, đồng thời đưa ra một thời hạn để bên kia xem xét quyết định lập hợp đồng.
Luật Thương mại 2005 không quy định hình thức bắt buộc của chào hàng nói chung
song để chuyển tải được đầy đủ những nội dung cần thiết và tránh hiểu lầm thì hình thức
văn bản là cần thiết. Tuy nhiên, hình thức văn bản không phải là điều kiện bắt buộc để
chào hàng có hiệu lực.
Bên chào hàng có trách nhiệm đối với lời chào hàng của mình trong thời hạn đã
đưa ra trong lời chào hàng. Nếu bên nhận được chào hàng có những đề nghị thay đổi nội
dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào hàng và hình thành
một chào hàng mới. Nếu bên được chào hàng chỉ thay đổi những nội dung không chủ
yếu thì chào hàng được coi là đã được chấp nhận, trừ trường hợp người chào hàng ngay
lập tức từ chối những thay đổi đó.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 20 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Chào hàng hết hiệu lực khi hết thời hạn chấp nhận quy định trong chào hàng hoặc
bị từ chối. Chào hàng cũng có thể bị coi là bị từ chối nếu chào hàng này không được
chấp nhận một cách vô điều kiện mà bị bên nhận được chào hàng đưa ra những yêu cầu
mới. Về mặt thực tế, chào hàng đương nhiên bị coi là hết hiệu lực nếu bên chào hàng, vì
một nguyên nhân nào đó mà ngay khi chưa hết thời hạn chấp nhận chào hàng quy định,
đã không tham gia kinh doanh nữa. Đó có thể là trường hợp bên chào hàng bị giải thể, bị
phá sản, bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
5.2. Ch ấ p nh ậ n chào hàng
Là thông báo của bên được chào hàng chuyển cho bên chào hàng về việc chấp
thuận toàn bộ các nội dung đã nêu trong chào hàng. Như vậy, chấp nhận chào hàng phải
là chấp nhận vô điều kiện. Trường hợp bên được chào hàng yêu cầu sửa đổi, bổ sung
một trong những nội dung chủ yếu của chào hàng thì hành vi đó được coi là từ chối chào
hàng và hình thành một chào mới. Chào hàng chỉ được coi là được chấp nhận nếu người
được chào hàng chấp nhận toàn bộ mọi sửa đổi, bổ sung do người chào hàng đưa ra.
Luật Thương mại không quy định hình thức chấp nhận chào hàng. Vì vậy, chấp
nhận chào hàng có thể được thực hiện dưới mọi hình thức để người chào hàng hiểu là

chào hàng đã được chấp nhận một cách vô điều kiện. Đó có thể là lời nói hoặc một hành
vi cụ thể biểu thị sự đồng ý với toàn bộ chào hàng. Im lặng hoặc không hành động
không được coi là đồng ý với chào hàng. Tuy Luật Thương mại không quy định hình
thức chấp nhận chào hàng, nhưng để tránh những hiểu lầm dẫn đến tranh chấp, chấp
nhận chào hàng nên được thể hiện dưới hình thức văn bản. Bên nhận được chào hàng trả
lời cho bên chào hàng trong thời hạn quy định bằng một thông báo chấp nhận toàn bộ
các nội dung đã nêu trong chào hàng. Thời hạn chấp nhận chào hàng được tính từ thời
điểm chào hàng được chuyển đi cho bên được chào hàng đến hết thời hạn chấp nhận
chào hàng được ghi trong chào hàng. Trong trường hợp thời hạn chấp nhận chào hàng
không được xác định rõ trong chào hàng thì thời hạn trách nhiệm của bên chào hàng
được luật quy định là ba mươi ngày, kể từ ngày chào hàng được chuyển đi cho bên được
chào hàng. Thời điểm chấp nhận là thời điểm bản thông báo chấp nhận được chuyển đi
cho bên chào hàng. Đây cũng là thời điểm bắt đầu trách nhiệm của bên chấp nhận chào
hàng. Trong trường hợp bên được chào hàng chấp nhận chào hàng sau khi hết thời hạn
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 21 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
chấp nhận chào hàng quy định thì chấp nhận đó không có hiệu lực, trừ trường hợp bên
chào hàng thông báo ngay cho bên được chào hàng về việc mình chấp nhận dù quá hạn.
* Thời điểm xác lập hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa được coi là đã ký kết kể từ thời điểm các bên có mặt
ký vào hợp đồng. Trong trường hợp các bên không cùng có mặt để ký vào hợp đồng,
hợp đồng được coi là đã ký kết kể từ thời điểm bên chào hàng nhận được thông báo
chấp nhận toàn bộ các điều kiện đã ghi trong chào hàng trong thời hạn trách nhiệm của
người chào hàng. Sau khi hợp đồng mua bán hàng hóa được ký kết, chỉ bản hợp đồng
này có giá trị bắt buộc đối với các bên hợp đồng, mọi thư từ giao dịch và đàm phán
trước đó về hợp đồng đều hết hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
* Những vấn đề khác trong giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa:
- Giao kết hợp đồng theo mẫu: Các bên có thể thỏa thuận giao kết hợp đồng theo
mẫu là hợp đồng được một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian

hợp lý.
- Phụ lục hợp đồng: Kèm theo hợp đồng có thể có phụ lục hợp đồng để quy định
một cách cụ thể, chi tiết một số điều khoản của hợp đồng mà các bên phải làm rõ khi
thực hiện hợp đồng để các bên không thể hiểu mập mờ, mâu thuẫn về các cam kết trong
hợp đồng.
- Giải thích hợp đồng: Phải dựa trên những quy định của pháp luật nhằm bảo đảm
hợp đồng là ý chí chung và thể hiện lợi ích của tất cả các bên. Nguyên tắc của việc giải
thích hợp đồng được quy định riêng cho từng trường hợp: hợp đồng có điều khoản
không rõ ràng, khi một điều khoản của hợp đồng có thể hiểu theo nhiều nghĩa, hợp đồng
có ngôn từ có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, khi có điều khoản hoặc ngôn từ khó
hiểu, hợp đồng thiếu một số điều khoản, ngôn từ sử dụng trong hợp đồng mâu thuẫn với
ý chí chung và khi bên mạnh thế đưa vào hợp đồng nội dung bất lợi cho bên yếu thế
(Điều 409 Bộ luật Dân sự 2005).
III.THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1. Nguyêh tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo Điều 412 Bộ luật Dân sự 2005, các bên phải tuân thủ một số nguyên tắc
trong quá trình thực hiện hợp đồng đó là:
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 22 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
1.1. Th ự c hi ệ n đ úng cam k ế t trong h ợ p đồ ng
Điều đó có nghĩa là các bên phải thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, đúng
số lượng và chất lượng, đúng chủng loại, đúng thời hạn, đúng phương thức đã xây dựng
trong hợp đồng hoặc do pháp luật đã quy định. Nếu không thực hiện đúng, vi phạm
nghĩa vụ đã được ghi nhận trong nội dung của hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm do vi
phạm hợp đồng. Mà cụ thể là thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của các bên phát
sinh từ hợp đồng.
Các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa
được Luật Thương mại 2005 quy định chi tiết trên cơ sở kế thừa những quy định về mua
bán hàng hóa trong Luật Thương mại 1997, tham khảo công ước Viên 1980 và các tập

quán, thông lệ quốc tế về mua bán hàng hóa để xây dựng được quy định về hợp đồng
mua bán hàng hóa phù hợp với điều kiện thực tế của Việt Nam.
Quyền và nghĩa vụ chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa được
quy định tại Mục 2 Mhương 2 của Luật Thương mại 2005 như sau:
1.1.1. Quyền và nghĩa vụ của bên bán
Bên bán phải giao hàng hóa phù hợp với quy định của hợp đồng về số lượng,
chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong hợp đồng. Điều 35
Luật Thương mại quy định bên bán phải giao hàng vào đúng thời điểm giao hàng đã
thỏa thuận trong hợp đồng. Trường hợp bên bán giao hàng trước thời hạn đã thỏa thuận
thì bên mua có quyền nhận hoặc không nhận nếu các bên không có thỏa thuận khác
(Điều 38).
Nghĩa vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa được quy định tại Điều 42 Luật
Thương mại 2005. Trường hợp có thỏa thuận về việc giao chứng từ thì bên bán có nghĩa
vụ giao chứng từ liên quan đến hàng hóa cho bên mua vào thời hạn, tại địa điểm và bằng
hình thức đã thỏa thuận.
Một trong những nghĩa vụ của bên bán là phải kiểm tra hàng hóa trước khi giao
hàng. Bên bán phải chịu trách nhiệm về những khuyết điểm của hàng hóa mà bên mua
hoặc đại diện của bên mua đã kiểm tra nếu các khiếm khuyết của hàng hóa không thể
phát hiện được trong quá trình kiểm tra bằng biện pháp thông thường và bên bán biết
hoặc không thể không biết về các khiếm khuyết đó nhưng không thông báo cho bên mua
(Khoản 5 Điều 44 Luật Thương mại 2005).
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 23 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
Bên bán còn có nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu đối với hàng hóa. Theo đó bên
bán phải bảo đảm: (1) quyền sở hữu của bên mua đối với hàng hóa đã bán không bị
tranh chấp bởi bên thứ ba; (2) hàng hóa đó phải hợp pháp; (3) việc chuyển giao hàng
hóa là hợp pháp.
Ngoài ra, bên bán không được bán hàng hóa vi phạm quyền sở hữu trí tuệ (Điều
46 Luật Thương mại 2005). Trường hợp hàng hóa mua bán có bảo hành thì bên bán phải

chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn bảo hành đã thỏa
thuận và phải chịu các chi phí về việc bảo hành, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
(Điều 49 Luật Thương mại 2005).
1.1.2. Quyền và nghĩa vụ của bên mua
Điều 50 và 55 Luật Thương mại 2005 quy định bên mua có nghĩa vụ:
- Thanh toán tiền mua hàng và nhận hàng theo thỏa thuận
- Tuân thủ các phương thức thanh toán, thực hiện việc thanh toán theo trình tự,
thủ tục đã thỏa thuận và theo quy định của pháp luật
- Thanh toán cho bên bán vào thời điểm bên bán giao hàng hoặc giao chứng từ
liên quan đến hàng hóa; bên mua vẫn phải thanh toán tiền mua hàng trong trường hợp
hàng hóa mất mát, hư hỏng sau thời điểm rủi ro được chuyển từ bên bán sang bên mua,
trừ trường hợp mất mát, hư hỏng do lỗi của bên bán gây ra.
Ngoài ra, bên mua mất quyền sở hữu đối với hàng hóa, quyền sở hữu trí tuệ đối
với hàng hóa nếu bên mua không thông báo ngay cho bên bán về khiếu nại của bên thứ
ba đối với hàng hóa được giao sau khi bên mua đã biết hoặc phải biết về khiếu nại đó,
trừ trường hợp bên bán biết hoặc phải biết về khiếu nại của bên thứ ba (Điều 45 và 46
Khoản 1 Luật Thương mại 2005).
Bên mua cũng có quyền ngừng thanh toán tiền mua hàng trong các trường hợp:
(1) Bên mua có bằng chứng về việc bên bán lừa dối thì có quyền tạm ngừng việc thanh
toán; (2) Bên mua có bằng chứng về việc hàng hóa đang là đối tượng bị tranh chấp thì
có quyền tạm nhừng thanh toán cho đến khi việc tranh chấp đã được giải quyết; (3) Bên
mua có bằng chứng về việc bên bán đã giao hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì
có quyền tạm ngừng thanh toán cho đến khi bên bán khắc phục được sự không phù hợp
đó.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 24 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn
1.2. Th ự c hi ệ n h ợ p đồ ng m ộ t cách trung th ự c, theo tinh th ầ n h ợ p tác, có l ợ i
nh ấ t cho các bên, đả m b ả o tin c ậ y l ẫ n nhau
Nguyên tắc này đòi hỏi ngay từ khi giao kết hợp đồng cho đến khi thực hiện hợp

đồng các bên phải kịp thời thông báo cho nhau về tình trạng, đặc tính của đối tượng, bao
gồm cả khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nếu một bên vì lợi
ích của mình mà che giấu khuyết tật của vật là đối tượng của hợp đồng, gây ra thiệt hại
cho bên đối tác thì phải bồi thường thiệt hại. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
bên luôn thông tin cho nhau về tiến độ thực hiện hợp đồng. Đó chính là biểu hiện sự hợp
tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, luôn quan tâm đến lợi ích của cả hai bên giao kết hợp
đồng. Có như vậy mới tạo ra lòng tin đối với nhau để trở thành đối tác lâu dài của nhau.
Muốn vậy, khi thực hiện hợp đồng không được ỷ lại, vin vào các khó khăn khách quan
mà không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng đã giao kết hoặc chỉ nghĩ
đến lợi ích của mình mà thờ ơ, không chú ý đến lợi ích của bên cùng giao kết hợp đồng.
Ngoài ra, nguyên tắc này còn đòi hỏi các bên phải tìm mọi biện pháp cần thiết để ngăn
chặn bớt thiệt hại có thể xảy ra cho nhau trong quá trình thực hiện hợp đồng.
1.3. Th ự c hi ệ n h ợ p đồ ng không đượ c xâm ph ạ m đế n l ợ i ích c ủ a nhà n ướ c, l ợ i
ích công c ộ ng, quy ề n và l ợ i ích c ủ a ng ườ i khác
Về nguyên tắc này, khi các bên ký kết, thực hiện hợp đồng vì lợi ích của mình
nhưng phải hướng tới lợi ích công cộng, lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của nhà nước.
Có như vậy thì trật tự pháp luật nói chung mới được giữ vững, thực hiện được nghĩa vụ
của công dân đối với nhà nước. Qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của các bên được bảo
vệ, không làm ảnh hưởng đến lợi ích hợp pháp của người khác.
2. Biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
Để ràng buộc và tăng cường trách nhiệm trong việc thực hiện các nghĩa vụ của
hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện các nghĩa
vụ được pháp luật quy định. Các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự được
điều 318 Bộ luật Dân sự quy định bao gồm: Cầm cố tài sản, Thế chấp tài sản, đặt cọc,
ký cược, ký quỹ, bảo lãnh, tín chấp. Trong hợp đồng mua bán hàng hoá các bên có thể
thoả thuận để áp dụng các biện pháp để bảo đảm thực hiện hợp đồng như: cầm cố tài
sản, thế chấp tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ và bảo lãnh.
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45
Khóa luận tốt nghiệp 25 GVHD: TS. Nguyễn Hợp Toàn

2.1. C ầ m c ố tài s ả n
Là việc một bên giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ (Điều 326 Bộ luật Dân sự 2005). Về hình thức, việc cầm cố tài sản phải
được lập thành văn bản (có thể là văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính). Trong
đó ghi rõ đối tượng, giá trị tài sản, thời hạn cầm cố và phương thức xử lý tài sản cầm cố.
Tài sản cầm cố có thể bị khấu trừ phần nghĩa vụ chưa thực hiện, được giao cho
bên nhận cầm cố cầm trước một tài sản của bên cầm cố để bảo đảm cho quyền lợi của
mình. Các bên trong quan hệ cầm cố có thể là cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể khác,
nhưng phải thỏa mãn các yêu cầu về năng lực chủ thể.
Khi người có nghĩa vụ giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người có quyền, từ
thời điểm đó họ bị hạn chế một số quyền năng đối với tài sản của mình. Phải báo cho
bên nhận cầm cố về quyền của người thứ ba đối với tài sản cầm cố, đồng thời thanh toán
cho bên nhận cầm cố những chi phí hợp lý để bảo quản, giữ gìn tài sản cầm cố. Nhưng
chỉ được bán tài sản cầm cố, thay thế tài sản cầm cố bằng một tài sản khác nếu được bên
nhận đồng ý, hoặc có thể nhận lại tài sản khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm
dứt.
Trong thời gian văn bản cầm cố có hiệu lực, người nhận cầm cố tài sản có nghĩa
vụ bảo đảm nguyên giá trị của tài sản cầm cố, không được chuyển dịch sở hữu vật cầm
cố cho người khác cũng như không đem tài sản cầm cố để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
khác hoặc không được khai thác công dụng tài sản cầm cố, hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài
sản cầm cố nếu bên cầm cố không đồng ý.
2.2. Th ế ch ấ p tài s ả n
Là việc một bên (bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ đối với bên kia (bên nhận thế chấp). Tài sản thế chấp do bên thế chấp
giữ, không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa
thuận giao cho người thứ ba giữ tài sản thế chấp (Điều 342 Bộ luật Dân sự 2005 ).
Tài sản thế chấp có thể là toàn bộ bất động sản, động sản có vật phụ thì vật phụ
đó cũng thuộc tài sản thế chấp. Nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản, động sản có vật
phụ thì vật phụ thuộc tài sản thế chấp trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Hình thức thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản

riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp có quy định thì văn bản thế chấp
SVTH: Trần Thị Mai Lớp Luật Kinh doanh
K45

×