Câu 1: Phân tích giá trị lịch sử tư tưởng chính trị ở phương tây thời kỳ cổ đại và cận đại.
Những giá trị đó có tác dụng gì với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.
Bài làm
Thời cổ đại ở phương Tây, với những cuộc đấu tranh một mất một còn giữa chủ nô dân chủ và chủ nô
quý tộc mà biểu hiện của nó là những cuộc cải cách dân chủ ở các thành bang là đặc trưng cơ bản nổi
bật của hệ tư tưởng lúc bấy giờ. Thời trung cổ là sự kết hợp và xuyên thấu lẫn nhau giữa thần quyền và
thế quyền để thống trị thần dân mà biểu hiện cơ bản là sự thống trị của thiên chúa giáo đối với tinh thần
của nông nô. Sang thời cận đại, đặc trưng cơ bản là sự phát triển mạnh mẽ của triết học khai sáng và là
thời kỳ của các cuộc cách mạng dân chủ tư sản với sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân lao
động đấu tranh cho các quyền cơ bản của con người. Đó là những nét tổng thể dệt nên nội dung cơ bản
của lịch sử phát triển tư tưởng chính trị ở các nước phương Tây thời kỳ trước Mác.
Việc làm rõ những giá trị phổ biến trong sự phát triển chính trị của nhân loại qua sự phát triển tư
tưởng chính trị phương tây từ cổ đại đến cận đại sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong tổ chức thực thi
quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta.
I. Giá trị lịch sử tư tưởng chính trị ở phương tây thời kỳ cổ đại và cận đại
1. Thời cổ đại mà đặc trưng là các tư tưởng và học thuyết chính trị Hy Lạp - La Mã. Họ đề cập về
những vấn đề như nguồn gốc, bản chất của nhà nước, các hình thức xã hội, thể chế nhà nước, thủ lĩnh
chính trị
Trước nhất, bàn về thủ lĩnh chính trị, đã có rất nhiều quan điểm, ý kiến của các học giả về vấn đề này
SOCRAT cho rằng : thủ lĩnh chính trị phải là người có đạo đức. Nhưng đạo đức phụ thuộc vào trí
tuệ. Tuy nhiên, do xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc nên ông cho rằng chỉ có thiểu số tầng lớp quý tộc
mới là người có trí tuệ, mới là những người sáng tạo đúng đắn.
DEMOCRITE: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải là người có tài năng, đạo đức và do thuộc trường phái
duy vật chủ nô dân chủ nên cho rằng tầng lớp bình dân cũng có tài năng, có thể làm được chính trị.
SENOPHONE : yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải có kỷ thuật giỏi, phải có sức thuyết phục cao, người
thủ lĩnh phải biết vì lợi ích chung nghĩa là phải biết chăm sóc cho người bị trị, biết hợp lại và nhân sức
mạnh của mọi người. Ông là người đầu tiên đặt ra yêu cầu về thủ lĩnh chính trị khá toàn diện như : phải
có chuyên môn giỏi, có uy tín, vì dân…
PLATON: yêu cầu thủ lĩnh chính trị phải thực sự có khoa học chính trị, có tính khí phù hợp với
nhiệm vụ đảm đương. Ông xem tiêu chuẩn chính trị là tiêu chuẩn của mọi tiêu chuẩn. Ông quan niệm
người lãnh đạo trong xã hội không được có quyền tư hữu (sở hữu về tài sản) bởi vì tư hữu sẽ làm mất
công tâm. Lực lượng võ sĩ bảo vệ thì không được có gia đình riêng vì có gia đình riêng thì sẽ không thể
chiến đấu dũng cảm được. Theo ông, thủ lĩnh chính trị phải biết hy sinh lợi ích cá nhân vì những giá trị
chung. Tuy có những quan điểm tiến bộ nhưng ông vẫn còn sai lầm khi cho rằng một thủ lĩnh chính trị
như vậy chỉ có ở tầng lớp chủ nô quý tộc.
ARISTOTE: xem thủ lĩnh chính trị là người sung túc, là người ở tầng lớp trung lưu không phải giàu
cũng không phải nghèo, họ là người phải biết uốn mình theo lới khuyên của các bên (vì quan điểm của
ông theo nhị nguyên luận).
CICÉRON: như là một sự tổng kết về của những tư tưởng về người thủ lĩnh chính trị trước đó.
Oâng nêu ra rằng người thủ lĩnh chính trị phải có sự thông thái, có trách nhiệm, có sự cao thượng về
phẩm hạnh, phải thống nhất trong minh giữa tài năng và quyền uy. Có uy thế tinh thần, có tinh thần cao
thượng, biết hy sinh vì lợi ích chung, bỏ qua các lợi ích tiền bạc không chính đáng. Quan niệm của ông
đến ngày nay cũng khó có người đạt được, đó là nhà chính trị phải có chính trị, có đạo đức…
Thứ hai, bàn về nguồn gốc của quyền lực nhà nước, một số quan điểm nổi bậc của các học giả như
sau :
1
1
HERACLIT: là người thuộc tầng lớp chủ nô quý tộc, có lập trường duy tâm, ông xem trạng thái tự
nhiên của con người tự nó đã hoàn hảo, không có vấn đề công bằng hay không công bằng ở đó. Công
bằng do con người tạo ra xã hội con người là một trạng thái tự nhiên, tự nó, không ai sinh ra, không ai
sắp đặt nó, tự nhiên sinh ra có kẻ trí và người ngu cho nên kẻ trí thống trị người ngu là lẽ tự nhiên, kẻ trí
là người quí tộc, nô lệ là người ngu. Ông cho rằng quyền lực là quy luật vĩnh viễn. Không bao giờ trong
xã hội lại không có quyền lực. Pháp luật nhằm thực hiện tính tất yếu của quyền lực, xã hội phải phục tùng
ý chí của một cá nhân là điều tất yếu cho sự thống nhất. Theo ông bất bình đẳng là tự nhiên, một quý tộc
phải được trị giá bằng một nghìn dân thường.
PLATON: xem quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là quyền lực thống trị của kẻ trí đối với
người ngu. Đó là đặc tính của trí tuệ. Chỉ có người có trí tuệ mới có quyền lực. Trí tuệ chỉ có ở quý tộc.
ARISTOTE: quan niệm quyền lực của xã hội cũng là một trạng thái tự nhiên. Nó xuất phát từ gia
đình, quyền của cha đối với con, chồng đối với vợ, anh đối em; xuất phát từ quyền lực đối với xã hội.
Trong xã hội có nhiều gia đình, gia đình này có sự xâm hại đối với gia đình khác. Do đó mỗi gia đình
phải nhượng lại quyền lực của từng gia đình thành quyền lực chung. Người nắm quyền lực chung là nhà
nước. Vì vậy, quyền lực nhà nước là tự nhiên, pháp luật là những nguyên tắc khách quan, vô tư, xuất
phát vì lợi ích của xã hội, của từng công dân.
CICÉRON cho rằng quyền lực nhà nước hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài. Quyền lực bắt
nguồn từ bản chất của con người chạy trốn sự cô đơn, tìm cuộc sống của cộng đồng. Cho nên quyền lực
là của chung chứ không riêng của một ai, dù đó là người tài giỏi nhất cũng không sinh ra quyền lực
được.
Thứ ba, bàn về thể chế nhà nước, các quan điểm lớn bao gồm :
HÉRODOT : là người đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã phân biệt và so sánh các thể chế của
nhà nước khác nhau. Theo ông có 3 hình thức cơ bản:
+ Thể chế quân chủ: tức là thể chế cầm quyền của một người-đó là vua. Thể chế này có 2 mặt :
Ưu điểm: là thể chế ra đời thường là do những người có công khai quốc, thường là vì lợi ích chung của
nhân dân. Nó là một bàn tay sắt cần thiết khi chế độ dân chủ bị rối loạn. Nhược: thể chế này dễ rơi vào
sự độc tài, chuyên quyền, dễ bị xu nịnh, luôn có xu hướng là lạm dụng quyền lực.
+ Thể chế quý tộc: thể chế của một số ít người thông thái và tiêu biểu về phẩm hạnh của quốc
gia để cầm quyền. Ưu: đây chính là chính quyền của những người có trình độ cao nên mọi công việc,
các quyết sách chính trị đều được bàn bạc giữa những người trí tuệ nên công việc có khoa học, ít sai
lầm. Nhược: giữa các nhà thông thái làm việc bên nhau sớm muộn cũng sẽ tiêu diệt lẫn nhau, vì không
ai chịu thua ai, các nhà thông thái đều muốn làm thầy của nhau.
+ Thể chế dân chủ: thể chế này là của đông đảo nhân dân nắm quyền và nó được thành lập bởi
chế độ bỏ phiếu để bầu ra các pháp quan. Ưu: các quyết định quyết sách chính trị đều do tập thể bàn
bạc một cách dân chủ. Nó có xu hướng công bằng vì lợi ích chung, chăm lo cho nhân dân. Nhược : số
đông người ít học cầm quyền thì khó có khả năng chống độc tài, chuyên chế, dễ rơi vào tiểu tiết mà quên
đi tầm chiến lược, thường thấy những chuyện trước mắt mà không thấy trước những chuyện lâu dài. Dễ
bị kẻ xấu kích động lôi kéo. Từ đó ông kết luận loại thể chế tốt nhất là thể chế hỗn hợp những ưu của
từng thể chế trên.
DEMOCRIT: ông ủng hộ chế độ dân chủ cộng hoà chủ nô.
SOCRAT: ông là người ủng hộ chế độ chuyên chế độc tài. Ông cho rằng dân chủ là sai lầm. Dân
chủ là chính quyền của người ngu dốt, ông gọi đó là chính quyền “bình dân”.
2
2
ARISTOTE: ông cho rằng thể chế nhà nước dân chủ là thể chế người giàu, người nghèo không
bên nào số lượng tuyệt đối. Ông cho rằng mọi thể chế đều có nguy cơ biến chất, thay đổi bằng cuộc
cách mạng. Ông là người đầu tiên phân loại quyền lực nhà nước: lập pháp, hành pháp, tư pháp. Người
đứng đầu nhà nước là giai cấp trung lưu, ông đề cao vai trò của pháp luật đối với việc ổn định xã hội.
Nhà nước có chức năng bảo đảm cho xã hội được sống hạnh phúc. Ông quan niệm công bằng rất tiến
bộ, phân phối công bằng có nghĩa là người đáng được hưởng nhiều hơn thì được nhiều hơn, người
đáng được hưởng ít hơn thì được ít hơn. Ông cũng đề cập đến vấn đề hài hòa giữa lợi ích cá nhân và lợi
ích xã hội và cho rằng đạo đức phải phục vụ cho pháp luật
POLYBE : kế thừa tư tưởng trước đó vào thể chế nhà nước, ông cho rằng thể chế nhà nước là
phải kết hợp những ưu điểm các thể chế chứ không theo một tiêu chí thuần túy nào bởi vì trong thuần túy
đã chức đựng mầm mống sự yếu kém khi phát huy tối đa sẽ bộc lộ yếu kém.
2. Thời trung cổ (thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 15) xã hội phương Tây chìm đắm trong xiềng xích nô lệ
của hai thế lực thần quyền và thế quyền, đó là Thiên chúa giáo và chế độ phong kiến mà người ta gọi
đêm trường Trung cổ. Thiên chúa giáo lấn át cả chế độ phong kiến và chi phối toàn bộ đời sống xã hội
bằng những luật lệ hà khắc và người xuẩn. Chính vì vậy, thời kỳ này xã hội phương Tây hầu như không
phát triển được về mọi mặt, kể cả hệ tư tưởng chính trị.
3. Thời cận đại là thời kỳ triết học khai sáng, những tư tưởng chính trị phát triển rất rực rỡ, phong
phú và đa dạng, đặc biệt là ở Pháp.
- DIDEROT: theo ông nguồn gốc nhà nước ra đời do khế ước xã hội. Nhà nước phải bảo đảm bình
đẳng và tự do. Nhà nước nào vi phạm điều đó thì không còn tư cách để tồn tại.Về luật pháp: bản chất
con người phải phù hợp với trạng thái tự nhiên, luật pháp quán triệt điều đó, chứ không phải ngược lại.
Người ta gọi ông là tác giả của tác phẩm cộng sản tuyệt vời và của18 “bộ luật tự nhiên”.Về tư cách lãnh
đạo, ông cho rằng mọi chức vụ của người cầm quyền phải được thực hiện bằng thi cử. “dòng đầu tiên
của một bộ luật là hạn chế quyền lực của người cầm quyền”. (Diderot). Về phương pháp thay đổi chế độ
xã hội, ông không tán thành phương pháp cách mạng và cho tằng tiến bộ về lý trí sẽ làm thay đổi xã hội.
Ông phủ nhận vai trò của tôn giáo: nhà thờ không thể dung hoà với chân lý được.
- VOLTAIRE: ) là lãnh tụ của phong trào khai sáng, ông chống chế độ chủ nô, đấu tranh cho sự bình
đẳng của công dân nước Pháp. Ông phê phán nhà thờ và chuyên chế, mọi tội ác trong xã hội là do nhà
thờ mà ra. Ông chủ trương tự do tín ngưỡng, báo chí, ngôn luận và sở hữu. Ông kịch liệt chống chiến
tranh. Theo ông, chiến tranh còn kinh khủng hơn dịch hạch và điên khùng. Theo ông bất bình đẳng về tài
sản là tất yếu.
- MONTESQUIEU: phê phán chế độ chuyên chế phong kiến và cho rằng chuyên chế về bản chất là
đối lập với tự do. Theo ông chế độ chuyên chế là bạo chúa, vua pháp là một gã phù thuỷ. Bàn về nhà
thờ, ông cho rằng nhà thờ là nguồn gốc của tội lỗi, ông giải thích sở dĩ La Mã cường thịnh là do ghét
chuyên chế và yêu tự do. Sở dĩ La mã bị huỷ diệt cũng vì tự do bị huỷ diệt và đạo đức bị suy đồi; song
ông cũng giành cho tôn giáo một vị trí nhất định trong việc duy trì đạo đức xã hội. Về nguồn gốc của nhà
nước, theo ông, nhà nước xuất hiện trong một quá trình lịch sử lâu dài khi mà trong xã hội xuất hiện tình
trạng mâu thuẫn không thể điều hoà nếu không có một cơ quan có quyền lực đủ mạnh để giữ gìn sự
bình ổn của xã hội. Ông là người đã xây dựng học thuyết nhân quyền với mục đích tạo dựng các thể chế
chính trị bảo đảm tự do chính trị cho các công dân. Tự do chính trị của công dân là quyền làm mọi cái mà
pháp luật không cấm. Do vậy tự do chính trị chỉ có được ở các quốc gia mà tất cả các quan hệ đều được
điều chỉnh bằng luật pháp. Pháp luật trở thành thước đo của tự do, mặt khác ông lại cho rằng kinh
nghiệm lịch sử bao đời cho thấy người nắm quyền lực thường có khuynh hướng lạm quyền. Do vậy cách
tốt nhất để chống lạm quyền là phải chống độc quyền, là phải phân chia sao cho quyền lực kiềm chế
quyền lực, từ đó ông đưa ra học thuyết tam quyền phân lập một cách có hệ thống (lập pháp hành
3
3
pháp và tư pháp) và là đối thủ đáng sợ nhất của chế độ chuyên chế phong kiến. Đặt vấn đề xây dựng
đạo đức chính trị: ông cho rằng đạo đức chính trị là phải đặt lợi ích công cộng cao hơn lợi ích cá nhân
người cầm quyền. Ông đề ra thuyết địa lý: cho rằng cái đạo đức, cái tính cách của một dân tộc chịu sự
chi phối bởi những điều kiện địa lí nhất định (địa hình, khí hậu…) nhà cầm quyền khi ban hành chính
sách pháp luật phải xét đến những điều kiện địa lí cụ thể đó. Về thể chế nhà nước: ông phân ra bản chất
và nguyên tắc hoạt động của các loại chính phủ đó là chính phủ cộng hoà dân chủ, cộng hoà quý tộc,
quân chủ.
- ROUSSEAU: là đại biểu của tầng lớp dân chủ thị dân, ông phê phán gay gắt quan hệ đẳng cấp
phong kiến và chế độ chuyên chế. Về chính trị: quan điềm về chính trị của ông cấp tiến hơn Montesquieu
(vì Montesquieu bảo vệ tư tưởng quân chủ lập hiến), quan điểm của ông tiến xa hơn ở chỗ đề cao tư
tưởng chủ quyền nhân dân, ông không chỉ phê phán chế độ phong kiến mà đòi bác bỏ hoàn toàn chế độ
đó. Ông cho rằng trong xã hội mọi người phải được tự do bình đẳng đó là trạng thái tự nhiên vốn có, là
phúc lợi cao nhất của con người, quyền lực trong xã hội phải thuộc về nhân dân. Nhà nước lập ra qua
các khế ước xã hội phải thể hiện ý chí quyền lực của nhân dân nếu không thể hiện được điều đó thì bộ
phận cầm quyền phải bị đào thải, thay thế. Ông chủ trương quyền lực phải tập trung cao nhất, ông chống
lại tư tưởng phân quyền của Montesquieu, theo ông nếu quyền lực phân chia ra các cơ quan nắm giữ
các nhiệm vụ khác nhau thì phải coi các cơ quan đó là công cụ của chủ thể nhân dân và lệ thuộc vào chủ
quyền nhân dân. Ông cho rằng ý chí chung phải được rút ra từ đa số và chính trị là chính trị của đa số,
được xây dựng trên nguyên tắc đa số, chỉ qua quyết định của đa số thì chính trị mới không phạm sai lầm.
- LỐC CƠ: Ông cho rằng bản chất của con người là tự do, xã hội loài người là tự do, cho nên tự
do là giá trị cao quý nhất của xã hội, của con người. Nhà nước phải bảo đảm sự tự do của con người,
mới bảo đảm tồn tại sự hợp lí của nhà nước. Luật của tư nhiên bắt buộc phải tự do nên con người phải
tự do. Ông đã luận giải về nguồn gốc và bản chất của nhà nước xuất phát từ quyền lực tự nhiên của con
người là tối cao và bất khả xâm phạm. Do quy luật tự nhiên của xã hội mà nảy sinh ra bất công về kinh tế
xã hội, mất an ninh và quyền tự nhiên của con người bị xâm phạm. Để bảo vệ quyền tự nhiên của con
người thì mọi thành viên trong xã hội mới “ký kết”, hình thành một chính quyền có quyền lực chung. Như
vậy quyền lực xuất hiện từ các thành viên của xã hội. Từ đó ông đưa ra 3 kết luận quan trọng như sau :
- Quyền lực nhà nước về bản chất là quyền lực của dân. Quyền lực của dân là cơ sở, nguồn gốc,
nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với dân, nhà nước không có quyền mà chỉ thực hiện
sự ủy quyền của nhân dân . Nhà nước có quyền trong “khế ước xã hội”, đó là hiến pháp những đạo luật
cơ bản…
- Nhà nước thực chất là khế ước của xã hội, trong đó công dân nhường một phần quyền của mình
mà hình thành quyền lực chung, quyền lực nhà nước điều hành và quản lý XH để bảo vệ quyền tự nhiên
của con người.
- Bảo toàn quyền tự nhiên của mỗi cá nhân con người, đó cũng là tiêu chí căn bản nhất để xem xét
tính hợp lý hay không hợp lý của nhà nước, đó là giới hạn căn bản của nhà nước. Đi quá giới hạn này,
chính quyền sẽ là chuyên chế , thành kẻ thù của quyền lực tự nhiên và là đối tượng cách mạng.
Ba kết luận trên đặt nền móng cho chế độ dân chủ hiện đại. Lốccơ chia nhà nước làm 3 cơ quan
với 3 quyền khác nhau:
- Quyền lập pháp : là sự biểu hiện ý chí chung của quốc gia và thuộc về toàn dân. Nếu những quốc
gia lớn thì cử ra đại biểu nhân dân (nghị viện) do nhân dân bầu ra và phải là những người hiểu rõ về luật.
- Quyền hành pháp : là quyền thực hiện pháp luật đã được lập ra bởi cơ quan lập pháp, phải có cơ
cơ quan riêng và tách ra khỏi quốc hội.
4
4
- Quyền tư pháp : là quyền xét xử tội phạm và giải quyết tranh chaá©p giữa cá nhân được thực
hiện bởi thẩm phán do nhân dân bầu ra.
Theo ông, phân quyền là một tất yếu kĩ thuật, là một tiêu chuẩn không thể thiếu được của một xã hội
dân chủ. Yêu cầu phân quyền sao cho cân bằng, công bằng nghĩa là dùng quyền lực này để chế ngự
quyền lực khác.
Như vậy, tư tưởng chính trị ở phương tây thường gắn liền với pháp luật trong khi tư tưởng chính trị
phương đông thường gắn liền với đạo đức. Tư tưởng chính trị phương tây thường xuất phát từ “trạng
thái tự nhiên” của con người thường đề cao động lực “quyền lợi” của con người. Chính trị học của giai
cấp tư sản phương tây thường dựa trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân, tuyết đối hoá quyền lợi cá nhân.
Tư tưởng chính trị của giai cấp tư sản so với tư tưởng chính trị của giai cấp phong kiến là một bước tiến
bộ trong việc giải phóng con người nhưng vẫn chưa đặt con người như là mục đích, tức là vẫn chưa thể
giải phóng đại đa số nhân dân lao động.
Sự ra đời của tư tưởng chính trị Macxit là một cuộc cách mạng vĩ đại, lần đầu tiên trong lịch sử xã hội
loài người, một giai cấp bị áp bức bóc lột, giai cấp công nhân đã có một hệ tư tưởng cách mạng và khoa
học là kim chỉ nam cho hành động của mình. Trên thực tế Mác-Ănggghen đã xây dựng tư tưởng chính trị
của mình khác về chất so với những tư tưởng chính trị duy tâm trước đó. Sự ra đời của tư tưởng chính
trị của 2 ông là bước ngoặc cách mạng trong lịch sử tư tưởng chính trị nhân loại. Với 2 ông chính trị lớn
nhất là giải phóng con người mà muốn giải phóng con người thì phải giải quyết vấn đề giai cấp, phải
giành lấy các nguồn lực chính trị, đó là con đường giải phóng một cách khoa học và như vậy chủ nghĩa
Mác chính là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực chứ không phải là chủ nghĩa nhân đạo trừu tượng chỉ dựa
vào đạo đức và lòng thương người. Trong quá trình đấu tranh, giai cấp công nhân và nông dân, các dân
tộc bị áp bức, tư tưởng chính trị Macxit đã trở thành ngọn cờ chủ đạo.
Ngày nay, CNXH đang đứng trước những thử thách to lớn nhưng chúng ta tin vào bản chất cách
mạng và khoa học vốn có của nó, CNXH khoa học nói riêng và tư tưởng chính trị Macxit nói chung sẽ
tiếp thu được những tri thức mới của thời đại, tiếp tục làm kim chỉ nam cho phong trào cách mạng của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới.
II. Giá trị của nó đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay:
Khi nghiên cứu tư tưởng chính trị của các thời đại lịch sử Tây, chúng ta không được quên tính giai
cấp của nó, mặt khác không vì thế mà phủ nhận toàn bộ nội dung, tri thức khách quan trong các học
thuyết chính trị mà phải biết chọn lọc, rút ra những cái giá trị để kế thừa, làm giàu tri thức của mình, kể cả
đối với tư tưởng chính trị tư sản hiện đại.
Qua những giá trị tư tưởng chính trị Phương Tây đã trình bày, chúng ta nhận thấy rằng bất cứ hệ
thống chính trị nào, nhà nước cũng mang bản chất giai cấp, nhưng đồng thời phải thực hiện chức năng
xã hội. Mặt khác, hệ thống chính trị nào, nhà nước nào mà quyền lực thuộc về nhân dân lao động thì đó
là xu hướng tiến bộ. Nhà nước pháp quyền là một thành tựu của văn minh chính trị cần phải được ứng
dụng. Hệ thống chính trị cần phải có cơ chế tự điều chỉnh và cơ chế cân bằng kiểm soát quyền lực để
thích ứng với điều kiện thay đổi và cần phát huy sáng tạo cá nhân.
Trên đây là những vấn đề cơ bản của các học thuyết chính trị thường đề cập đến và cũng là những
bài học kinh nghiệm mà chúng ta cần xét đến trong quá trình xây dựng hệ thống chính trị của đất nước
hiện nay
Ở Việt Nam ta, do chịu ảnh hưởng của tư tưởng chính trị phương Đông nên gắn liền với đạo đức
(Nho giáo, Phật giáo), ý thức tuân thủ pháp luật của công dân chưa cao. Việc vận dụng những tri thức về
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội công dân vào công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật của nhà nước pháp quyền XHCN là rất cần thiết và bổ ích. Đó chính là quan điểm kết hợp hài hoà
những giá trị đạo đức tiến bộ của nhân loại với giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc.
- Trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, để tiếp tục hoàn thiện nhà nước, phát huy dân chủ
và tăng cường pháp chế XHCN, phải xây dựng nhà nước CH XHCN VN thực sự là trụ cột của hệ thống
chính trị và là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Đó là nhà nước pháp quyền
của dân, do dân và vì dân, nhà nước ta dưa trên nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân thể hiện ý chí, lợi
5
5
ích và nguyện vọng của nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (không phân quyền).
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan, tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân có
nghĩa vụ chấp hành hiến pháp và pháp luật. Cán bộ, công chức nhà nước phải là đầy tớ trung thành của
dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân.
- Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở việc đề ra đường lối, chủ trương và các chính
sách định hướng cho sự phát triển trong từng thời kì, lãnh đạo nhà nước định ra và thực thi hiến pháp và
pháp luật. Các cơ quan nhà nước phải liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến nhân
dân; phát huy vai trò và trách nhiệm của Mặt trận tổ quốc, các đoàn thể, các tổ chức xã hội và nhân dân
trong việc tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát và bảo vệ nhà nước.
- Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trên mọi lĩnh vực và được thể chế hoá bằng pháp
luật, được hòan thiện trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao dân trí. Nhà nước tạo điều kiện
để nhân dân thực sự tham gia quản lí xã hội thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng, liên quan
đến lợi ích đông đảo của nhân dân. Phát huy dân chủ kết hợp chặt chẽ với tăng cường pháp chế, thực
hiện quản lí xã hội bằng pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho toàn dân tuyên tuyền, giáo
dục pháp luật gắn với trách nhiệm, lợi ích và nghĩa vụ của công dân, tôn trọng và giữ vững kỷ luật, kỉ
cương, trật tự xã hội.
- Những nhà thủ lĩnh chính trị hoặc Cán bộ Đảng viên, ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành
nghiêm chỉnh cương lĩnh, điều lệ, nghị quyết của Đảng và pháp luật của nhà nước. Kiên quyết đấu tranh
với những biểu hiện coi thường và buông lỏng kỷ luật. Xây dựng đội ngũ cán bộ trước hết là cán bộ lãnh
đạo và quản lí ở các cấp thật sự vững vàng và kiên định về chính trị gương mẫu về đạo đức, trong sạch
về lói sống, có trí tuệ kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn sáng tạo, gắn bó với nhân dân. Đảng và
nhà nước có cơ chế và chính sách phát hiện tuyển chọn, giáo dục, rèn luyện, đào tạo và bồi dưỡng,
trọng dụng những người có đức, có tài ở trong và ngoài Đảng.
Tóm lại: việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN thực sự vững mạnh đồng thời nâng cao
hiệu quả và chất lượng lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước đã trở một đòi hỏi bức thiết của cuộc sống,
của sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng của dân tộc ta vì chỉ có xây dựng nhà nước pháp quyền đủ
mạnh mới có thể bảo vệ và phát huy những thành quả trong quá trình đổi mới về mọi mặt (chính trị, kinh
tế,văn hoá, quan hệ quốc tế…), mới có đủ khả năng giải quyết vấn đề mới nảy sinh do mặt trái của cơ
chế thị trường, của kinh tế nhiều thành phần mang lại, và mới có khả năng đương đầu và đập tan chiến
lược “diễn biến hoà bình” mà các thế lực chống đối đang ráo riết tiến hành . Để làm được điều đó nhà
nước phải thực hiện đồng thời các giải pháp sau :
- Tiến hành cải cách, hoàn thiện các cơ quan lập pháp, hành pháp vàtư pháp mà trước mắt là cải
cách một bước nền hành chính.
- Tiếp tục bổ sung và hoàn thiện pháp luật để đáp ứng đòi hỏi quản lí đất nước với kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế.
- Thể chế hoá nền dân chủ của nhân dân thành pháp luật, thành cơ chế, thành chính sách, làm
cho dân chủ đi liền với kỷ cương trật tự, dân chủ và chuyên chính không tách rời nhau.
Nếu quán triệt đầy đủ và thực hiện tốt những phương hướng nêu trên nhà nước pháp quyền XHCNVN
sẽ được thiết định vững chắc và ngày càng phát triển.
6
6
Vấn đề 2: Vận dụng lý luận về quyền lực chính trị và thực tiễn đổi mới ở nước ta hiện nay để
phân tích và chứng minh : quyền lực chính trị trong chủ nghĩa xã hội là thuộc về nhân dân lao
động.
Bài làm
Chính trị học là khoa học đấu tranh cho quyền lực chính trị và khoa học về giành, giữ và thực thi quyền
lực chính trị. Quyền lực chính trị trở thành trung tâm xuất phát của chính trị học. Song quyền lực chính trị
chỉ xuất hiện và tồn tại khi XH có sự phân chia giai cấp, còn quyền lực đã xuất hiện cùng với loài người
được tổ chức thành XH và sẽ tồn tại cùng với đời sống XH. Theo quan điểm của CN Mác-Lênin “quyền
lực chính trị theo đúng nghĩa của nó, là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp
khác”. Với khái niệm này, ta thấy rằng quyền lực chính trị luôn gắn liền với giai cấp, gắn liền với bản chất
nhà nước. “Quyền lực chính trị trong CNXH cơ bản thuộc về nhân dân lao động”. Bằng lý luận về quyền
lực chính trị và thực tiễn cách mạng ở nước ta, chúng ta phải phân tích làm rõ luận điểm trên.
1. Khái niệm và đặc trưng của quyền lực chính trị :
a. Khái niệm :
Trong XH có giai cấp, các giai cấp thể hiện ý chí của giai cấp mình đối với XH. Ý chí đó chỉ thực sự có
hiệu lực khi giai cấp nắm lấy được quyền điều hành quyền lực công, họ sử dụng quyền lực công cho
mục đích giai cấp, biến quyền lực công thành quyền lực giai cấp, đồng thời biến ý chí của giai cấp thành
quyền lực công. Cả 2 quyền lực ấy hợp thành một chỉnh thể quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền
để trấn áp giai cấp đối lập. Vậy, “Quyền lực chính trị, theo đúng nghĩa của nó là bạo lực có tổ chức của
một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác”.
Kế thừa và phát huy khái niệm về quyền lực chính trị như trên, Hồ Chí Minh khẳng định “nhân dân ta
phải giành lấy chính quyền, là vấn đề tiên quyết, là phải xây dựng một Đảng cách mạnh để lãnh đạo
nhân dân đấu tranh giành lấy chính quyền.” Việc đấu tranh giành chính quyền, gìn giữ và củng cố chính
quyền ấy là điều quan trọng, có ý nghĩa cốt tử nhất.
b. Đặc trưng :
Quyền lực chính trị ra đời gắn liền với sự xuất hiện của các giai cấp trong xã hội, nhưng các chế độ xã
hội có bản chất khác nhau thì quyền lực chính trị cũng sẽ hiểu khác nhau. Song, dù chế độ xã hội nào thì
quyền lực chính trị cũng biểu hiện trên các đặc điểm cơ bản sau : Một là quyền lực chính trị bao giờ cũng
mang tính giai cấp. Hình thức tổ chức quyền lực chính trị có thể là thế chế chính trị chỉ một giai cấp hoặc
của sự liên minh giữa các giai cấp hay của nhân dân. Nhưng thực chất của quyền lực đó bao giờ cũng
thuộc về một giai cấp nhất định, giai cấp thực thụ cầm quyền (đây là đặc điểm hết sức khác nhau giữa
quyền lực chính trị và quyền lực xã hội); Hai là quyền lực chính trị biểu hiện ra bên ngoài là thống nhất
nhưng trong quan hệ nội tại thường hàm chứa sự khác biệt và thậm chí chứa đựng mâu thuẫn đối
kháng; Ba là sức mạnh của quyền lực chính trị là sức mạnh của giai cấp.
c. Quyền lực nhà nước và chức năng của nhà nước
Quyền lực chính trị tiêu biểu tập trung ở quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là quyền lực
của giai cấp thống trị (giai cấp cầm quyền). Là một bộ phận quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước cũng
mang đầy đủ tính chất và đặc trưng của quyền lực chính trị. Nhà nước không chỉ biểu hiện tập trung và
mạnh mẽ nhất, quyền lực của giai cấp cầm quyền mà còn nhân danh quyền lực công, quyền lực XH đối
với mọi giai cấp và tầng lớp khác Ngoài ra, quyền lực nhà nước cũng có tính đặc thù riêng. Điểm khác
nhau căn bản giữa quyền lực nhà nước với quyền lực chính trị là quyền lực nhà nước có khả năng vận
7
7
dụng các công cụ, các lực lượng, các phương tiện nhà nước để buộc các giai cấp, các tầng lớp phải
phục tùng ý chí của giai cấp thống trị. Còn quyền lực chính trị không chỉ là quyền lực nhà nước mà còn
bao gồm các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng chính trị như : quyền lực của Đảng cầm quyền, của
các tổ chức chính trị nhân dân phi nhà nước
Quyền lực của nhà nước có 2 chức năng :
- Chức năng thống trị giai cấp để đảm bảo sự thống trị về mặt chính trị của giai cấp cầm quyền đối
với các giai cấp và các tầng lớp khác trong xã hội nhằm bảo vệ và phát triển nền kinh tế mà giai cấp cầm
quyền là người đại diện cho quan hệ sản xuất thống trị; bảo đảm sự xác lập hệ tư tưởng cùa giai cấp cần
quyền trong toàn bộ nền văn hoá xã hội; chống lại mọi lực lượng thù địch từ bên trong hay từ bên ngoài
để giữ vững toàn bộ quyền lực chính trị trong tay giai cấp cầm quyền.
- Chức năng xã hội để thực hiện nghĩa vụ công quyền nhằm bảo đảm cho nhà nước quản lý xã hội
trên mọi lĩnh vực, làm cho xã hội tồn tại và phát triển ổn định trong trật tự; làm dịu sự xung đột giai cấp
bằng điều hoà lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp… trong xã hội; đảm đương trách nhiệm xây dựng
những công trình công cộng , cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự phát triển chung của xã hội; hình thành môi
trường ổn định cho sự phát triển mọi mặt của đất nước; thực hiện sự bang giao quốc tế, thay mặt cho
quốc gia, dân tộc trong mọi quan hệ đối ngoại ở cấp nhà nước.
Xét trên ý nghĩa cơ bản, chức năng thống trị của giai cấp được thực hiện thông qua nghĩa vụ công
quyền và những vấn đề thuộc chức năng xã hội cũng chỉ để củng cố chức năng giai cấp; trong đó, thống
trị giai cấp thuộc về bản chất của mọi quyền lực chính trị được thực hiện bằng nhà nước.
Khi giai cấp cách mạng nắm chính quyền thì 2 chức năng ấy thống nhất ở sự nhất trí về cơ bản
giữa lợi ích của giai cấp cầm quyền và lợi ích quốc gia dân tộc và ngược lại.
2. Hình thức của quyền lực chính trị:
Điều kiện kinh tế chính trị xã hội khác nhau luôn qui định hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị
khác nhau. Ở thời cổ đại, theo ông Arixtốt quyền lực chính trị phải được tổ chức theo nguyên tắc tập
trung thống nhất; ở thời cận đại theo ông Môngtexkiơ, quyền lực chính trị được tổ chức theo kiểu phân
lập quyền lực, mà cụ thể thành 3 quyền chính: quyền lập pháp, quyền tư pháp, quyền hành pháp. Ở cuối
thế kỷ 18, Rútxô lại nêu lên hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị là tập trung thống nhất. Ngày nay
hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị được thể hiện 2 hình thức sau: Một là : Tuyệt đại bộ phận của
các nước tư bản, hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị được tổ chức theo 2 kiểu phân lập quyền
lực, gắn liền với chế độ đang đảng đối lập, đa nguyên chính trị. Hai là : Các nhà nước XHCN và một số
nước tư bản hình thức biểu hiện của quyền lực chính trị lại được tổ chức theo kiểu tập trung thống nhất,
gắn liền với chế độ nhất nguyên chính trị.
Dù quyền lực nhà nước tổ chức dưới hình thức “tập quyền”, “tản quyền” hay “phân quyền” hay hỗn
hợp các hình thức ấy thì quyền lực nhà nước vẫn mang bản chất của giai cấp cầm quyền và là sự thống
trị của giai cấp đối với toàn xã hội.
3. Cơ chế thực thi quyền lực chính trị :
Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền được thực hiện trong một cơ chế gồm 2 mặt : “Mặt
nội dung” với trật tự của cương lĩnh-đường lối, hệ thống pháp luật, hệ thống những nguyên tắc tổ chứcvà
vận hành của hệ thống chính trị; được thực hiện và thể hiện qua “Mặt thực thể” với những thành tố tương
ứng như: Đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị-xã hội của quần chúng. Hiệu quả thực thi quyền
8
8
lực phụ thuộc vào mức độ chuẩn xác và vận hành có hiệu quả của các nhân tố cấu thành 2 mặt của cơ
chế. Hai mặt của cơ chế thực chất là hệ thống chính trị của giai cấp thống trị cầm quyền
4. Nội dung của quyền lực chính trị ở các chế độ XH:
Trong các chế độ có bản chất chính trị - xã hội khác nhau thì nội dung quyền lực chính trị cũng
biểu hiện khác nhau vì cơ sở xuất phát của quyền lực chính trị là xuất phát từ nền tảng chế độ kinh tế-xã
hội và xuất phát từ lợi ích giai cấp và bảo vệ giai cấp.
Trong chế độ TBCN, sau khi lật đổ chế độ phong kiến thiết lập nên nhà nước tư sản của giai
cấp tư sản. Về phương thức sản xuất có tiến bộ hơn trước tuy nhiên phương thức sản xuất TBCN là bóc
lột giá trị thặng dư do quan hệ sản xuất dựa trên cơ sở chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất
(tức là giai cấp tư sản nắm giữ tư liệu sản xuất chủ yếu). Do giai cấp tư sản chiếm giữ tư liệu sản xuất
nên giai cấp tư sản nắm quyền lực chính trị. Vì thế trong chế độ TBCN quyền lực chính trị không thuộc về
nhân dân lao động. Đặc biệt để duy trì bản chất bóc lột, CNTB sử dụng quyền lực chính trị bảo vệ giai
cấp tư sản là thiểu số và trấn áp đa số nhân dân lao động. Vậy trong chủ nghĩa TB quyền lực chính trị
thuộc vê một số ít người (giai cấp tư sản) chứ không thuộc về đa số nhân dân lao động. Quan niệm
quyền lực chính trị ”thuộc về nhân dân lao động “ đã xuất hiện từ thời cổ đại và được tuyên bố, ghi nhận
một cách phổ biến trong hiến pháp của các nước cộng hoà dân chủ tư sản nhưng trên thực tế cũng chỉ là
hình thức rất hạn chế.
Xét chung cho các chế độ XH có giai cấp đối kháng thì giai cấp bóc lột không ngừng củng cố và
xây dựng quyền lực nhà nước để quyền lực nhà nước có đầy đủ sức mạnh trấn áp các giai cấp khác. Do
vậy, trong các chế độ xã hội có giai cấp đối kháng, quyền lực chính trị cơ bản thuộc về giai cấp bóc lột,
còn nhân dân lao động về cơ bản không nắm được quyền lực chính trị.
Khác với các chế độ XH nói trên, trong CHXH xét về mặt lợi ích thì quyền lực chính trị cơ bản
thuộc về giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức (hay nói khái quát là thuộc về nhân dân
lao động) vì nó xuất phát từ 2 cơ sở : Một là xuất phát từ bản thân của chế độ XHCN mà nét đặc trưng
nhất là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,nhân dân lao động là người nắm giữ TLSX chủ yếu nên nắm
quyền lực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội từ đó nắm được quyền lực nhà nước làm công cụ xây dựng
xã hội mới; Hai là xuất phát từ lợi ích của giai cấp cầm quyền. Giai cấp công nhân là giai cấp cầm quyền;
lợi ích của giai cấp công nhân trong chế độ XHCN là cơ bản thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động
Tóm lại, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân lao động, chỉ thực sự có được khi xuất hiện cơ
sở khách quan cho sự thống nhất giữa tính giai cấp và tính nhân dân. Nhà nước trong các chế độ bóc lột
dựa trên sự thống trị của chế độ sở hữu tư nhân, giai cấp cầm quyền bao giờ cũng là giai cấp bóc lột,
một giai cấp có lợi ích căn bản đối lập với lợi ích của nhân dân lao động. Hơn nữa trong xã hội dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân không có sự bình đẳng về kinh tế do đó không thể có sự bình đẳng về chính trị-xã
hội. Đặc biệt trong xã hội TBCN ngày nay, giai cấp tư sản nắm toàn bộ tư liệu sản xuất hình nên những
công ty độc quyền, đa quốc gia, xuyên quốc gia chi phối nền kinh tế thế giới thì càng chứng minh rõ ràng
quyền lực chính trị thuộc về giai cấp tư sản chứ không phải thuộc về nhân dân lao động
5. Quyền lực chính trị của nhân dân lao động ở nước ta:
- Ở nước ta, quyền lực chính trị của nhân dân mang tính đặc trưng được bắt nguồn từ tính lịch sử.
Nhân dân là tập hợp động đảo những bộ phận người thuộc các giai cấp, tầng lớp XH khác nhau, chủ yếu
là những người lao động. Những biểu hiện cụ thể về nội dung thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân
lao động ở nước ta hiện nay có 4 biểu hiện sau đây:
+ Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.
9
9
+ Mọi công dân có quyền tự do ứng củ, bầu cử vào cơ quan lãnh đạo nhà nước các cấp (đối
với Đảng viên phải chấp hành theo điều lệ Đảng).
+ Mọi công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí nhưng phải trong khuôn khổ của của
pháp luật hiện hành.
+ Mọi công dân có nghĩa vụ và quyền lợi trong việc xây dựng và bảo vệ tổ quốc
- Nhân dân thực hiện quyền lực chính trị của mình cũng như quyền làm chủ không phải với tư cách
riêng lẻ, từng nhóm rời rạc mà là trong các tổ chức chính trị, cao nhất là Đảng Cộng sản, nhà nước
CHXHCN VN, Mặt trận tổ quốc VN và các tổ chức chính trị xã hội. Hệ thống chính trị xã hội ở nước ta
mang bản chất của giai cấp công nhân, mà toàn bộ quyền lực thuộc về nhân dân, chuyên chính với bất lỳ
ai xâm phạm đến quyền lực của nhân dân. lợi ích quốc gia, dân tộc và chế độ XHCN mà nhân dân ta
đang xây dựng, có sứ mệnh lãnh đạo, tổ chức và động viên nhân dân nổ lực xây dựng cuộc sống ấm no,
hạnh phúc theo định hướng XHCN, là công cụ thực hiện quyền lực chính trị, lợi ích của nhân dân. Trong
hệ thống đó, Đảng cộng sản VN là hạt nhân lãnh đạo toàn bộ hệ thống và XH, nhà nước pháp quyền
XHCN VN “của dân, do dân, vì dân” – là trung tâm của toàn bộ hệ thống – cơ quan quyền lực của nhân
dân, các tổ chức chính trị - xã hội của quần chúng là cơ sở chính trị xã hội của Đảng, của nhà nước mà
mỗi tổ chức là một tổ chức trực tiếp thể hiện và thực hiện quyền lực và quyền tự do dân chủ của nhân
dân.
- Đảng lãnh đạo là nhằm xây dựng một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Đảng không thể trao
quyền lực nhà nước cho bất cứ lực lượng nào khác đã không cùng nhân dân đấu tranh để giành chính
quyền và xây dựng CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng – theo Bác – có nghĩa là làm đầy tớ cho nhân dân.
- Nói quyền lực chính trị của nhân dân trước hết là nói quyền lực của Nhà nước thuộc về toàn dân mà
nòng cốt là bộ phận nhân dân trung tâm. Việc xây dựng bộ máy đến cơ chế hoạt động, việc ban hành
hiến pháp, pháp luật đến các kế hoạch phát triển KT-XH, văn hóa, giáo dục, các chủ trương, chính sách
đều phải nhằm đem lại lợi ích cho nhân dân. Nói về vấn đề quyền lực trong chế độ mới, Bác đã nhiều lần
khẳng định : “Tất cả quyền lực trong nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân.”
“Nhà nước là nhà nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Hiến pháp năm 1946 đã ghi rõ
nhà nước ta “Nhà nước là nhà nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của
dân. Chính quyền từ xã đến chính phủ, trung ương đều do dân bầu ra”. Trung thành với tư tưởng đó,
Đảng ta luôn coi Nhà nước ta là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Hiến pháp 1992 xác định :
Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Cơ quan nhà nước, các cấp chỉ là người chấp hành
mệnh lệnh của quốc dân, chấp hành ý chí của nhân dân. Bộ máy chính quyền nhà nước là do nhân dân
bầu ra, vì vậy phải do nhân dân kiểm soát. Cũng như Lênin, Chủ tịch HCM khẳng định “Nhà nước phải
được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ thì nhân dân mới làm chủ được quyền lực của mình”.
Bên cạnh bản chất vừa nêu trên ta còn thấy rằng nhà nước CHXHCNVN không chỉ đơn thuần là công cụ
chuyên chính đối với kẻ thù của CNXH mà còn vừa là phương tiện để nhằm tổ chức và xây dựng các
mục tiêu xã hội. Điều này còn chứng minh thêm nhà nước ta là nhà nước của chế độ nhân dân lao động
làm chủ xã hội, làm chủ quyền lực chính trị nhà nước thông qua nhà nước của mình. Trong chế độ ta,
quyền lực nhà nước do khối đại đoàn kết toàn dân quyết định mà nòng cốt là khối liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng. .
- Mặt trận tổ quốc VN và các đoàn thể nhân dân là thành tố của thiết chế dân chủ có vai trò trong xây
dựng hệ thống chính trị, phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của mỗi hội viên, đoàn viên,
bênh vực quyền lợi của dân, góp phần giữ gìn kỷ cương phép nước, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân
dân với Đảng và nhà nước. Thông qua mặt trận và các đoàn thể, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình. Là cơ sở chính trị của nhà nước dân chủ, mặt trận và các tổ chức thành viên là nơi thể hiện ý chí,
10
10
nguyện vọng của nhân dân, nơi nhân dân phát huy quyền làm chủ, thực hiện vai trò tư vấn và phản biện,
góp phần xây dựng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước và bầu ra các
cơ quan nhà nước. Mặt trận và các đoàn thể tham gia xây dựng chỉnh đốn Đảng. Thực hiện giám sát xã
hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động của nhà nước, giám sát đối với công tác, đạo đức, lối
sống của cán bộ, công chức đại biểu dân cử và các cơ quan nhà nước, đồng thời giải quyết những mâu
thuẩn trong nội bộ nhân dân.
Tóm lại, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, bằng những cơ sở kinh tế – chính trị - xã hội và việc bảo vệ lợi
ích của giai cấp công nhân với những dẫn chứng thực tiễn ở các nước và cách mạng Việt Nam đã chứng
minh rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội thì quyền lực chính trị mới thuộc về nhân dân lao động.
* Thực trạng việc thực thi quyền lực chính trị ở nước ta :
Trong giai đoạn hiện nay, việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân thông qua cơ chế và hệ
thống chính trị ở nước ta đã đạt được một số thành tựu như : đã từng bước xây dựng mối khối đại đoàn
kết dân tộc, xóa bỏ dần những mặc cảm do chiến tranh để lại, giữ vững chính quyền nhân dân trên cơ sở
đổi mới, bảo đảm vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng, dân chủ hóa một bước trong đời sống xã hội. Bên
cạnh đó, việc thực hiện cơ chế quyền lực chính trị cũng còn một số hạn chế về năng lực và hiệu quả lãnh
đạo của Đảng, hiệu lực quản lỳ và điều hành của Nhà nước, kết quả hoạt động của các tổ chức chính trị
xã hội chưa ngang tầm với tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng,Nhà nước và đoàn thể còn chậm sắp
xếp, còn có các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, vi phạm quyền dân chủ
* Các giải pháp để tăng cường và phát huy quyền lực chính trị
Hiện nay, để phát huy quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động, đảng ta luôn đề ra đường lối,
chủ trương đổi mới nhằm củng cố bộ máy nhà nước thật sự vững chắc phục vụ cho lợi ích thiết thực của
nhân dân. Do đó, các nghị quyết của Đảng trong suốt thời kỳ đổi mới đều nhấn mạnh việc thực thi quá
trình cải cách, đổi mới hệ thống chính trị thể hiện trên các lĩnh vực.
- Về Đảng, phải trở thành vị trí của người lãnh đạo chính trị của toàn xã hội, phải đưa ra được cương
lĩnh, đường lối định hướng trong các chủ trương công tác lớn. Chủ trương, đường lối của Đảng đưa vào
quần chúng bằng phương pháp đặc thù: nêu gương tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục, kiểm tra và đào
tạo cán bộ Đảng phải được tổ chức hoạt động trong khuôn khổ của pháp luật, đồng thời Đảng là người
lãnh đạo hiến pháp, pháp luật, quan hệ giữa Đảng và nhà nước là quan hệ qua lại trên cơ sở khoa học.
- Về Nhà nước, phải quản lý mọi mặt xã hội bằng pháp luật, đưa pháp luật trở thành công cụ chủ yếu
để điều hành các quan hệ xã hội, nhà nước phải thể chế hoá quyền công dân và quyền con người.
- Về các tổ chức chính trị - xã hội của công dân, phải đa dạng hoá hơn nữa các hình thức tổ chức để
làm cho mọi nhân tố xã hội đều có tổ chức đại diện cho mình. Đổi mới nhận thức, xác định rõ chức năng
của các tổ chức chính trị xã hội của nhân dân. Phải xem chức năng bảo vệ lợi ích chính đáng của các
thành viên trong tổ chức mình là một trong những chức năng quan trọng nhất.
Đổi mới hệ thống chính trị trong giai đoạn hiện nay là điều kiện để thực hiện quyền lực chính trị của
nhân dân lao động. Mặt khác, quyền lực chính trị của nhân dân lao động từng bước phát huy là cơ sở
đảm bảo vững chắc cho việc củng cố và đổi mới hệ thống chính trị, đó cũng là mối quan hệ phổ biến
giữa việc củng cố tăng cường cơ chế thực hiện, nhằm thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền trong chế độ XHCN.
* Phương hướng đổi mới hoàn thiện các nhân tố trong hệ thống chính trị của Đảng ta bao gồm
3 yếu tố sau:
11
11
Một là : Đảng phải đổi mới Đảng theo những nội dung sau :
- Giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa quan
trọng hàng đầu đối với Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
- Nâng cao bản chất chính trị, phẩm chất năng lực cán bộ đảng viên. Mọi các bộ đảng viên trước hết là
cán bộ lãnh đạo chủ chốt phải có kế hoạch thường xuyên học tập nâng cao trình động lý luận chính trị,
kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn.
- Củng cố đảng về tổ chức thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Chăm lo xây dựng đội ngủ cán bộ. Đảng phải là nơi đào tạo cán bộ cho cả hệ thống chính trị, trên tất
cả các lĩnh vực.
- Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng.
Xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ thường xuyên có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp
cách mạng của Đảng. Đại hội đại biểu lần thứ IX của Đảng đã khẳng định “trong những năm tới toàn
Đảng tiếp tục thực hiên nghị các quyết về xây dựng Đảng, nhất là nghị quyết TW 6 (lần2) khoá 8”. Đảng
ta cần tập trunglàm tốt những công tác quan trọng sau : Giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức
cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng và củng cố tổ chức cơ
sở đảng. Kiện toàn tổ chức đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.
Hai là: Về nhà nước phải quán triệt các quan điểm sau:
- Xây dựng nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nha, nông dân, tầng lớp
trí thức là nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
- Quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc
thực các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt của nhà nước.
- Tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền VN. Quản lý XH bằng pháp luật, đồng
thời coi trọng giáo dục và nâng cao đạo đức.
- Tăng cường vai trò lãng đạo của Đảng đối với nhà nươc.
Từ những quan điểm trên đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã nêu lên 5 nội dung cải cách chức
năng và hoạt động của nhà nước trong tình hình hiện nay là:. Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN
dưới sự lãng đạo của Đảng; Cải cách thể chế và phướng thức hoạt động của nhà nước; Phát huy dân
chủ giữ vững kỷ luật kỷ cương tăng cường pháp chế, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có năng lực; .
Đấu tranh chống tham nhũng.
Ba là : Đổi mới hoàn thiện các tổ chức chính trị XH, phải thực hiện 2 nội dung cơ bản sau:
- Phải xác định rõ chức năng nhiệm vụ của từng tổ chức chính trị XH, trong điều kiện thực hiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay. Tứ đó đưa ra được phương thức hoạt động phù hợp.
- Xây dựng các tổ chức chính trị XH phải tuân thủ theo nguyên tắc: một mặt, bản thân từng thành viên
phải chăm lo xây dựng các tổ chức của mình; mặt khác, các tổ chức phải chăm lo lợi ích chính đáng của
từng thành viên.
12
12
Tóm lại, chúng ta đã và đang sống trong chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiệm vụ của chúng ta là phát huy
quyền lực chính trị của nhân dân lao động, để đảm bảo vững chắc cho việc củng cố và đổi mới hệ thống
chính trị ở nước ta hiện nay. Muốn vậy chúng ta cần ra sức quán triệt tinh thần nghị quyết Đại hội Đảng
và thực hiện có hiệu quả di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh : “Nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích
đều vì dân”.
Vấn đề 3 : Vận dụng lý luận về mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế để phân tích bài học :
“Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” (trang 71, NQĐH VIII).
BÀI LÀM
Sau hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện (1986-1996) , đất nước ta đã vượt qua một
giai đoạn thử thách, gay go, khủng hoảng trầm trọng về kinh tế xã hội. Trong những hoàn cảnh hết sức
khó khăn phức tạp đó, nhân dân ta không những đứng vững, kiên trì tiến lên CNXH mà còn vươn lên đạt
thắng lợi nổi bật trên nhiều mặt. Để tổng kết chặng đường đổi mới những năm qua, trong văn kiện ĐH
Đảng lần VIII đã đánh giá và rút ra một số bài học chủ yếu. Một trong những bài học đó là: “kết hợp chặt
chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng
bước đổi mới chính trị”. Để nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo quan điểm
CN Mác-Lênin và hiểu rõ sự vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa chính trị với chính trị của Đảng ta
trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, góp phần đấu trung thực phê phán những quan điểm tư
tưởng và hành động lệch lạc như : tuyệt đối hoá sức mạnh chính trị, hoặc khuynh hướng tuyệt đối hoá tự
do kinh tế, buông lỏng, xem nhẹ sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý của nhà nước đối với quá trình xây
dựng và phát triển kinh tế; chúng ta hãy phân tích làm rõ mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế .
1. Khái niệm chính trị, kinh tế:
Chính trị là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và
sử dụng quyền lực nhà nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích
kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải
thông qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực
nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai cấp. Khi nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước tức
là nắm được công cụ cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ
quan hệ với kinh tế thì vấn đề chính trị thực chất cũng chính là vấn đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề
quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết
luận : quan hệ chính trị xét về bản chất là do quan hệ kinh tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp,
chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi ích chính trị. .
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc dân, mà
cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản : quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao
động XH, quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của xã
hội loài người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã hội đều được quy định bởi lĩnh vực kinh
tế, vì vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định quyền lực nhà nước.
2. Mối quan hệ giữa chính trị với kinh tế :
a. Vai trò của kinh tế với chính trị :
Quan hệ chính trị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Trong
quá trình đổi mới đất nước, khi xác định đường lối phát triển giữa chính trị và kinh tế, Đảng ta khẳng định
“lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm”. Điều này xuất phát từ quan điểm kinh tế là nền tảng của chính trị, kinh
tế bao giờ cũng quyết định chính trị và điều này được khẳng định hoàn toàn trong lý luận cũng như trong
thực tiễn.
Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng quy định cấu trúc, tính chất của kiến trúc
thượng tầng và tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. Kinh tế là nhân tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng,
trong khi chính trị là nhân tố chủ yếu của kiến trúc thượng tầng, vì vậy các quan hệ kinh tế là quy định
các quan hệ chính trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ thì với quan hệ sản
13
13
xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế chính trị thuộc về giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã hội
TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa, thể chế chính trị thuộc về giai cấp tư sản và
ở CNXH thì thể chế chính trị thuộc về giai cấp công nhân
Có thể khẳng định rằng kinh tế luôn quyết định chính trị mà trước hết, nhân tố kinh tế có tính quyết
định nhất, tác động đến đời sống chính trị chính là hệ thống các quan hệ sở hữu. Nếu quan hệ sở hữu
thay đổi về căn bản và cùng với nó là sự thay đổi các quan hệ kinh tế khác mà trước hết nó làm biến đổi
bản chất của hệ thống các quan hệ sản xuất. Hệ thống các quan hệ SX khi đã thay đổi về căn bản sẽ dẫn
đến thay đổi căn bản chế độ chính trị, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Kinh tế thay đổi sẽ
kéo theo sự thay đổi của chính trị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng có thể trở thành một vấn
đề chính trị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực lượng nào, giai cấp nào nắm kinh
tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống xã hội. Ngược lại, nếu một giai
cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực chính trị mà không xây dựng và giữ được địa vị chủ đạo về
kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính trị. Chính vì vậy, Lênin viết “Chính
trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Đằng sau các quan hệ chính trị là các quan hệ kinh tế, các quan
hệ lợi ích kinh tế.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” xuất phát từ sự hình thành, tồn tại, phát triển và các
hình thức, hoạt động chính trị là kết quả tất yếu của sự vận động của kinh tế và chính trị phải mang trong
nó những quy luật kinh tế khách quan. Điều đó có nghĩa là : nó phải phản ánh được lợi ích kinh tế của
giai cấp và phản ánh được bản chất của một chế độ kinh tế, nó phản ánh cái cốt lõi (cơ bản), bền vững
trong kinh tế. Bên cạnh đó chính trị phải phản ánh một cách khái quát tất cả các khuynh hướng kinh tế
nhưng nó phải làm nổi bật khuynh hướng chủ đạo. Đồng thời chính trị cũng phải phản ánh được ý chí
sức mạnh, sự đoàn kết của một giai cấp để thực hiện được lợi ích kinh tế của chính giai cấp mình.
- “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”, điều đó đòi hỏi chính trị và hệ thống chính trị phải
mang trong mình nó những quy định kinh tế khách quan, có nghĩa là chính trị phản ánh những yêu cầu,
điều kiện của kinh tế khách quan, sự phản ánh đó thể hiện trong cấu trúc hệ thống chính trị, trong
phương thức hoạt động của các thành tố hệ thống chính trị, trong các quyết sách chính trị.
Kinh tế là gốc của chính trị, ở góc độ nào đó nó là sự thể hiện tính ưu việt của chính trị cũng như sự
phù hợp của chính trị với kinh tế. Với ý nghĩa đó, ở mọi thời đại, nếu không giải quyết thỏa đáng các
quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế, không phát triển được kinh tế thì sự vận động của chính trị có thể sẽ gặp
trở ngại, thậm chí đi đến thất bại. Thực tiễn cách mạng thế giới cho thấy, một trong những nguyên nhân
dẫn đến sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống các nước XHCN Đông Âu chính là do suy thoái, khủng
hoảng kinh tế trầm trọng dẫn đến những biến động lớn về chính trị, làm tan rã chế độ XHCN tại các nước
này.
b. Vai trò của chính trị với kinh tế :
Trong quá trình đổi mới, song song với việc lấy “đổi mới kinh tế làm trọng tâm”, Đảng xác định phải
từng “đồng thời từng bước đổi mới chính trị”. Quan điểm này xuất phát từ chính trị mặc dù bị kinh tế
quyết định nhưng chính trị lại có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại kinh tế rất mạnh mẽ sự
tác động độc lập của chính trị đến kinh tế.
Về mặt lý luận : khi nhấn mạnh vai trò của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng, quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin cũng khẳng định rằng kiến trúc thượng tầng (chính trị) có tính độc lập tương đối và
có sự tác động trở lại rất mạnh mẽ đối với cơ sở hạ tầng (kinh tế). Về mặt thực tiễn: do nhận thức được
quy luật kinh tế khách quan, kiến trúc thượng tầng (chính trị) có vai trò định hướng cho quy luật kinh tế,
mang lại phương án tối ưu cho phát triển kinh tế và phục vụ vì lợi ích của giai cấp. Với ý nghĩa đó, chính
trị ra đời tồn tại và phát triển trên cơ sở nó có vai trò to lớn tác động đến kinh tế theo những quy luật kinh
tế khách quan
Biểu hiện sự tác động của chính trị đối với kinh tế : Một là chính trị định hướng cho kinh tế phát triển
dựa trên quy luật khách quan, lựa chọn mô hình chiến lược phát triển kinh tế, tham gia vào việc điều tiết,
lựa chọn tốc độ phát triển kinh tế. Hai là vai trò tác động của chính trị tác động đến các chủ thể kinh tế :
mỗi chủ thể kinh tế có vai trò, địa vị, lợi ích riêng, vì vậy, chính trị phải có sự kiểm soát, tạo điều kiện tác
động cho các chủ thể kinh tế phát triển và tạo điều kiện cho họ góp phần vào việc thực hiện lợi ích
chung. Ba là vai trò của cơ cấu tổ chức và phương thức tổ chức, quản lý con người-xã hội đối với kinh
tế để phát huy được vai trò của nhân tố con người
14
14
Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Chính trị không thể không giữ địa vị
ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng định tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, tức là kết quả
đạt được về phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát triển thành quả chính trị đạt
được (củng cố và phát triển hệ thống chính trị). Khi giải quyết các vấn đề kinh tế thì phải góp phần duy trì
củng cố quyền lực chính trị. Mặt khác, trong kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn giữ
vững hệ tư tưởng chính trị vì hệ tư tưởng chính trị quy định phương hướng mục tiêu, bản chất của chế
độ xã hội. Trong điều kiện cách mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế là tất yếu để xây
dựng CNXH : đó chính là giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị và xây dựng nền kinh tê mới. Luận
điểm này cũng cho thấy phải có quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề kinh tế và phải bảo đảm sự
lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với phát triển kinh tế là tất yếu khách quan. Chính trị
phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh tế vì chính trị có khả năng can thiệp một cách tự giác vào
quá trình kinh tế khách quan.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng : một là nếu chính trị tác động cùng
chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu chính trị tác động
ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối với sự phát triển kinh tế.
Vai trò tác động của chính trị đối với kinh tế không chỉ dừng lại ở đó. Trong nhiều trường hợp dù đã có
quyết sách chính trị đúng đắn (phản ánh đúng thực trạng và qui luật khách quan của kinh tế), nhưng trình
độ năng lực tổ chức chỉ đạo thực tiễn phương thức hoạt động của hệ thống chính trị không vươn tới
ngang tầm với nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể cản trở kinh tế hoặc để cho kinh tế phát
triển chệch hướng, trái với đường lối chính trị đã lựa chọn. Vì thế chính trị cũng phải tự đổi mới, phải có
cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế.
3. Vận dụng của Đảng ta :
Nhìn lại quá trình Đảng lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình nước ta
nói riêng và các nước XHCN nói chung đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò của đường lối
chính trị, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh tế
và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái quy luật “kinh tế quyết định chính trị” khi
cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với quan hệ
sản xuất lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong đó chủ yếu là cải tạo xóa bỏ
các thành phần kinh tế phi XHCN) nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến.
Từ đó nảy sinh ra mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công
nghiệp hóa được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm
về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng.
Rút kinh nghiệm từ những thất bại ấy, bắt đầu từ Đại hội Đảng lần VI, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo
hài hòa giữa 2 khuynh hướng tác động của chính trị với kinh tế để đề ra công cuộc đổi mới đất nước
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực hiện đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị,
Đảng ta khẳng định phải “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị” xuất phát từ
quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin : giữa kinh tế và chính trị có mối quan hệ biện chứng, phải giải quyết
tốt mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Đổi mới kinh tế nhằm giải phóng lực lượng sản
xuất, phát huy mọi tiềm năng trong xã hội để tạo ra năng suất cao, hàng hóa nhiều đáp ứng nhu cầu cần
thiết của nhân dân, tạo ra cơ sở vững chắc để đổi mới chính trị. Ngược lại đổi mới chính trị sẽ củng cố và
phát huy những thành tựu của đổi mới về kinh tế, tuy bước đi của từng lĩnh vực có khác nhau nhưng
trong bất kỳ trường hợp nào cũng phải đảm bảo sự ổn định về chính trị, tránh tình trạng hỗn loạn như đã
xảy ra ở một số nước trong thời gian qua.
Đổi mới kinh tế và chính trị, đây là hai mặt cơ bản nhất của xã hội, là sự nghiệp đầy khó khăn và phức
tạp, là quá trình vừa làm, vừa tìm tòi sáng tạo. Do vậy, phải thấy rõ mối quan hệ giữa hai lĩnh vực đó để
có những bước đi thích hợp, tác động hỗ trợ lẫn nhau.
1. Khi xác định “đối mới kinh tế là trọng tâm”, trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới về
tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại, không có sự đổi mới
này thì không có mọi sự đổi mới khác. Song Đảng ta đã đúng khi tập trung trước hết vào việc thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo tiền đề cần thiết về vật chất
và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để
15
15
đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Bởi vì do tính chất kinh tế quy định chính trị nên xây dựng và
duy trì quyền lực chính trị của Đảng, chế độ XHCN trước hết phải xây dựng từ cơ sở nền tảng của nó,
tức là xây dựng một chế độ kinh tế XHCN vững mạnh.
Để chính trị phản ánh tập trung kinh tế, Đảng và nhà nước ta đã xác định phải nhận thức một cách
khoa học thực trạng kinh tế và những quy luật kinh tế, lựa chọn hình thức tổ chức, chính sách phù hợp
bảo đảm phát huy tối ưu tác dụng của các quy luật kinh tế và đang tập trung xây dựng tri thức khoa học
để giác ngộ quần chúng hành động phù hợp quy luật. Với luận điểm đó, Đảng ta đã xác định lấy đổi mới
kinh tế làm trọng tâm và tuỳ theo yêu cầu đổi mới kinh tế mà từng bước đổi mới về chính trị. Chủ trương
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà
nước theo định hướng XHCN, dưới sự lãnh đạo của Đảng trong suốt thời kỳ quá độ là một bước đột phá
về đổi mới cơ cấu sở hữu từ một thành phần kinh tế, một chế độ sở hữu sang nhiều thành phần kinh tế,
đa thành phần sở hữu. Sự đổi mới này là hợp lý, phù hợp với quy luật khách quan, cho phép giải phóng
được tối đa mọi năng lực sản xuất, có được một nền kinh tế phát triển năng động, giàu sức sống và hiệu
quả cao, mang lại hạnh phúc ấm no cho mọi tầng lớp nhân dân. Thực tế đã chứng minh định hướng về
đường lối kinh tế trên của Đảng là đúng đắn và tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
Do tính quyết định của kinh tế đối với chính trị, Đảng đã nhận thức rõ rằng khi nền kinh tế nhiều thành
phần tồn tại suốt thời kỳ quá độ, trong đó có cả thành phần kinh tế XHCN lẫn TBCN thì kinh tế nhà nước,
kinh tế tập thể phải giữa vai trò chủ đạo; nếu như trong nền kinh tế nhiều thành phần đó chúng ta không
củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành một thành phần kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả
năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì khó đảm bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng
là vấn đề nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay cũng như trong suốt thời kỳ quá độ, bởi
vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế sẽ là cơ sở cho tồn tại vững chắc của
hệ thống chính trị XHCN.
Mặt khác, để đảm bảo sự phát triển kinh tế đúng định hướng, vai trò lãnh đạo của Đảng phải được
giữ vững. Đảng ta không chấp nhận đa nguyên, đa đảng là hoàn toàn phù hợp với mục tiêu XHCN, vì
mục tiêu ấy chỉ có thể thực hiện trên cơ sở sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Nước ta hiện nay sự lãnh
đạo duy nhất của Đảng ta là hoàn toàn hợp lý. Một Đảng, nhất nguyên chính trị là điều kiện đảm bảo sự
ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Song, để lãnh đạo tốt kinh tế cũng như các lĩnh vực khác của đời
sống XH, Đảng phải tự đổi mới vươn lên ngang tầm nhiệm vụ. NQ TW6 (lần 2) khoá VIII chủ trương tăng
cường công tác phê bình, tự phê bình, chỉnh đốn Đảng là nhằm làm trong sạch phẩm chất, đạo đức, lối
sống của cán bộ, Đảng viên để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đây là yêu cầu bắt buộc
của Đảng trong tình hình mới hiện nay
Từ chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đã có ý kiến cho rằng : kinh tế nhiều thành
phần có đối lập, đối kháng thì chính trị với tư cách là sự phản ánh của kinh tế thì chính trị cũng phải đa
nguyên, đa đảng. Thực tế đây là một quan điểm không đúng bởi 2 lý do : một là nền kinh tế nhiều thành
phần không chỉ có ở nước ta (một nước đang theo chế độ nhất nguyên) mà nó còn tồn tại phổ biến ở
nhiều nước với nhiều chế độ chính trị khác nhau (nhất nguyên chính trị như Xingapo, Trung quốc, đa
nguyên chính trị như Mỹ), như vậy việc đa nguyên về kinh tế không nhất thiết phải đa nguyên về chính
trị. Hơn nữa, ở một nước có rất nhiều Đảng phái chính trị như Mỹ thì mặc dù đường lối, chủ trương, tổ
chức của các Đảng có khác nhau nhưng thực chất các đảng này đều do giai cấp tư sản nắm quyền, vì
vậy xét cho cùng ở các nước này cũng là nhất nguyên về chính trị. Hai trong kinh tế có đối kháng giữa
các thành phần kinh tế nhưng nếu có một thành phần kinh tế chủ đạo, đủ mạnh chi phối các thành phần
kinh tế khác thì sự đối kháng đối lập về kinh tế - xã hội sẽ không trở thành sự đối kháng ở quy mô giai
cấp. Ở nước ta, mặc dù kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà nước là chủ đạo thì sẽ không dẫn
đến đối kháng giai cấp
Sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường còn đòi hỏi có
sự quản lý của nhà nước. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và tiêu
cực. Để giữ vững định hướng XHCN, phải có nhà nước mạnh mới có thể làm hạn chế những khuyết tật
vốn có của nền kinh tế thị trường. Muốn đạt hiệu quả cao trong quá trình tác động phải xuất phát từ thực
trạng kinh tế của đất nước và nhận thức đúng, đầy đủ các quy luật khách quan của kinh tế. Nhà nước tác
động vào kinh tế còn phải thể hiện rõ vai trò của mình trong việc tạo môi trường, điều tiết chính sách XH,
quản lý, phân phối nguồn tài nguyên quốc gia. Đồng thời, các chính sách nhà nước đề ra phải hạn chế
đến mức tối thiểu sự phân hóa xã hội, phải rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp, trước hết
là thu nhập kinh tế, phải làm cho mọi người hiểu hết nến kinh tế thị trường
16
16
2. Khi xác định chủ trương “từng bước đổi mới về chính trị”, Đảng đã nhận thức rõ : chính trị có
ổn định thì kinh tế mới phát triển, hệ thống chính trị phải phù hợp đổi mới kinh tế . Mọi chủ trương phát
triển kinh tế của đảng và nhà nước ngoài việc thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển còn phải góp phần bảo vệ
thành quả cách mạng đã đạt được như : độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và những thành quả đổi
mới của nước ta. Mặt khác sự đổi mới về chính trị là cần thiết bởi vì phải có quan điểm chính trị đúng đắn
và phù hợp với thời đại khi xử lý các vấn đề kinh tế như : vấn đề dân tộc và giai cấp, quan hệ làm ăn với
nước ngoài phải vì lợi ích của dân tộc.
Để đảm bảo chính trị là động lực, là mở đường cho kinh tế phát triển, thì hệ thống chính trị phải tiến
hành đổi mới. Không làm được điều đó hệ thống chính trị sẽ không thể định hướng cho kinh tế và như
thế nguy cơ chệch hướng kinh tế hoàn toàn có thể xảy ra. Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ rõ nguy cơ chệch
hướng kinh tế có thể bắt đều từ chính hình thái chính trị, bắt đầu bằng chính những sa sút về đạo đức,
yếu kém về năng lực của cán bộ trong bộ máy chính trị, bằng nạn quan liêu, tham nhũng, trì trệ trong hệ
thống chính trị. Vì vậy, đổi mới nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị là điều kiện cần thiết
và cấp bách, nó chính là yếu tố quyết định đảm bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đổi mới
hệ thống chính trị bao gồm:
- Đổi mới, chỉnh đốn Đảng, tăng cường và nâng cao hiệu lực của các tổ chức cơ sở Đảng và
Đảng viên; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với toàn bộ đời sống kinh tế-xã hội phù hợp với
yêu cầu và quy luật khách quan của nền kinh tế.
- Đổi mới bộ máy nhà nước và hướng tới là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, nghĩa là nhà
nước quản lý điều hành xã hội bằng pháp luật, là làm cho bộ máy nhà nước trong sạch, đủ mạnh để lãnh
đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Nhà nước đủ mạnh thì đủ sức điều khiển bánh xe kinh tế thị trường
theo quỹ đạo XHCN và tiến lên CNXH, CNCS mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho toàn dân tộc.
- Đổi mới các đoàn thể quần chúng nhân dân là làm cho các tổ chức này với tư cách là đại diện
cho lợi ích của nhân dân lao động. Làm được điều đó có nghĩa là góp phần tạo ra động lực cho quá trình
đổi mới, xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN.
Đổi mới hệ thống chính trị và từng bước xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ XHCN có quan hệ biện
chứng với nhau. Thực chất đổi mới và kiện toàn hệ thống chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ
XHCN. Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện hệ thống chính trị XHCN. Làm tốt việc
này chính là góp phần tạo ra động lực tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở
nước ta
Tóm lại, nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế và vận dụng đúng đắn mối quan
hệ đó là một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc đổi mới của nước ta hiện nay.
Từ những phân tích trên ta thấy rằng bài học do Đảng ta nêu “Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, đồng thời từng bước đổi mới chính trị” đó chính
là nắm vững và vận dụng đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế theo chủ nghĩa
Mác-Lênin vào trong thực tiễn.Chính từ sự định hướng đúng đắn ấy cho nên sau hơn 15 năm đổi mới,
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và giữ vững sự ổn định chính trị, tạo đà cho kinh tế phát
triển nhanh, đúng hơn
Câu 4: Vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ chính trị với kinh tế để
phân tích luận điểm sau: “không có lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào
đó không thể giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm
vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”.
BÀI LÀM
Chính trị và kinh tế là 2 lĩnh vực quan trọng trong đời sống xã hội. Mối quan hệ của chúng là mối quan
hệ biện chứng và có tác động trực tiếp đến quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người từ khi có sự
phân chia giai cấp nói chung cũng như của từng quốc gia, dân tộc nói riêng. Trong mối quan hệ đó, kinh
tế là nhân tố quyết định toàn bộ lịch sử vận động của đời sống chính trị nhưng vai trò của chính trị lại có
tác động mạnh mẽ đối với kinh tế và ảnh hưởng đến sự tồn vong cả chế độ xã hội. Nói đến sự tác động
của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng : “không có lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất
định nào đó không thể giữ được sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm
vụ của mình trong lĩnh vực sản xuất”. Để có quan điểm đúng đắn, xử lý tốt mối quan hệ giữa chính trị với
17
17
kinh tế trong quá trình xây dựng đất nước, giữ vững định hướng XHCN trong quá trình phát triển kinh tế,
chúng ta hãy phân tích làm rõ luận điểm trên.
1. Khái niệm chính trị, kinh tế:
Chính trị là những công việc nhà nước hay xã hội. Phạm vi hoạt động gắn với những quan hệ giữa
các giai cấp, giữa các dân tộc và các nhóm xã hội khác nhau mà hạt nhân của nó là vấn đề giành, giữ và
sử dụng quyền lực nhà nước. Về thực chất, chính trị là quan hệ về lợi ích (trước hết và cơ bản là lợi ích
kinh tế) giữa các giai cấp, các lực lượng XH, các quốc gia, dân tộc mà việc thực hiện lợi ích đó phải
thông qua quyền lực nhà nước. Trong chính trị, vấn đề quyền lực chính trị (mà trọng tâm là quyền lực
nhà nước) luôn là mục tiêu của các giai cấp. Khi nắm được quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước tức
là nắm được công cụ cơ bản nhất để giải quyết các vấn đề lợi ích của các giai cấp. Do vậy, xét từ góc độ
quan hệ với kinh tế thì vấn đề chính trị thực chất cũng chính là vấn đề kinh tế bởi vì giải quyết vấn đề
quyền lực chính trị sẽ trực tiếp tác động đến động lực của sự phát triển kinh tế. Mác Lênin đã rút ra kết
luận : quan hệ chính trị xét về bản chất là do quan hệ kinh tế, chính sự ra đời và tồn tại của giai cấp,
chính nhu cầu của các giai cấp quyết định nội dung của các lợi ích chính trị.
Kinh tế được hiểu là toàn bộ các lĩnh vực, các ngành khác nhau của một nền kinh tế quốc dân, mà
cơ sở của nó là các quan hệ cơ bản : quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức và quản lý lao
động XH, quan hệ phân phối sản phẩm làm ra. Phạm vi kinh tế là cơ sở cần thiết và sâu xa nhất của xã
hội loài người, gần như toàn bộ các mối quan hệ khác trong xã hội đều được quy định bởi lĩnh vực kinh
tế, vì vậy nó quyết định chế độ chính trị và quyết định quyền lực nhà nước
2. Mối quan hệ chính trị với kinh tế:
Quan hệ giữa chính trị với kinh tế là mối quan hệ biện chứng luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau.
a. Vai trò kinh tế đối với chính trị:
Kinh tế là nền tảng của chính trị, kinh tế bao giờ cũng quyết định chính trị và điều này được khẳng
định hoàn toàn trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Về mặt lý luận, theo chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ
sở hạ tầng quy định cấu trúc, tính chất của kiến trúc thượng tầng và tồn tại xã hội quyết định ý thức xã
hội. Kinh tế là nhân tố cơ bản thuộc cơ sở hạ tầng, trong khi chính trị là nhân tố chủ yếu của kiến trúc
thượng tầng, vì vậy các quan hệ kinh tế quy định các quan hệ chính trị. Về mặt thực tiễn: ở hình thái kinh
tế xã hội chiếm hữu nô lệ thì với quan hệ sản xuất của chế độ chiếm hữu nô lệ, thể chế chính trị thuộc về
giai cấp chủ nô, ở hình thái kinh tế xã hội TBCN thì với quan hệ sản xuất của chế độ tư bản chủ nghĩa,
thể chế chính trị thuộc về giai cấp tư sản và ở CNXH thì thể chế chính trị thuộc về giai cấp công nhân
Kinh tế thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của chính trị, thậm chí một vấn đề kinh tế không lớn nhưng
có thể trở thành một vấn đề chính trị phức tạp, có thể làm đảo lộn đời sống chính trị, xã hội. Lực lượng
nào, giai cấp nào nắm kinh tế thì lực lượng đó, giai cấp đó nắm quyền lực chính trị, chi phối đời sống xã
hội. Ngược lại, nếu một giai cấp, lực lượng XH đã làm chủ về quyền lực chính trị mà không xây dựng và
giữ được địa vị chủ đạo về kinh tế thì sớm muộn cũng sẽ không thể duy trì được quyền lực chính trị.
Chính vì vậy, Lênin viết “Chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Luận điểm này chỉ rõ nguồn gốc
chính trị là từ kinh tế, chính trị chỉ hình thành tồn tại và phát triển trên cơ sở đòi hỏi khách quan bởi sự
phát triển kinh tế. Từ thực trạng kinh tế, kết cấu giai cấp xã hội, mà hình thành nên một chế độ tương
ứng. Nền chính trị của một nước bao giờ cũng là sản phẩm trực tiếp của khuynh hướng kinh tế chủ đạo ,
quan hệ sản xuất thống trị. Tính quy định của kinh tế đối với chính trị còn thể hiện ở chỗ nền chính trị của
một nước tuy là phản ánh tổng thể các xu hướng kinh tế nhưng bao giờ cũng là sản phẩm trực tiếp của
xu hướng kinh tế chủ đạo.
Khẳng định tính quyết định của kinh tế đối với chính trị, chúng ta càng nhận thức rõ rằng trong quá
trình đổi mới ở nước ta hiện nay đang tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có cả thành
phần kinh tế XHCN lẫn TBCN và nền kinh tế này sẽ duy trì suốt thời kỳ quá độ; nếu như trong nền kinh tế
nhiều thành phần đó chúng ta không củng cố, xây dựng thành phần kinh tế XHCN trở thành một thành
phần kinh tế mạnh, chủ đạo, có khả năng chi phối các thành phần kinh tế khác thì khó đảm bảo được
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây cũng là vấn đề nguyên tắc trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay
cũng như trong suốt thời kỳ quá độ, bởi vì thành phần kinh tế XHCN đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh
tế sẽ là cơ sở cho tồn tại vững chắc của hệ thống chính trị XHCN.
b. Vai trò chính trị đối với kinh tế:
Kinh tế của vai trò quyết định đến chính trị, tuy nhiên chính trị luôn mang tính độc lập của nó và có tác
động trở lại đến kinh tế một cách toàn diện. Chính trị thực hiện khả năng nhận thức các qui luật kinh tế
18
18
khách quan, nhận thức được thực trạng kinh tế của đất nước và từ đó định hướng các qui luật vận động,
phát triển nhằm đạt đến mục đích lợi ích giai cấp.
Chính trị với kinh tế là một khái niệm chỉ sự tác động của quyền lực chính trị mà trước hết và trực tiếp
là quyền lực nhà nước đến các quá trình kinh tế xã hội. Sự tác động này thực hiện bằng đường lối kinh
tế, thể chế chính trị với kinh tế, các chủ thể chính trị với kinh tế. Nó tác động đến mục đích phát triển kinh
tế, cơ cấu và cơ chế kinh tế, hiệu quả kinh tế XH, phương thức vận hành và phân phối sản phẩm. Phạm
vi tác động trên toàn bộ nền kinh tế, các lĩnh vực kinh tế cơ bản, các đơn vị kinh tế, các kỹ thuật kinh tế-
XH, các chủ thể kinh tế; từ quan hệ của các lĩnh vực cơ bản chính trị như: đường lối, chính sách, tổ
chức, thiết chế chính trị đến toàn bộ nền kinh tế nói chung hoặc tác động đến các lĩnh vực kinh tế cơ
bản của nền kinh tế quốc dân. Biểu hiện của sự tác động của chính trị với kinh tế có thể khái quát một số
nội dung sau:
Thứ nhất: Chính trị định hướng cho kinh tế phát triển dựa trên quy luật khách quan, nhận thức được
quy luật khách quan. Bất cứ một nền kinh tế nào cũng đều có sự định hướng chính trị, bởi nếu không
định hướng thì mục tiêu kinh tế, lợi ích kinh tế của giai cấp sẽ không được thực hiện, cũng như kinh tế sẽ
phát triển tự do, vô tổ chức sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Do đó, bất cứ chính trị của giai
cấp cầm quyền nào cũng phải làm nhiệm vụ định hướng kinh tế.Tuy nhiên, muốn định hướng thì chủ thể
chính trị phải có kiến thức, tri thức, trình độ nhất định để nhận thức đúng quy luật, để định hướng đạt
mục tiêu kinh tế phục vụ cho giai cấp
Thứ hai: Chính trị lựa chọn mô hình phát triển kinh tế. Một mô hình kinh tế được xác định đúng, phù
hợp là điều kiện hết sức quan trọng cho sự phát triển xã hội và tăng trưởng kinh tế, phù hợp với lợi ích
của giai cấp. Chính trị có khả năng nhận thức đầy đủ điều kiện thực trạng kinh tế, tài nguyên, con người
lao động và các điều kiện chính trị, xã hội, lịch sử có khả năng xây dựng một mô hình kinh tế thích hợp.
Thứ ba: Chính trị điều tiết tốc độ phát triển kinh tế : Tốc độ phát triển kinh tế phù hợp là điều hết sức
cần thiết cho sự phát triển chung của một chế độ XH. Nếu kinh tế trì trệ, chậm phát triển, chính trị phải
tác động thông qua đường lối, chủ trương, chính sách kinh tế hoặc các biện pháp kích cầu khác để kinh
tế có độ tăng trưởng hợp lý. Trong trường hợp kinh tế tăng trưởng quá nhanh không phù hợp với sự phát
triển XH thì chính trị phải có sự điều tiết , sự phát triển không phù hợp giữa kinh tế với XH thường dẫn
đến sự bất ổn về chính trị. Vì vậy, chính trị can thiệp vào kinh tế là tốc độ phát triển hết sức cần thiết.
Thứ tư: Vai trò của chính trị tác động đến các chủ thể kinh tế: chính trị của giai cấp cầm quyền không
thể không tác động đến chủ thể kinh tế. Bởi sự tác động này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế phát
triển và trong đó sẽ góp phần mang lại lợi ích nhất cho giai cấp cầm quyền. Hiện nay, mỗi thành phần
kinh tế được coi là chủ thể kinh tế. Vậy chính trị phải tác động lên các chủ thể, để đảm bảo tất cả các chủ
thể này đều phát triển tốt, trên cơ sở phát huy mặt tích cực và hạn chế của từng chủ thể kinh tế. Tạo điều
kiện cho chủ thể thực hiện lợi ích riêng, đồng thời góp phần thực hiện lợi ích chung của quốc gia, dân tộc
trên cơ sở định hướng chính trị, vì vậy không thể không có sự tác động của chính trị vào các chủ thể kinh
tế.
Thứ năm: Vai trò của chính trị trong việc quản lý chính trị-XH, con người trong các cơ sở sản xuất: Nói
đến vấn đề quản lý sản xuất, quản lý kinh tế tức là là quản lý con người, quản lý xã hội, chính trị. Quản lý
này nhằm đem lại điều kiện tốt nhất để kinh tế phát triển. Đặc biệt, đối với nền kinh tế nhiều thành phần
trong điều kiện đổi mới ở nước ta hiện nay, mà hệ thống chính trị của chúng ta không thể không chi phối,
kiểm soát đến tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là các thành phần kinh tế tư bản tư nhân. Vì vậy, để
quản lý xã hội, quản lý con người của nước ta hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp
tư nhân phải có tổ chức Đảng, các tổ chức quần chúng trong các doanh nghiệp để phát huy được vai trò
của nhân tố con người.
Sự tác động của chính trị đối với kinh tế có thể theo hai hướng : một là nếu chính trị tác động cùng
chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị có vai trò tích cực, thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất
và phân công lao động xã hội theo hướng chuyên môn hóa, hợp tác hóa. Hai là nếu chính trị tác động
ngược chiều với sự phát triển kinh tế, khi đó chính trị là vật cản đối với sự phát triển kinh tế
Từ những tác động trên của chính trị đến kinh tế, Lênin cho rằng “Chính trị không thể không giữ địa vị
ưu tiên so với kinh tế”. Luận điểm này khẳng định tính ưu tiên cho chính trị so với kinh tế, là hợp lý vì ưu
tiên cho chính trị là ưu tiên cho vấn đề cơ bản nhất, quyết định đến sự phát triển của bản thân kinh tế.
Theo luận điểm này, kết quả đạt được về phát triển kinh tế phải tính đến việc bảo vệ củng cố và phát
triển thành quả chính trị đạt được (củng cố và phát triển hệ thống chính trị) bởi vì có ổn định chính trị thì
kinh tế mối phát triển. Luận điểm này cũng cho thấy phải có quan điểm chính trị khi giải quyết các vấn đề
kinh tế và phải bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của nhà nước đối với phát triển kinh tế là
19
19
tất yếu khách quan. Chính trị phải được ưu tiên và giữ hàng đầu so với kinh tế vì chính trị có khả năng
can thiệp một cách tự giác vào quá trình kinh tế khách quan. Ưu tiên cho chính trị thì vấn đề đặt ra là khi
giải quyết các vấn đề kinh tế cụ thể phải đứng trên quan điểm, lập trường chính trị đúng đắn, tức là phải
trả lời cho câu hỏi : xuất phát từ lợi ích của ai ? phải thấy rằng việc giải quyết các vấn đề kinh tế phải góp
phần duy trì và củng cố quyền lực chính trị của chủ thể trong quá trình phát triển kinh tế. Đối với điều kiện
nước ta thì việc giải quyết xử lý các vấn đề kinh tế cụ thể phải xuất phát từ lợi ích của giai cấp công nhân
và đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Chính điều đó đảm bảo tính định hướng chính trị trong quá
trình phát triển kinh tế. Thiếu quan điểm chính trị trong việc giải quyết các vấn đề kinh tế thì kinh tế có thể
vẫn tăng trưởng cao nhưng lúc đó trung tâm quyền lực chính trị có thể không còn nằm trong tay giai cấp
thống trị đương thời mà sẽ nằm trong tay thành phần kinh tế đang đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Như vậy, ưu tiên cho chính trị ở đây chính là ưu tiên cho vấn đề quyền lực chính trị của một giai cấp.
Lênin viết ““Không có lập trường chính trị đúng đắn thì một giai cấp nhất định nào đó không thể giữ được
sự thống trị của mình và do đó cũng không thể hoàn thành được nhiệm vụ của mình trong lĩnh vực sản
xuất”. Mặt khác, trong kinh tế dù cải tổ hay đổi mới như thế nào cũng phải luôn giữ vững hệ tư tưởng
chính trị vì hệ tư tưởng chính trị quy định phương hướng mục tiêu, bản chất của chế độ xã hội. Trong
điều kiện cách mạng XHCN, sự ưu tiên của chính trị so với kinh tế là tất yếu để xây dựng CNXH : đó
chính là giành, giữ và sử dụng quyền lực chính trị và xây dựng nền kinh tê mới.
Cần lưu ý rằng trong mối quan hệ chính trị với kinh tế, nhiều trường hợp đã có chính sách chính trị
đúng đắn nhưng trình độ năng lực, tổ chức, chỉ đạo thực tiễn, phương thức hoạt động hệ thống chính trị
không vươn tới ngang tầm nhiệm vụ chính trị đề ra, thì chính trị vẫn có thể cản trở kinh tế hoặc để kinh tế
phát triển chệch hướng, trái với đường lối chính trị đã lựa chọn. Vì thế chính trị phải tự đổi mới, phải có
cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động, thiết chế vận hành phù hợp với cơ sở kinh tế. Từ những phân
tích trên cho thấy rằng các Đảng chính trị không thể sai lầm về đường lối chính trị. Trong những điều kiện
nhất định, có thể hy sinh kinh tế cục bộ để đảm bảo sự phát triển kinh tế bền vững lâu dài theo sự định
hướng của chính trị.
3. Chính trị với kinh tế trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay:
Thực tế ở nước ta đã khẳng định rằng những thay đổi lớn kinh tế, thường bắt đầu từ những quyết
sách chính trị mang tính bước ngoặc.
Nhìn lại quá trình Đảng lãnh đạo đất nước từ trước năm 1986, chúng ta thấy rằng tình hình nước ta
nói riêng và các nước XHCN nói chung đã có thời gian khá dài do tuyệt đối hóa vai trò của đường lối
chính trị, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã dẫn đến sự kiềm hãm sự phát triển kinh tế
và dẫn đến khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta đã hành động trái quy luật “kinh tế quyết định chính trị” khi
cho rằng mâu thuẫn nổi lên ở đầu thời kỳ quá độ là mâu thuẫn giữa chế độ chính trị tiên tiến với quan hệ
sản xuất lạc hậu, do đó phải đẩy mạnh cải tạo quan hệ sản xuất (mà trong đó chủ yếu là cải tạo xóa bỏ
các thành phần kinh tế phi XHCN) nhằm làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với chế độ chính trị tiên tiến.
Từ đó nảy sinh ra mâu thuẩn chủ yếu giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất , nhiệm vụ công
nghiệp hóa được đẩy lên một cách duy ý chí trong khi chưa có đủ các tiền đề cần thiết. Từ những sai lầm
về đường lối chỉ đạo này, dẫn đến nền kinh tế chậm phát triển, xã hội rơi vào khủng hoảng
Trên cơ sở đánh giá đúng những nguyên nhân sai lầm trên, Đảng và Nhà nước ta đã có những quyết
sách quan trọng để cải cách đổi mới toàn diện tất cả các lãnh vực của đời sống KT-XH, đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng và phát triển ngày càng vững chắc. Để tiếp tục đưa công cuộc đổi mới tiến lên, làm
cho đất nước ta phát triển nhanh, vững bền theo định hướng XHCN trong thời kỳ đổi mới đòi hỏi phải
nâng cao hơn nữa tính tự giác trong sự lãng đạo chính trị đối với kinh tế. Xử lý mối quan hệ chính trị với
kinh tế trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay, cần chú ý một số vấn đề sau:
Thứ nhất : Xác định mối quan tương quan giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị. Chủ
trương của Đảng là lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Thực hiện quan điểm đó, chúng ta chuyển từng
bước nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế tự cấp, tự túc, ưu tiên công ngiệp nặng sang nền kinh tế hàng
hoá và hình thành một hệ thống kinh tế mở. Trên cơ sở của những thành tựu mà Đảng ta thực hiện từng
bước đổi mới về chính trị, để đáp ứng yêu cầu lãnh đạo; Nhà nước đổi mới để đảm bảo vai trò quản lý
nền kinh tế có hiệu quả nhất. Các tổ chức chính trị-xã hội của quần chúng nhân dân từng bước hoàn
thiện để góp phần tích cực vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý XH,
20
20
Thứ hai : Định hướng XHCN với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX đã chỉ rõ “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN, đó là nền kinh tế thị trường XHCN. Đó là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ lên CNXH”. Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần như Đảng ta khẳng định là
hoàn toàn phù hợp với quy luật vận động khách quan của lịch sử, phù hợp với thực trạng và trình độ của
nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
Thứ ba : Kinh tế hàng hóa nhiều thành phần dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng CSVN. Đảng
ta không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Cũng đã có ý kiến cho rằng : kinh tế nhiều thành phần có đối
lập, đối kháng thì chính trị với tư cách là sự phản ánh của kinh tế thì chính trị cũng phải đa nguyên, đa
đảng. Thực tế đây là một quan điểm không đúng bởi 2 lý do : một là nền kinh tế nhiều thành phần không
chỉ có ở nước ta (một nước đang theo chế độ nhất nguyên) mà nó còn tồn tại phổ biến ở nhiều nước với
nhiều chế độ chính trị khác nhau (nhất nguyên chính trị như Xingapo, Trung quốc, đa nguyên chính trị
như Mỹ), như vậy việc đa nguyên về kinh tế không nhất thiết phải đa nguyên về chính trị. Hơn nữa, ở
một nước có rất nhiều Đảng phái chính trị như Mỹ thì mặc dù đường lối, chủ trương, tổ chức của các
Đảng có khác nhau nhưng thực chất các đảng này đều do giai cấp tư sản nắm quyền, vì vậy xét cho
cùng ở các nước này cũng là nhất nguyên về chính trị. Hai trong kinh tế có đối kháng giữa các thành
phần kinh tế nhưng nếu có một thành phần kinh tế chủ đạo, đủ mạnh chi phối các thành phần kinh tế
khác thì sự đối kháng đối lập về kinh tế - xã hội sẽ không trở thành sự đối kháng ở quy mô giai cấp. Ở
nước ta, mặc dù kinh tế nhiều thành phần nhưng kinh tế nhà nước là chủ đạo thì sẽ không dẫn đến đối
kháng giai cấp. Như vậy, vịêc duy trì một Đảng, nhất nguyên chính trị là tất yếu khách quan, là điều kiện
đảm bảo sự ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Song, để lãnh đạo tốt kinh tế cũng như các lĩnh vực
khác của đời sống XH, Đảng phải tự đổi mới vươn lên ngang tầm nhiệm vụ. NQ TW6 (lần 2) khoá VIII
chủ trương tăng cường công tác phê bình, tự phê bình, chỉnh đốn Đảng là nhằm làm trong sạch phẩm
chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, Đảng viên để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng. Đây là
yêu cầu bắt buộc của Đảng trong tình hình mới hiện nay.
Thứ tư: Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
nhà nước. Kinh tế hàng hoá nhiều thành phần bao giờ cũng có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt trái
của cơ chế thị trường là khoảng cách giàu nghèo trong nội bộ nhân dân có xu hướng ngày càng lớn, tình
trạng thất nghiệp khá lớn, tính chất bóc lột theo kiểu TBCN đang có xu hướng trở thành phổ biến trong
các đơn vị kinh tế tư nhân, TB nhà nước, TB nước ngoài, lối sống phi vănhóa đang gia tăng trong một bộ
phận dân cư, thậm chí xâm nhập vào các cơ quan nhà nước. Do đó nguy cơ chệch hướng XHCN vẫn
còn. Để đạt được hiệu quả cao trong quá trình tác động phải xuất phát từ thực trạng kinh tế của đất nước
và nhận thức đúng, đầy đủ các quy luật khách quan của kinh tế. Nhà nước tác động vào kinh tế còn phải
thể hiện rõ vai trò của mình trong việc tạo môi trường, điều tiết chính sách XH, quản lý, phân phối nguồn
tài nguyên quốc gia.
Hiện nay, sự quản lý nhà nước đối với kinh tế vẫn còn nhiều hạn chế. Đó là sự thiếu đồng bộ của cơ
chế và chính sách kinh tế, mặc dù chuyển từ kinh tế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường nhưng
vẫn còn 1 số chính sách quay lại chính sách kinh tế thời bao cấp, nhiều hoạt động SX-KD chưa có cơ
chế thích hợp, nhiều lĩnh vực kinh tế thiếu khung pháp lý, việc ban hành các văn bản và hướng dẫn thực
hiện nhiều khi không khớp nhau và chậm. Sự yếu kém của cán bộ trực tiếp quản lý kinh tế, kém về trình
độ năng lực, sa sút về đạo đức, bản lĩnh yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại, nhiều cán bộ do thiếu bản
lĩnh nên bị mắc lừa. Việc thực hiện đường lối chủ trương của Đảng và pháp luật của nhà nước về kinh tế
chưa nghiêm, tình trạng tự do, tuỳ tiện, bất chấp pháp luật, tự đặt ra quy định mà chỉ có lợi cho việc quản
lý , còn không quan tâm đời sống của nhân dân như thế nào. Tình trạng trên nói dưới không nghe, hiện
tượng làm láu báo cáo hay, hiện tượng quên lãng nghị quyết, quên lãng pháp luật. Việc cải cách hành
chính mà nhất là hành chính về kinh tế còn chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế. Vì vậy, tăng
cường sự lãnh đạo chính trị đối với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ngày càng trở nên vấn
đề trọng yếu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước
Thứ năm: Đổi mới hệ thống chính trị cho phù hợp với đổi mới kinh tế. Trong thời kỳ quá độ tiến lên
CNXH ở nước ta hệ thống chính trị XHCN do ĐCS VN lãnh đạo. Để đảm bảo chính trị là động lực, là mở
đường cho kinh tế phát triển, thì hệ thống chính trị phải tiến hành đổi mới,. Không làm được điều đó hệ
thống chính trị sẽ không thể định hướng cho kinh tế và như thế nguy cơ chệch hướng kinh tế hoàn toàn
có thể xảy ra. Nghị quyết Đại hội VII đã chỉ rõ nguy cơ chệch hướng kinh tế có thể bắt đều từ chính hình
thái chính trị. Đổi mới nâng cao hiệu lực hoạt động của hệ thống chính trị. Chính là yếu tố quyết định đảm
bảo thắng lợi của sự nghiệp đổi mới ở nước ta. Đổi mới hệ thống chính trị và từng bước xây dựng, hoàn
21
21
thiện nền dân chủ XHCN có quan hệ biện chứng với nhau. Thực chất đổi mới và kiện toàn hệ thống
chính trị ở nước ta là xây dựng nền dân chủ XHCN. Dân chủ là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn
thiện hệ thống chính trị XHCN. Làm tốt việc này chính là góp phần tạo ra động lực tổng hợp cho sự
nghiệp xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ ở nước ta
Để nền kinh tế thị trường ở nước ta ngày càng thật sự là phương thức thực hiện sự nghiệp “Dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”, sự lãnh đạo của chính trị phải giải quyết tốt những
vấn đề sau :
Một là sự lãnh đạo về chính trị phải đảm bảo lợi ích của giai cấp và dân tộc trong sự phát triển của
kinh tế. Chính trị phải tập trung lãnh đạo việc xây dựng quan hệ sản xuất XHCN, xác lập cho được vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân, phải làm cho hình
thức quản lý tập thể trở thành phổ biến, phải làm cho hình thức phân phối theo lao động là chính. Chính
trị phải lãnh đạo giải quyết tốt những mâu thuẩn phổ biến khi phát triển kinh tế thị trường (mâu thuẫn
giữa phát triển kinh tế với công ăn việc làm, phân hóa giàu nghèo, giữa sự phát triển kinh tế trước mắt
với sự phát triển kinh tế lâu dài của đất nước, giữa phát triển kinh tế với công bằng xã hội. Chính trị phải
giải quyết tốt mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế : vừa tranh thủ được vốn, kỹ
thuật, kinh nghiệm tiên tiến của thế giới, đồng thời chống chủ nghĩa thực dân kinh tế của các đế quốc
dưới mọi hình thức, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
Hai là chính trị phải làm cho kinh tế nâng cao hiệu quả KTXH : chính trị phải đảm bảo tốt phát triển KT
với phát triển XH, phải là cho sự phát triển kinh tế đem lại lợi ích cho mọi người, làm cho sự phát triển
đồng đều giữa các vùng, các miền trong địa phương cả nước. Chính trị phải lãnh đạo việc đổi mới quan
hệ, phải đảm bảo công nghệ hiện đại phù hợp với điều kiện Việt Nam, công nghệ phải đảm bảo khôi
phục tính chỉnh thể của môi trường, chỉnh thể của người lao động. Phải lãnh đạo tốt việc phát triển kinh
tế gắn liền với bảo vệ tổ quốc, chiến lược kinh tế gắn liền với chiến lược an ninh quốc phòng và phòng
thủ quốc gia
Ba là sự lãnh đạo của chính trị nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình khách quan thúc đẩy sự phát triển của
kinh tế. Chính trị phải tạo ra môi trường cho các quy luật kinh tế phát huy tác dụng, phải vận dụng những
quy luật nhân tố ngoài kinh tế tác động vào KT. Chính trị phải chủ động tạo ra sự gần gũi giữa các chủ
thể chính trị với các chủ thể KT, làm cho kinh tế quán triệt ngày càng đầy đủ hơn quan niệm, đường lối
của Đảng về kinh tế chính trị. Ngược lại các nhà chính trị nắm vững hơn thực trạng xu hướng phát triển
của đất nước.
Bốn là chính trị phải hạn chế đến mức tối thiểu mặt trái của kinh tế thị trường : chính trị phải giải quyết
tốt các vấn đề kinh tế, phải trong sạch hóa đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ năng lực, nâng cao bản lĩnh
và đạo đức. Chính trị phải đấu tranh có hiệu quả với hoạt động kinh tế bất chính, đồng thời trừng trị
nghiêm những hoạt động kinh tế phi pháp, phê phán mạnh mẽ những hoạt động kinh tế bất chính. Hạn
chế đến mức tối thiểu sự phân hóa xã hội, phải rút ngắn khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp, trước
hết là thu nhập kinh tế, phải làm cho mọi người hiểu hết nến kinh tế thị trường.
Tóm lại: Chính trị với kinh tế là những lĩnh vực cơ bản trong đời sống XH, vì vậy giải quyết đúng đắn
mối quan hệ chính trị-kinh tế sẽ tạo ra những động lực lớn quyết định đến quá trình phát triển của chế độ
XH. Đối với nước ta hiện nay, việc nắm vững mối quan hệ biện chứng giữa chính trị với kinh tế và vận
dụng đúng đắn mối quan hệ giữa chúng trong thực tiễn sẽ là động lực quan trọng để thực hiện định
hướng XHCN với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ văn minh”. Đồng thời sẽ góp
phần trong việc thực hiện chiến lược phát triển kinh tế-XH mà Đại hội toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định
“Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành
một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển LLSX, đồng thời xây dựng QHSX phù hợp theo định hướng
XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng
bước cải thệin đời sống vật chất và tinh thấn của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng XH, bảo vệ
và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh”./.
22
22
Vấn đề 5: Phân tích những đặc trưng cơ bản của VH chính trị ở Việt Nam. Liên hệ việc nâng cao
trình độ VH chính trị cho cán bộ và quần chúng ở địa phương mình.
Bài làm
Trong đời sống chính trị hiện đại, văn hóa chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng góp phần thúc
đẩy hoạt động chính trị của mọi công dân. Sự phát triển của xã hội hiện đại cũng ngày càng minh chứng
văn hóa chính trị là mặt quan trọng của văn hóa nói chung. Điều này xuất phát từ ý nghĩa của vấn đề
chính trị. Bởi lẽ, chính trị là mối quan hệ giữa các giai cấp và giữa các cộng đồng quốc gia; là sự tham
gia của nhân dân vào các công việc của nhà nước và XH; là tổng hợp những phương hướng, những
mục tiêu gắn liền với lợi ích cơ bản của giai cấp, đảng phái, quốc gia, dân tộc; là hoạt động thực tiễn
chính trị để thực hiện mục tiêu, đường lối chính trị của từng cá nhân, tổ chức chính trị. Đất nước ta đang
tiến vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bên cạnh thời cơ và thuận lợi chúng ta cũng
đang đứng trước nhiều nguy cơ thử thách. Đặc biệt qua 15 năm đổi mới, đất nước đang đi vào chiều
sâu của quá trình cải cách chính trị, của dân chủ hoá đời sống chính trị thì văn hóa chính trị thật sự trở
thành một yêu cầu bức xúc và có ý nghĩa hết sức quan trọng ảnh hưởng và quyết định đến thắng lợi của
cách mạng. Để khẳng định điều này chúng ta hãy cùng nhau phân tích những đặc trưng cơ bản về văn
hóa chính trị ở Việt Nam trong việc nâng cao trình độ văn hóa chính trị cho cán bộ và nhân dân trong giai
đoạn hiện nay.
1. Khái niệm văn hóa chính trị:
Văn hóa chính trị là một bộ phận, một phương diện trong XH có giai cấp. Văn hóa chính trị là sự
thẩm thấu, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau giữa văn hóa với chính trị, giữa chính trị với văn
hóa. Việc nghiên cứu VH chính trị trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta dựa trên cơ sở kế thừa những tư
tưởng VH chính trị trước đây, các quan niệm VH chính trị hiện nay trên thế giới và vận dụng chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tiếp cận từ quan điểm Mácxít cho thấy rằng: “VH chính trị là chất lượng tổng hợp của tri thức và kinh
nghiệm hoạt động chính trị, là tình cảm và niềm tin chính trị của mỗi cá nhân tạo thành ý thức chính trị
của mỗi công dân, thúc đẩy họ tới những hành động tích cực, phù hợp với lý tưởng chính trị XH”.
Nếu xem xét văn hóa chính trị từ góc độ rộng hơn của KH chính trị thì “Văn hóa chính trị là một
phương diện vănhóa trong xã hội có giai cấp, nói lên tri thức, năng lực sáng tạo trong hoạt động chính trị
hiện thực cùng những thiết chế chính trị tiến bộ được lập ra để thực hiện lợi ích chính trị cơ bản của giai
cấp hay của nhân dân phù hợp với sự phát triển của lịch sử. Văn hóa chính trị nói lên phẩm chất và hình
thức hoạt động chính trị của con người cùng những thiết chế chính trị mà họ lập ra để thực hiện lợi ích
giai cấp cơ bản của chủ thể tương ứng”.
Từ những quan niệm trên cho thấy con đường hình thành và phát triển VH chính trị trong XH nhất
định là sự hoàn thiện chế độ XH cùng các tổ chức thiết chế chính trị và việc nâng cao năng lực chính trị
của XH. Việc kế thừa và phát triển những giá trị vật chất, giá trị tinh thần do hoạt động chính trị sáng tạo
ra của nhân loại, của dân tộc là yêu cầu tất yếu trong quá trình phát triển VH chính trị ở nước ta hiện nay.
2. Đặc trưng văn hóa chính trị.
- VH chính trị bao giờ cũng mang tính giai cấp.
23
23
Văn hóa chính trị hình thành trong thực tiễn đấu tranh giai cấp vì vậy nó luôn bị chi phối bởi thế giới
quan, hệ tư tưởng, những quan điểm chính trị của giai cấp nhất định và phục vụ cho lợi ích của mỗi giai
cấp. Tuy rất quan trọng nhưng tính giai cấp không phải là thuộc tính duy nhất của VH chính trị. Tính dân
tộc và tính nhân loại luôn tồn tại trong VH chính trị của từng giai cấp. Đặc biệt trong bối cảnh của thế giới
hiện đại, mối quan hệ giữa tính giai cấp, tính dân tộc và tính nhân loại càng gắn bó chặt chẽ hữu cơ hơn
bao giờ hết. VH trước hết là vấn đề tồn tại và phát triển của một cộng đồng người nhất định, cộng đồng
trở nên bền vững khi nó trở thành dân tộc. Tính dân tộc luôn gắn liền tính nhân loạl, tính giai cấp.
- VH chính trị phản ánh quan hệ quyền lực chính trị.
Các giá trị của VH chính trị thể hiện mối quan hệ quyền lực giữa giai cấp và chính Đảng, tổ chức và
thành viên trong nội bộ giai cấp; quan hệ giữa các giai cấp và nhà nước, nhà nước và công dân ;
quan hệ giữa các nhà nước, các quốc gia dân tộc, các tổ chức chính trị quốc tế mà ở đó, tất cả điều
thể hiện quyền lực chính trị của người này đối với người khác và ngược lại. Các giá trị này gắn liền với
những chuẩn tắc, cơ chế và thể lệ tổ chức và hoạt động chính trị, những chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm cùng với mối quan hệ xác định đã được các cơ quan quyền lực qui định mà không thể
làm khác được. Biểu hiện tập trung nhất tính quyền lực của văn hóa chính trị là ở luật pháp của Nhà
nước.
- VH chính trị mang tính lịch sử cụ thể.
VH chính trị được qui định bởi những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan. Hai nhân tố này có
nội dung, tính chất và phương thức qui định khác nhau trong các thời kỳ lịch sử khác nhau, điều đó qui
định tính lịch sử của VH chính trị. Tính cụ thể của VH chính trị dựa trên cơ sở lý tưởng chính trị, lập
trường và hành vi , cũng như trên cơ sở yếu tố tâm lý XH. Tính lịch sử của VH chính trị thể hiện ở trong
các điều kiện lịch sử khác nhau. Mặt khác, các giá trị VH chíng trị không phải là cái gì bất biến mà luôn có
sự vận động và phát triển.
- VH chính trị mang tính kế thừa .
Hệ tư tưởng là nhân tố cốt lõi nhất của VH chính trị. Nhưng trong mỗi hình thái kinh tế nhất định, kết
cấu giai cấp rất phức tạp và không thuần nhất. Do đó, trong mỗi nền chính trị, VH chính trị không thuần
nhất. VH của các giai cấp có hệ tư tưởng độc lập chi phối VH của giai cấp khác tạo nên bức tranh đa
dạng của VH chính trị. Bên cạnh VH chính trị của giai cấp nắm quyền lực Nhà nước, còn có VH chính trị
của các giai cấp và các giai tầng khác nhau trong XH.
- VH chính trị là sự tổng hòa tất cả các hình thái VH cơ bản của XH.
VH chính trị như là sự thâu thái toàn bộ các hình thái VH khác vào trong nó và biến những giá trị ấy
thành những giá trị mang tính độc đáo riêng của mình. Giá trị của VH chính trị luôn bao chứa trong mình
nó không chỉ là cái chính trị mà còn cả cái đạo đức, cái khoa học, cái thẩm mỹ. Một giá trị văn hóa khác
chưa hẳn mang tính chính trị nhưng bất kỳ một giá trị vănhóa chính trị nào cũng không thể không mang
giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ và cả tri thức khoa học ở mức độ cần thiết. Chính vì vậy VH chính trị luôn
tồn tại và phát triển như là một chỉnh thể quyền lực chính trị ngày càng tiệm cận sự giải phóng tối cao và
phát huy một cách tự nhiên bản chất tốt đep của con người.
- VH chính trị rất phức tạp trong việc xác định chân giá trị.
Xuất phát từ khát vọng cho quyền lực và nhu cầu về lợi ích khác nhau, giá trị VH của nhiều sự kiện
chính trị lớn trong lịch sử của nhân loại, không chỉ được những người đương thời nhìn nhận hết sức trái
ngược nhau mà còn cả những người của thời đại sau cũng có sự đánh giá rất khác nhau. Khó có một sự
24
24
tương thích về quan điểm giữa những người có lập trường và lý tưởng XH khác nhau đối với khía cạnh
vănhóa của các vấn đề chính trị. Không những thế mà ý thức hệ giai cấp còn xâm nhập vào, nhiều khi
đến mức chi phối trong việc xác nhận các giá trị đạo đức, giá trị thẩm mỹ và thậm chí tri thức khoa học.
3. Những đặc trưng cơ bản của nền VH chính trị VN.
Nền văn hóa chính trị Việt Nam là một nền VH chính trị gắn liền với lịch sử dựng nước và giữ nước
lâu dài đã tạo lập nên được nhiều truyền thống quí báu, đến hôm nay vẫn đang tiếp tục phát huy tác
dụng to lớn trong những hình thức và biểu hiện mới. Những giá trị tiêu biểu của truyền thống văn hóa
chính trị Việt Nam bao gồm:
Thứ nhất, nền văn hóa chính trị VN đề cao tinh thần yêu nước, độc lập dân tộc và chủ quyền quốc
gia; chủ nghĩa yêu nước là kết tinh những giá trị tiêu biểu nhất của VH chính trị VN. Khắc phục thiên tai
và chống giặc ngoại xâm là hai đặc điểm truyền thống tạo nên tính cố kết cộng đồng trong đời sống của
con người VN. Chính trong quá trình dựng nước và giữ nước, trí tuệ, nhân cách và sức mạnh sáng tạo
của dân tộc VN được kết tinh. Tình cảm và tư tưởng yêu nước là tình cảm và tư tưởng lớn nhất, bao
trùm nhất của nhân dân, của dân tộc VN. Giáo sư Trần Văn Giàu viết: “Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ
xuyên qua lịch sử VN biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thành một
triết lý xã hội và nhân sinh của người VN và, nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của nó là “đường”, là
hướng đi thì chủ nghĩa yêu nước đích thực là đạo của VN”. Chủ nghĩa yêu nước VN thể hiện qua một số
nội dung cơ bản sau: Yêu quê hương xứ sở làng sớm, gắn bó kết cấu cộng đồng có lịch sử và VH
chung, Ý thức dân tộc và tự hào dân tộc; ý thức sâu sắc về độc lập dân tộc, toàn vẹn lãnh thổ và chủ
quyền quốc gia, hướng về dân và lấy dân làm gốc.
Thứ hai, chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM là bộ phận cốt lõi nhất trong VH chính trị VN hiện
nay. Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM làm nền tảng tư tưởng cho mọi hoạt động của
mình. Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM luôn vì con người và mang những giá trị nhân văn, luôn
hướng mọi hoạt động của con người đi đến chân, thịện, mỹ; chính vì thế mà đây là một bộ phận cốt lõi
nhất trong VH chính trị VN hiện nay. Từ khi Đảng ta được thành lập cho đến nay giá trị nhân văn của chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng HCM là một trong những mục tiêu mà Đảng ta cần đạt tới, đó là vì con
người, đem lại tự do hạnh phúc cho con người.
Thứ ba, những chuẩn mực mang giá trị nhân văn trong hoạt động chính trị thực tiễn của VN. Văn
hóa chính trị Việt Nam luôn kế thừa và phát triển những chuẩn mực mang giá trị nhân văn, truyền thống
tốt đẹp trong hoạt động chính trị của nước ta qua các thời kỳ từ khi dựng nước đến nay, đó là :
- Lấy nhân nghĩa để cứu nước, cứu dân
- Truyền thống tư tưởng thân dân, khoan dân, yêu dân, dựa vào dân là điều kiện sống còn của nhà
nước
- Giàu tình khoan dung, đề cao và tôn trọng hiền tài trong việc trị nước
- Độc lập dân tộc, non sông đổi mới trong một thế giới hoà bình
Những giá trị này hiện nay vẫn còn phù hợp với nhân loại và là một xu thế tất yếu của các dân tộc
tiến bộ trên thế giới.
Hiện nay đất nước ta đã hòa bình thống nhất, tiến hành hiện đại hoá đất nước, mọi đượng lối, chủ
trương của Đảng điều do dân và vì dân, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng XH, khuyến
25
25