Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

phát triển quỹ đầu tư chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.32 KB, 96 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

1
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.1. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN
Trong nền kinh tế thị trường, sự tồn tại và phát triển của thị trường tài
chính đóng vai trò chủ đạo cho sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế. Hoạt
động của thị trường tài chính có những tác động tích cực, hiệu ứng trực tiếp
tới hiệu quả đầu tư của các cá nhân, của doanh nghiệp, hành vi của người tiêu
dùng, và tới động thái chung của toàn bộ nền kinh tế.
Thị trường tài chính bao gồm nhiều bộ phận, trong đó thị trường chứng
khoán (TTCK) là một bộ phận đặc biệt quan trọng. Ra đời từ rất sớm, TTCK
dần phát triển và trở thành một bộ phận không thể thiếu của một thị trường
tài chính phát triển.
Trong nền kinh tế hiện đại, TTCK được xem là đặc trưng cơ bản, là
biểu tượng của toàn nền kinh tế. Mọi động thái hay thay đổi nhỏ của các chủ
thể tham gia trên thị trường đều được thể hiện trên TTCK. Người ta có thể đo
lường và dự tính sự phát triển của nền kinh tế qua các diễn biến trên TTCK.
Đề cập đến TTCK và hoạt động của các chủ thể tham gia trên thị
trường, trước hết cần đề cập đến các giao dịch của thị trường đó. Để TTCK
thực sự phát huy được vai trò của mình, trở thành một kênh huy động vốn
hiệu quả thì sự tham gia của các chủ thể  đặc biệt là các Quỹ đầu tư chứng
khoán  là vô cùng cần thiết.
1.1.1. Tổng quan về thị trường chứng khoán
1.1.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B



2
Hiện nay, tồn tại rất nhiều cách hiểu khác nhau về TTCK.
Quan điểm thứ nhất cho rằng TTCK và thị trường vốn là một và chỉ là
tên gọi khác nhau của cùng một khái niệm : Thị trường tư bản. Thị trường
vốn biểu hiện nội dung, bản chất bên trong của quá trình mua bán chứng
khoán, còn TTCK là biểu hiện bên ngoài, là các giao dịch vốn cụ thể.
Quan điểm thứ hai, của đa số các nhà kinh tế, lại cho rằng: “ TTCK
được đặc trưng bởi thị trường vốn chứ không đồng nhất với thị trường vốn”.
Theo quan điểm này, TTCK và thị trường vốn là hai thị trường khác nhau
nhưng có quan hệ qua lại với nhau.
Cũng có những giai đoạn trong lịch sử TTCK, tại đa số các Sở giao
dịch chứng khoán người ta chủ yếu giao dịch, mua bán các phiếu cổ phần do
các công ty phát hành ra để huy động vốn, và do đó người ta cho rằng: “
TTCK là thị trường cổ phiếu”.
Có thể thấy rằng các quan điểm trên được đưa ra dựa trên điều kiện
thực tiễn của lịch sử nên đều đúng trong những giai đoạn nhất định. Tổng hợp
và kế thừa các quan điểm trên đồng thời phù hợp với sự phát triền chung của
TTCK hiện nay, có thể hiểu:
“Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán, trao đổi các
loại chứng khoán; là nơi cung và cầu chứng khoán gặp nhau”.
Hàng hoá trên TTCK là các loại chứng khoán. Giá cả trao đổi là thị giá
chứng khoán. Các giao dịch, mua bán, trao đổi về chứng khoán giữa các nhà
đầu tư, các nhà đầu cơ, kinh doanh chứng khoán và các công ty với sự hỗ trợ
của các trung gian tài chính có thể diễn ra trên thị trường sơ cấp, hay thị
trường thứ cấp; tại thị trường giao dịch tập trung (Sở giao dịch chứng khoán)
hay TTCK phi tập trung (thị trường giao dịch qua quầy – Over The Counter
Market), trên thị trường giao ngay (Spot market) hay thị trường kỳ hạn
(Future market). Các quan hệ mua bán, giao dịch, trao đổi này làm thay đổi
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

3
chủ sở hữu của chứng khoán, về thực chất chính là quá trình vận động tư bản
từ tư bản sở hữu sang tư bản kinh doanh.
Với các cách hiểu như trên, có thể xác định TTCK là một bộ phận của
thị trường tài chính, xong vị trí của nó trong thị trường vốn và thị trường tiền
tệ lại khác nhau do các quan điểm không đồng nhất. Một quan điểm phổ biến
ở các TTCK phát triển và ở Việt Nam hiện nay là : TTCK là bộ phận quan
trọng nhất, là đặc trưng của thị trường vốn.
SƠ ĐỒ 1: CẤU TRÚC THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Tóm lại, TTCK là một thị trường khác biệt với các thị trường hàng hoá
thông thường khác vì hàng hoá trên thị trường này là một loại hàng hoá đặc
biệt : quyền sở hữu về tư bản. Vì vậy, có thể nói : bản chất của TTCK là thị
trường thể hiện mối quan hệ giữa cung và cầu về vốn đầu tư, mà ở đó giá cả
của chứng khoán chứa đựng thông tin về chi phí vốn hay giá cả của vốn đầu
tư. TTCK chính là hình thức phát triển bậc cao của nền sản xuất và lưu thông
hàng hóa.
1.1.1.2. Giao dịch trên thị trường chứng khoán
Giao dịch trên thị trường chứng khoán là việc các nhà đầu tư đặt lệnh,
tham gia mua, bán, trao đổi hay chuyển nhượng chứng khoán. Dựa trên thời
gian thanh toán và tính chất giao dịch, các giao dịch chứng khoán có thể được
THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ THỊ TRƯỜNG VỐN
Thị trường
chứng khoán
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

4
phân loại thành giao dịch thông thường, giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ

hạn, giao dịch tương lai và giao dịch quyền chọn.
a. Giao dịch thông thường: là các giao dịch phổ biến trên thị trường chứng
khoán. Sau khi giao dịch chứng khoán diễn ra là quá trình xử lý các giao
dịch theo một thời gian xác định, thông thường có chu kỳ thanh toán là
T+3. Việc rút ngắn chu kỳ thanh toán có ý nghĩa quan trọng trong việc thu
hút nhà đầu tư đồng thời, khi chu kỳ thanh toán càng ngắn thì rủi ro thanh
toán càng giảm đi.
b. Giao dịch đặc biệt: là các giao dịch có tính chất đặc biệt, như: giao dịch cổ
phiếu mới niêm yết, giao dịch trong trường hợp tách, gộp cổ phiếu, giao
dịch lô lớn, giao dịch lô lẻ, giao dịch không hưởng cổ tức, giao dịch ký
quỹ (giao dịch bảo chứng ); bán khống.
c. Giao dịch giao ngay: là các loại giao dịch được thanh toán ngay trong
ngày giao dịch (ngày T). Loại giao dịch này hầu như không có rủi ro thanh
toán vì quá trình thanh toán được thực hiện ngay sau khi giao dịch diễn ra.
Loại giao dịch này thường được áp dụng ở các thị trường có hệ thống
thanh toán tiên tiến và chủ yếu với các loại trái phiếu.
d. Giao dịch kỳ hạn: là loại giao dịch được thanh toán vào một ngày xác định
trong tương lai hoặc theo sự thoả thuận giữa hai bên mua và bán. Tuy
nhiên, loại hình giao dịch này hiện nay hầu như không được thực hiện.
e. Giao dịch tương lai: là loại giao dịch giống như các hợp đồng kỳ hạn,
nhưng nó khác hợp đồng kỳ hạn ở một số điểm, như: được tiêu chuẩn hoá
bởi các luật lệ của Sở giao dịch chứng khoán, được quy định rõ về nội
dung mua bán và được mua bán trên Sở giao dịch chứng khoán.
f. Giao dịch quyền chọn: là các giao dịch quyền chọn mua hoặc quyền chọn
bán một loại chứng khoán nhất định với giá và thời gian được xác định
trước.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

5

Các giao dịch trên thị trường chứng khoán rất đa dạng và phức tạp vì
với từng hệ thống giao dịch lại có nhiều loại giao dịch khác nhau (như đã nói
ở trên), đồng thời dựa trên các nguyên tắc khớp lệnh khác nhau với rất nhiều
các loại lệnh và định chuẩn lệnh nên không phải tất cả các nhà đầu tư đều
hiểu và sử dụng thành thạo các công cụ của thị trường chứng khoán. Thông
thường, chỉ những người có chuyên môn về lĩnh vực phân tích, đầu tư chứng
khoán mới sử dụng những công cụ này một cách triệt để. Những người này
thường làm ở các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, trong đó Quỹ đầu tư chứng
khoán là một tổ chức đầu tư đặc biệt vì Quỹ vừa là tổ chức phát hành vừa là
tổ chức chuyên nghiệp trong lĩnh vực đầu tư chứng khoán.
Hơn nữa, các giao dịch chứng khoán không tự mình diễn ra mà được
thực hiện giữa những người cần vốn và người có vốn tạm thời nhàn rỗi, giữa
những người có nhu cầu mua chứng khoán và người muốn bán chứng khoán.
Những người này chính là các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán.
1.1.1.3. Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
Có thể nói rằng, sự tham gia của các chủ thể trên TTCK chính là điều
kiện cần để phát triển TTCK. Có rất nhiều cá nhân và tổ chức tham gia
TTCK, tuy nhiên có thể chia thành 3 nhóm chủ thể sau : chủ thể phát hành,
chủ thể đầu tư và các tổ chức có liên quan đến hoạt động của thị trường.
Chủ thể phát hành chính là tổ chức cung cấp hàng hoá cho TTCK.
Chủ thể có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp và
các tổ chức khác như : Quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng thương mại, các
công ty tài chính trong đó: Chính phủ và chính quyền địa phương có thể phát
hành Trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình, trái phiếu địa phương, tín
phiếu kho bạc nhà nước Công ty là các chủ thể phát hành các cổ phiếu và
trái phiếu công ty. Còn các tổ chức tài chính là chủ thể phát hành các công cụ
tài chính như trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ hưởng lợi … phục vụ cho mục
tiêu huy động vốn và phù hợp với đặc thù hoạt động của các tổ chức này theo
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B


6
luật định của từng nước.
Chủ thể đầu tư là những người có tiền thực hiện việc mua bán các
chứng khoán trên thị trường để tìm kiếm lợi nhuận. Họ là những người tạo ra
cầu về chứng khoán trên thị trường. Có hai loại chủ thể đầu tư là: nhà đầu tư
cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
Nhà đầu tư cá nhân là các cá nhân hay các hộ gia đình riêng lẻ, có
nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi tham gia đầu tư trên TTCK nhằm thu lợi nhuận.
Mà lợi nhuận thì luôn gắn liền với rủi ro. Thực tế cho thấy, mức độ chấp nhận
rủi ro càng cao thì lợi nhuận kỳ vọng càng lớn.Vì thế các nhà đầu tư luôn phải
lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với khả năng và mức độ chấp nhận rủi
ro của chính mình.
Nhà đầu tư có tổ chức là các định chế đầu tư, thường xuyên mua bán
chứng khoán với số lượng lớn trên thị trường. Các nhà đầu tư có tổ chức bao
gồm: các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại, các công ty bảo
hiểm, quỹ hưu trí và các Quỹ đầu tư chứng khoán. Đầu tư thông qua các tổ
chức này có ưu điểm là có thể đa dạng hoá danh mục đầu tư với chi phí ở
mức thấp và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia đầu tư
có kinh nghiệm và chuyên môn cao.
Bên cạnh chủ thể phát hành và chủ thể đầu tư, một chủ thể khác không
kém phần quan trọng góp phần giúp cho TTCK ổn định và phát triển đó chính
là các tổ chức có liên quan đến thị trường. Các tổ chức này bao gồm: Cơ
quan quản lý và giám sát hoạt động của TTCK. Tại Việt Nam, cơ quan này có
tên gọi là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (SSC – State of Securities
Commision). Sở giao dịch chứng khoán, hiệp hội các nhà kinh doanh chứng
khoán, tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ chứng khoán, các tổ chức hỗ trợ,
các công ty định mức tín nhiệm
Có thể thấy rằng, trong các chủ thể trên, Quỹ đầu tư chứng khoán là
một chủ thể đặc biệt vì nó vừa là chủ thể phát hành, vừa là chủ thể đầu tư.

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

7
Quỹ đầu tư chứng khoán là tổ chức tài chính phát hành cổ phiếu hoặc các
chứng chỉ đầu tư nhằm thu hút, tập hợp tiền để đầu tư vào các loại tài sản tài
chính, mà chủ yếu là các chứng khoán trên thị trường. Quỹ đầu tư chứng
khoán là một chủ thể quan trọng vì nó vừa tạo cung đồng thời tạo cầu cho thị
trường, góp phần không nhỏ vào việc ổn định và phát triển TTCK.
1.2. QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN
1.2.1. Sự hình thành và phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán
Trước khi nghiên cứu cụ thể về Quỹ đầu tư chứng khoán, ta hãy nhìn
lại sự hình thành và phát triển của các Quỹ này.
Quỹ đầu tư, một bộ phận không thể thiếu trên thị trường tài chính nói
chung, TTCK nói riêng tại các quốc gia có nền tài chính phát triển là một phát
minh của người Châu Âu thế kỷ 19. Các quỹ đầu tư ban đầu được thành lập
theo kiểu tín thác đầu tư ( Investment Trust). Quỹ tín thác đầu tiên do vua
William I của Hà Lan thành lập tại Brusels  Bỉ. Quỹ này được lập ta để tạo
điều kiện cho Hà Lan có thể đưa tiền đầu tư ra nước ngoài dưới dạng các
khoản vay của chính phủ. Tuy nhiên, hoạt động đầu tư tín dụng chỉ thực sự
phát triển ở Anh. Cuộc cách mạng công nghiệp đã đưa nước này thành một
quốc gia thịnh vượng, có các nguồn vốn lớn dành cho đầu tư trong khi các
nước láng giềng châu Âu và châu Mỹ lại đang rất cần vốn. Vì vậy, các nước
thiếu vốn đã phát hành rất nhiều công cụ nợ với lãi suất hấp dẫn nhằm thu hút
vốn cho quá trình đầu tư ra nước ngoài, nhưng việc đầu tư này rất khó khăn
do việc thiếu các thông tin và kiến thức về môi trường đầu tư bên ngoài.
Trước tình hình này, một số nhà đầu tư đã lập ra quỹ đầu tư và thuê các
chuyên gia hiểu biết về môi trường nước ngoài đứng ra quản lý. Đây chính là
hình thái ban đầu của các quỹ đầu tư phổ biến hiện nay.
Những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 19, các quỹ tín thác kiểu Hà Lan

được lập ra ở Anh và Scotland. Hiệp hội tài chính Luân đôn ( London
Financial Association ) và Tập đoàn tài chính quốc tê ( International Financial
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

8
Society ) thành lập năm 1963 được coi là những quỹ tín thác đầu tiên của
Anh. Tiếp sau đó là Quỹ tín thác đầu tư Thuộc địa và Ngoại quốc ( The
Foreign and Colonial Investment Trust) thành lập năm 1868 ở Luân đôn, Quỹ
đầu tư Canada và Anh (Britist and Canadian Fund) thành lập năm 1880. Các
thương gia của Anh và Scotland ngày đó muốn tìm kiếm nhiều lợi nhuận hơn
nên đã đem các khoản tiền đầu tư của mình ra nước ngoài, đặc biệt là đầu tư
vào các chứng khoán của Mỹ với tỷ suất lợi nhuận cao hơn nhiều. Từ năm
1900 đến 1914, một lượng tiền khổng lồ của Anh đã đổ vào Mỹ , chủ yếu là
vào lĩnh vực đường sắt và năng lượng.
Các quỹ tín thác của Anh chính là hình mẫu cho các quỹ tín thác được
thành lập tại Mỹ sau này. Quỹ tín thác bất động sản cá nhân Boston ( The
Boston Personal Property Trust), một quỹ đóng đầu tiên được thành lập ở Mỹ
vào năm 1893. Quỹ đầu tư chứng khoán ngành đường sắt và năng lượng (
The Railway and Light Securities Fund) là quỹ đóng đầu tiên của Mỹ áp dụng
các quỹ cho vay làm đòn bẩy để thâu tóm chứng khoán đã ra đời năm 1904.
Đến những năm 1920, mô hình quỹ tín thác đầu tư bùng nổ và đến năm 1929,
ở Mỹ đã có hơn 700 quỹ đầu tư khác nhau. Cho đến nay, người ta vẫn có thể
tìm thấy một số quỹ đầu tư lâu đời nhất còn đang hoạt động như General
American Investors hình thành từ hai công ty đầu tư là Lehman Brother và
Lazard Frères thành lập ngày 25 tháng 1 năm 1927.
Sự bùng phát các quỹ đầu tư đã bị ngăn lại bởi cuộc Đại suy thoái 1929
– 1933. Mãi cho đến sau đại chiến thế giới II, các quý mới được khôi phục và
bắt đầu phát triển thành một ngành kinh doanh giàu mạnh như hiện nay.Sau
thế chiến II, giá cổ phiếu tăng mạnh đồng thời người Mỹ không ngừng đầu tư

vào thị trường cổ phiếu. Hơn nữa, chính phủ Mỹ cũng dần hoàn thiện hệ
thống luật khung pháp lý về quỹ làm cho các quỹ đầu tư chứng khoán hoạt
động lành mạnh hơn. Hai dự luật làm cơ sở căn bản nhất cho hoạt động chứng
khoán là Luật chứng khoán ban hành năm 1933 và Luật về Sở giao dịch
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

9
chứng khoán năm 1934. Cũng ngay sau đó, Uỷ ban chứng khoán Mỹ
(Securities Exchange Committee  SEC) đã bắt đầu nghiên cứu và rút ra
những bài học kinh nghiệm từ cuộc Đại suy thoái, soạn thảo và cho ra đời
Luật công ty đầu tư ( Investment Company Act) năm 1940. Từ đó trở đi, các
quỹ bắt đầu ra đời hoặc được tái lập nhằm đáp ứng các quy định của luật này.
Đến năm 1995, luật này lại được sửa đổi và hoàn thiện nhằm đảm bảo an toàn
hơn nữa cho các nhà đầu tư, đồng thời cho phép các quỹ được áp dụng các
nghiệp vụ đầu tư mới nhất. Theo Viện công ty đầu tư (Investment Company
Institute – ICI), tổng giá trị tài sản ròng của các quỹ đã tăng từ 448 triệu USD
năm 1940 lên 1065 tỷ USD vào năm 1990. Chỉ tính trong thập kỷ 1980, tài
sản của các quỹ đã tăng lên 10 lần. Điều này có được là do các chuyên gia
quản lý quy đầu tư đã không ngừng cải tiến và nâng cao dịch vụ cũng như tạo
ra các dịch vụ mới đáp ứng được nhu cầu của đông đảo các nhà đầu tư.
Ở châu Á, ngay từ năm 1937 ở Nhật Bản đã xuất hiện một số quỹ
tương tự như quỹ đầu tư. Đó là một tổ chức do một số nhà đầu tư thành lập
nên để lợi dụng các dịch vụ đầu tư do công ty chứng khoán cung cấp. Đây
chính là mầm mống đầu tiên cho sự xuất hiện các quỹ đầu tư ở Nhật Bản sau
này. Năm 1941, một mô hình mới được xây dựng ở Nhật Bản đáp ứng tiêu
chuẩn cho quỹ đầu tư chứng khoán. Trong năm tiếp đó, 6 công ty chứng
khoán đã thành lập các quỹ đầu tư chứng khoán riêng và mỗi công ty chứng
khoán này đều có một công ty thực hiện việc bảo quản và giám sát tài sản của
mình. Hoạt động của các quỹ này đặt dưới sự điều chỉnh của các luật là Luật

Tín thác (Trust Law), và Luật kinh doanh tín thác ( Trust Business Law).
Tính đến tháng 4 năm 1996, Nhật Bản đã có 16 công ty quản lý trực thuộc
công ty chứng khoán trong nước, 9 công ty quản lý trực thuộc công ty tư vấn
đầu tư trong nước , 11 công ty quản lý trực thuộc công ty nước ngoài được
phép hoạt động theo Luật tín thác đầu tư chứng khoán với số vốn của các
công ty thường từ 100 triệu yên đến 15 tỷ yên.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

10
Không chỉ có ở các nước có nền tài chính phát triển lâu đời như Anh,
Mỹ, Nhật Bản…quỹ đầu tư chứng khoán còn giữ một vị trí quan trọng trên
các TTCK mới nổi.Việc phát triển quỹ đầu tư chứng khoán ở các TTCK mới
nổi bắt nguồn từ nhu cầu của những nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt, đòi
hỏi phải cải thiện khả năng thanh toán và trợ giúp phát triển cơ sở hạ tầng.
Điều này hơi khác biệt so với nguồn gốc hình thành quỹ đầu tư ở các TTCK
phát triển, nơi mà quỹ đầu tư hình thành trên một TTCK phát triển cao, quỹ
đầu tư là một phương thức đầu tư hiện đại, làm tăng hiệu quả hoạt động của
TTCK. Tuy vậy, các quỹ đầu tư này cũng đã đạt được một số thành công nhất
định. Theo Công ty tài chính quốc tế ( International Financial Corporation –
IFC) tính đến tháng 12 năm 1998 có hơn 1800 quỹ đầu tư đang hoạt động tại
các TTCK mới nổi, với lượng vốn khoảng 300 tỷ USD, trong đó, riêng ở
Đông Nam Á, lượng vốn đã tăng từ 100 triệu USD vào năm 1985 lên khoảng
5 tỷ USD vào cuối năm 1998.
Tóm lại, hoạt động của các quỹ đầu tư phát triển không ngừng, mở
rộng trên tất cả các TTCK thế giới. Nắm trong tay một lượng vốn khổng lồ,
các quỹ đầu tư ngày càng chứng tỏ vai trò của mình  một định chế tài chính
trung gian quan trọng đáp ứng nhu cầu của người đầu tư và người nhận đầu tư
cũng như của cả nền kinh tế. Thực tế đã chứng tỏ vai trò tích cực của quỹ đầu
tư trong TTCK. Tổng giá trị tài sản của các quỹ đầu tư ngày càng tăng lên.

Đến năm 1999, tổng tài sản của các quỹ mở đạt 6846,3 tỷ USD trong đó có
những quỹ khổng lồ nắm trong tay hàng chục tỷ USD như Magelan của
Fidelity ( 64 tỷ USD), Investment Company of American ( 40 tỷ USD), Janus
Growth Fund (20 tỷ USD)
Việt Nam ngay từ TTCK ra đời đến nay, Nghị định 48 ngày 11/7/1998
về Chứng khoán và TTCK và Nghị định 144 ngày 28/11/2003 thay thế Nghị
định 48/1998/NĐ – CP cũng coi mô hình quỹ đầu tư chứng khoán là một bộ
phận không thể thi. Quyết định số 05/1998/ QĐ – UBCK ngày 13 tháng 10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

11
năm 1998 về Quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư và Công ty quản
lý quỹ cũng nêu rõ những quy định về tổ chức và hoạt động của quỹ đầu tư
chứng khoán nhằm phát triển quỹ đầu tư chơ TTCK Việt Nam.
Vậy, quỹ đầu tư chứng khoán là gì? Dưới đây, ta sẽ tìm hiểu về Quỹ
đầu tư chứng khoán  một định chế tài chính trung gian quan trọng của
TTCK.
1.2.1.1. Lý do hình thành Quỹ đầu tư chứng khoán
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu đầu tư, Quỹ đầu tư chứng khoán được
hình thành nhằm cung cấp cho các nhà đầu tư cá nhân những danh mục đầu
tư trọn gói, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ tham gia TTCK. Đầu tư
vào TTCK là đầu tư vào các chứng khoán, là đầu tư vào tương lai của tổ chức
phát hành, hay đầu tư vào khả năng sinh lãi, vào tiềm năng và sự phát triển
bền vững của công ty. Tuy nhiên, các công ty lại luôn phải đối mặt với hàng
loạt rủi ro nảy sinh từ hoạt động kinh doanh của mình. Cho nên nếu đầu tư hết
số tiền của mình vào một công ty mà mình cho là có tiềm năng phát triển thì
mức độ rủi ro rất cao vì khi công ty mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản,
bạn có thể mất toàn bộ số tiền đã đầu tư. Do vậy, các nhà đầu tư muốn giảm
thiểu rủi ro chỉ có thể thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Ban đầu

trên TTCK, các cá nhân có vốn nhỏ, các cá nhân giàu có và các tổ chức đều
tham gia thị trường. Song cùng với một mức thu nhập như nhau, mức độ rủi
ro tiềm tàng của thu nhập đối với các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ bao giờ cũng
cao hơn nhiều so với những nhà đầu tư giàu có và các tổ chức bởi vì với số
vốn lớn gấp nhiều lần số vốn của các cá nhân nhỏ, các nhà đầu tư giàu có và
các tổ chức có được lợi thế về quy mô vốn nên đa dạng hoá được danh mục
đầu tư, dẫn tới có thể giảm thiểu rủi ro về thu nhập. Vì lẽ đó, cần có những tổ
chức đứng ra tập hợp nguồn vốn của các cá nhân nhỏ lẻ tạo thành một khoản
vốn lớn để đầu tư một cách chuyên nghiệp trên TTCK. Quỹ đầu tư chứng
khoán ra đời. Quỹ đầu tư chứng khoán hình thành đã giúp tăng khả năng tham
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

12
gia của các cá nhân trên TTCK. Ngay bản thân các cá nhân giàu có, ngoài
việc đầu tư trực tiếp trên thị trường, cũng có thể tham gia đầu tư thông qua
Quỹ nhằm tận dụng những lợi thế về sự chuyên nghiệp trong phân tích và đầu
tư của các Quỹ.
Thứ hai, đầu tư thông qua Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ hạn chế rủi ro
và đa dạng hoá đầu tư. Có thể thấy rằng, đầu tư vào TTCK mang tính rủi ro
cao. Rủi ro trong đầu tư chứng khoán được hiểu là sự biến động của thu nhập
trên đầu tư. Theo các thuyết trước đây, rủi ro là những yếu tố làm giảm mức
sinh lời so với dự tính ban đầu. Tuy nhiên, theo quan niệm hiện nay, rủi ro là
sự dao động của mức sinh lời, kể cả dao động tăng hay giảm so với mức sinh
lời dự kiến. Do vậy, những tài sản mang lại thu nhập ổn định được coi là có
rủi ro thấp, ngược lại, những tài sản có thu nhập biến động thất thường qua
các năm được coi là có mức rủi ro cao. Người ta dùng độ lệch chuẩn để đo
lường mức độ rủi ro của tài sản. Các số liệu lịch sử TTCK Mỹ trong vòng hơn
70 năm từ 1926 đến 1998 cho thấy ngoài tín phiếu kho bạc là tài sản phi rủi ro
thì tất cả các loại chứng khoán trên thị trường, kể cả trái phiếu Chính phủ dài

hạn ( mức bù đắp rủi ro là 1,9%) đều có rủi ro ở các mức độ khác nhau. Tài
sản có độ rủi ro cao nhất là cổ phiếu của các công ty nhỏ, tiếp theo là cổ phiếu
của các công ty lớn, trái phiếu công ty lớn, và thấp nhất là trái phiếu chính
phủ dài hạn.
Nhằm hạn chế rủi ro khi đầu tư vào TTCK, các lý thuyết kinh tế hiện
đại đã đưa ra các phân tích mức độ rủi ro, và tìm cách quản lý rủi ro. Theo lý
thuyết đầu tư hiện đại, dao động của giá và thu nhập từ chứng khoán là các
yếu tố cấu thành rủi ro. Rủi ro của mỗi loại chứng khoán luôn bao gồm hai bộ
phận là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống. Rủi ro hệ thống hay rủi ro đặc
thù, rủi ro chung là những rủi ro có tính chất phổ biến, nằm ngoài sự kiểm
soát của công ty, có ảnh hưởng và gây tác động đến toàn bộ thị trường và các
loại chứng khoán trên thị trường. Rủi ro này không thể tránh khỏi khi đầu tư
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

13
vào TTCK. Ngược lại, rủi ro phi hệ thống hay còn gọi là rủi ro có thể đa dạng
hoá là những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, và chỉ gây tác động đến một
chứng khoán, một nhóm chứng khoán hay một ngành nhất định. Lý thuyết
đầu tư hiện đại đã khẳng định rủi ro này có thể được loại trừ bằng cách đa
dạng hoá đầu tư theo danh mục.
Bảng 1 cho thấy độ lệch chuẩn của thu nhập chuyển động cùng chiều
với số cổ phiếu trrong danh mục. Khi số tài sản của danh mục tăng lên đến
một mức độ nào đó thì rủi ro của danh mục tiến đến bằng rủi ro hệ thống.
Nghĩa là trên thị trường chỉ có rủi ro hệ thống được đền bù bằng mức độ thu
nhập cao, còn rủi ro phi hệ thống đã được loại trừ bằng việc đa dạng hoá.
Điều đó cũng có nghĩa, nếu một nhà đầu tư chỉ có một số vốn nhỏ, anh ta sẽ
không thể đa dạng hoá hoàn toàn danh mục đầu tư, và sẽ phải chịu rủi ro cao
hơn so với mức thu nhập có được từ đầu tư.
Bảng 1: Quy mô danh mục đầu tư và độ lệch tiêu chuẩn của thu nhập

trên danh mục đầu tư vào cổ phiếu của công ty lớn
Số cổ phiếu
trong danh mục
Độ lệch chuẩn bình quân của
thu nhập danh mục hàng
năm
Tỷ lệ độ lệch chuẩn so với
đầu tư vào một loại cổ
phiếu
1
49,24
1,0000
10
23,93
0,4860
50
20,20
0,4102
100
19,69
0,3999
300
19,34
0,3928
500
19,27
0,3913
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B


14
1000
19,21
0,3901
Nguồn : Fundamentals of Corporate Finance, Irwin McGraw – Hill, The
United States of American, tr. 394
Như vậy, có thể thấy rằng: đầu tư vào TTCK sẽ luôn có rủi ro song rủi
ro này có thể kiểm soát và bù đắp được bằng cách đa dạng hoá danh mục và
thông qua thu nhập. Đa dạng hoá đóng vai trò quan trọng trong việc loại trừ
rủi ro phi hệ thống, và thu nhập chính là phần bù đắp cho rủi ro hệ thống mà
nhà đầu tư phải gánh chịu. Vậy, ngoài những nhà đầu tư có vốn đủ lớn để có
thể đa dạng hoá danh mục đầu tư, các nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ làm thế nào
để thực hiện được điều này? Các Quỹ đầu tư chứng khoán sẽ giúp họ làm
được điều đó.
Thứ ba, đối với những TTCK mới phát triển, sự xuất hiện các Quỹ đầu
tư chứng khoán sẽ góp phần hoàn thiện cấu trúc và hoạt động của TTCK. Khi
TTCK mới phát triển, một mặt, hàng hoá trên thị trường chưa nhiều, mặt
khác, mức độ hiểu biết của đông đảo quần chúng về TTCK chưa cao dẫn đến
tâm lý e ngại đầu tư làm cho các giao dịch trên thị trường còn manh mún, nhỏ
bé và chưa có tính chuyên nghiệp cao. Quỹ đầu tư là một chủ thể tham gia
trên thị trường vừa đóng vai trò là nhà phát hành, vừa là nhà đầu tư có tổ chức
sẽ góp phần làm tăng và đa dạng hoá các loại hàng hoá trên thị trường đồng
thời với trình độ đầu tư chuyên nghiệp, Quỹ sẽ giúp các nhà đầu tư nhỏ lẻ có
thể yên tâm tham gia thị trường với mức chi phí và rủi ro thấp. Từ đó, góp
phần thúc đẩy thị trường hoạt động sôi động và hiệu quả hơn.
Như vậy, thông qua việc quản lý chuyên nghiệp nhằm đem lại cho nhà
đầu tư mức thu nhập hợp lý và giảm thiểu rủi ro nhờ đa dạng hoá danh mục
đầu tư, Quỹ đầu tư đã đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư đồng thời đóng góp
một phần quan trọng vào sự phát triển của TTCK.
1.2.1.2. Khái niệm và phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

15
1.2.1.2.1. Khái niệm Quỹ đầu tư chứng khoán
Quỹ đầu tư chứng khoán(dưới đây gọi tắt là quỹ) là loại Quỹ đầu tư mà
người ta sử dụng số tiền có được để đầu tư vào TTCK. Bản thân từ “ Quỹ đầu
tư” cũng đã thể hiện một tập hợp các khoản tiền được góp lại để phục vụ đầu
tư vào một cái gì đó, mà ở đây, Quỹ đầu tư chứng khoán là nhằm mục đích
đầu tư chủ yếu vào các loại chứng khoán.
“Quỹ đầu tư” – cách gọi tắt của Quỹ đầu tư tập thể  là một phần quan
trọng của bất kỳ một TTCK nào, có rất nhiều cách hiểu khác nhau.
Các Quỹ đầu tư tại Mỹ được định nghĩa là các tổ chức tài chính phi
ngân hàng thu nhận tiền tư một số lượng lớn các nhà đầu tư và tiền hành đầu
tư số vốn đó các tài sản tài chính có tính thanh khoản dưới dạng tiền tệ và các
công cụ của thị trường tài chính.
Quỹ đầu tư tại Nhật được coi là một sản phẩm được hình thành nhằm
đầu tư số tiền tập hợp được từ một số lớn các nhà đầu tư vào chứng khoán (cổ
phiếu và trái phiếu ), tập trung dưới sự quản lý của những người không phải
là nhà đầu tư và phân phối lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư cho các
nhà đầu tư theo tỷ lệ vốn mà họ đóng góp vào Quỹ.
Còn theo định nghĩa của Trung Quốc, Quỹ đầu tư tập thể là phương
pháp đầu tư tập thể vào chứng khoán, chủ yếu bằng việc thu hút vốn của
người đầu tư thông qua phát hành các đơn vị quỹ. Vốn được uỷ thác cho các
tổ chức giám sát quỹ và được những người điều hành quỹ quản lý và đầu tư
vào các công cụ tài chính như cổ phiếu và trái phiếu.
Từ các định nghĩa trên, có thể rút ra khái niệm chung nhất, thể hiện bản
chất hoạt động của Quỹ đầu tư tập thể :” Quỹ đầu tư tập thể là một phương
tiện đầu tư tập thể, là một tập hợp tiền của các nhà đầu tư có cùng mục
đích, được uỷ thác cho các nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp tiến hành

đầu tư để đạt được những mục tiêu của những người tham gia góp vốn”.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

16
Như vậy, Quỹ đầu tư chứng khoán chính là một định chế tài chính
trung gian, tập hợp các nhà đầu tư riêng lẻ cùng đóng góp vốn vào Quỹ
chung, và Quỹ này được các nhà đầu tư chuyên nghiệp đại diện cho các nhà
đầu tư sử dụng để đầu tư vào chứng khoán theo chính sách đầu tư của Quỹ.
Việt Nam, theo quy chế tổ chức và hoạt động của Quỹ đầu tư chứng
khoán và Công ty quản lý quỹ ban hành kèm theo Quyết định số 05/ 1998/QĐ
– UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước thì
“ Quỹ đầu tư chứng khoán (gọi tắt là Quỹ) là quỹ hình thành từ vốn góp
của người đầu tư, được uỷ thác cho công ty quản lý quản lý và đầu tư
vào chứng khoán tối thiểu là 60% giá trị tài sản của quỹ”.
Có thể thấy rõ là đầu tư thông qua Quỹ đầu tư là hình thức nhà đầu tư
không trực tiếp mang số tiền của mình mua chứng khoán, mà họ cùng góp
tiền vào quỹ tạo thành một số tiền lớn để đầu tư tập thể. Những người đầu tư
vào quỹ có thể là thể nhân hay pháp nhân, nhưng phần lớn là những nhà đầu
tư riêng lẻ, ít am hiểu và không chuyên nghiệp về TTCK. Do vậy hoạt động
của quỹ đầu tư mang tính xã hội hoá rất cao.
Những người đóng tiền vào quỹ chấp nhận các rủi ro cũng như được
hưởng các lợi ích mà quỹ mang lại tương ứng với tỷ lệ vốn góp. Do vậy, ưu
thế của quỹ là không bị hạn chế bởi vốn của một chủ thể và rủi ro cũng được
chia sẻ cho nhiều người. Rủi ro này của quỹ phụ thuộc vào các loại hình tài
sản đầu tư mà quỹ lựa chọn.
Một nét đặc trưng tạo nên sự khác biệt giữa Quỹ với các chủ thể tham
gia thị trường là ở chỗ: Quỹ vừa là tổ chức phát hành chứng khoán, lại vừa là
tổ chức kinh doanh chứng khoán. Qua việc phát hành (cổ phiếu hay chứng chỉ
Quỹ đầu tư) quỹ thu được số tiền khá lớn rồi đầu tư số tiền này vào các loại

chứng khoán. Lợi nhuận thu được từ việc đầu tư sẽ chia cho các nhà đầu tư
nắm giữ cổ phần của quỹ. Nói chung, quỹ chủ yếu thu lợi từ hoạt động đầu tư
chứ không phải nhằm thu lãi hàng tháng.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

17
Quỹ được quản lý bởi các công ty quản lý quỹ  một tổ chức đầu tư
chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao về phân tích và đầu tư chứng
khoán. Tài sản của quỹ được bảo quản và giám sát bởi các tổ chức có nghiệp
vụ chuyên môn, thường là các ngân hàng.
Tóm lại, trên TTCK có sự tham gia của rất nhiều loại trung gian tài
chính khác nhau như ngân hàng, các công ty tài chính, công ty chứng khoán,
các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư và phát triển đô thị…nhưng các tổ chức này đều
không thực sự huy động vốn một cách rộng rãi từ các cá nhân và tổ chức trên
thị trường đồng thời phát hành ra chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu, hay nói cách
khác các quỹ này không tạo ra cung cầu trên TTCK. Chỉ các quỹ đầu tư
chứng khoán mới thực sự huy động vốn từ công chúng đầu tư và dành đa số
vốn huy động được đầu tư vào các loại chứng khoán. Do đó, cần thiết phải
phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán nhằm tăng cường sự hoạt động và phát
triển của TTCK.
1.2.1.2.2. Phân loại Quỹ đầu tư chứng khoán
Kể từ khi quỹ đầu tư chứng khoán đầu tiên xuất hiện cho đến nay, đã
có rất nhiều loại hình quỹ đầu tư ra đời và đi vào hoạt động. Các quỹ này
được được phân loại theo một số tiêu thức như tính chất và cách thức huy
động vốn, thông qua mục tiêu đầu tư, dựa vào các chủ thể tham gia, hay qua
mô hình quản lý của quỹ.
a. Phân loại theo chủ thể tham gia
Căn cứ vào chủ thể tham gia, người ta chia thành quỹ đầu tư chứng
khoán tư nhân và quỹ đầu tư chứng khoán tập thể.

Quỹ đầu tư chứng khoán tư nhân là loại hình quỹ đầu tư chứng
khoán do một số tổ chức và cá nhân góp vốn rồi thuê công ty quản lý quỹ
nhằm mục đích đầu tư vốn của mình một cách có lợi nhất nhưng vẫn đảm bảo
quản lý chặt chẽ vốn đầu tư.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

18
Do việc huy động vốn của quỹ chỉ hạn chế trong một số tổ chức và cá
nhân nên họ có thể đầu tư vào những dự án dài hạn, tiềm năng tăng trưởng
cao và mức độ rủi ro lớn. Các quỹ này thường đầu tư vào những chứng khoán
của những công ty chưa niêm yết hay góp cổ phần vào công ty trách nhiệm
hữu hạn. Khi những công ty này phát triển đến một mức độ nhất định, họ có
thể thu hồi vốn bằng cách bán lại phần vốn góp hoặc những chứng khoán mà
mình đang nắm giữ.
Quỹ đầu tư chứng khoán tập thể là những quỹ đầu tư chứng khoán
mà chứng chỉ góp vốn được mua bán rộng rãi trên thị trường. Ở loại hình này,
do số lượng người góp vốn rất nhiều và phần lớn là các cá nhân, những người
không có kiến thức chuyên sau về đầu tư nên luật pháp 1 tư.
b. Phân loại theo cách thức huy động vốn
Theo cách thức huy động vốn, quỹ đầu tư chứng khoán được chia
thành quỹ đầu tư chứng khoán đóng (closed – end fund) và quỹ đầu tư chứng
khoán mở (open – end fund).
Quỹ đầu tư chứng khoán đóng ( còn gọi là Quỹ đóng ) là quỹ đầu tư
chứng khoán có số lượng cổ phiếu hay chứng chỉ quỹ đầu tư phát hành cố
định; số lượng chứng chỉ quỹ không thay đổi trong suốt thời gian hoạt động
của quỹ. Quỹ đầu tư chứng khoán đóng mang tính chất giống như một công
ty cổ phần thông thường, người đầu tư không thể bán lại chứng chỉ quỹ cho
quỹ trước thời hạn kết thúc hay giải thể hoạt động của quỹ.
Sau khi phát hành chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiểu của quỹ, các nhà đầu tư

có thể mua bán chứng chỉ quỹ đầu tư trên thị trường cấp hai. Các cổ đông có
thể mua cổ phần từ các cổ đông cũ của quỹ một cách trực tiếp hoặc thông
qua môi giới và phải trả hoa hồng. Giá cổ phần sẽ dao động tuỳ thuộc vào
tình hình hoạt động của quỹ, cung cầu trên thị trường, và thị hiếu của công
chúng. Khi muốn thu hồi vốn, nhà đầu tư có thể bán cổ phiếu hay chứng chỉ
quỹ ra thị trường theo giá thị trường hay giá thoả thuận. Cổ phiếu của quỹ
Chuyờn thc tp tt nghip Phỏt trin Qu u t chng khoỏn Vit Nam
Nguyn Th Võn Anh Th trng chng khoỏn 42B

19
c giao dch trờn th trng th cp nờn lng tin mt ca qu úng
khụng b tỏc ng t nhng hot ng mua bỏn, rỳt vn hng ngy. Vi c
im ny, qu u t úng giỳp ngi qun lý trỏnh c cỏc nguy c e do
t vic rỳt vn ca cỏc nh u t.
Tuy nhiên, quỹ đầu t dạng đóng có một nhợc điểm cơ bản là hầu nh
chúng thờng giao dịch với giá chiết khấu tức là thị giá thấp hơn giá trị tài sản
ròng của quỹ. Hiện tợng giá chiết khấu của quỹ dạng đóng đợc coi là một
điều gì đó tơng đối bí ẩn bởi vì hiện nay vần cha có một sự giải thích nào
mang tính thuyết phục hoàn toàn về sự tồn tại đó mặc dù đã có nhiều công
trình nghiên cứu về vấn đề này. Không một phơng trình toán học nào có thể
giải thích chính xác mức chiết khấu cũng nh mức trên giá trị của một quỹ.
Có một số nguyên nhân có thể đa ra xem xét để giúp cho việc giải thích sự
chênh lệch giữa mức chiết khấu và mức trên giá trị giữa các quỹ khác nhau
cũng nh của các quỹ trong các điều kiện thị trờng khác nhau nh: quỹ đầu
t dạng đóng đợc coi là rủi ro hơn so với các quỹ mở vì ngời đầu t không
thể bán lại cổ phiếu hay chứng chỉ đầu t tại mức giá trị tài sản ròng, quỹ hoạt
động kém hiệu quả, chi phí cao, mức độ đa dạng hoá của các quỹ ít
Qu u t chng khoỏn m (Qu m) l qu u t chng khoỏn
liờn tc phỏt hnh chng ch qu ra cụng chỳng v thc hin vic mua li cỏc
c phiu/ chng ch u t khi nh u t cú nhu cu thu hi vn. Qu m l

dng qu ph bin nht hin nay ca cỏc qu u t trờn th gii. c im
quan trng i vi qu u t dng m l giỏ ca chng ch qu luụn gn trc
tip vi giỏ tr ti sn rũng ca qu. Qu cho phộp cỏc nh u t bỏn li
chng ch qu bt c lỳc no trong mt thi hn nht nh theo giỏ tr ti sn
rũng (Net Asset Value) ch khụng theo giỏ th trng. Cỏc giao dch, mua
bỏn c thc hin trc tip gia nh u t vi qu hoc vi cỏc i lý c
y quyn ca qu ch khụng qua s giao dch.
Khỏc vi cỏc qu u t chng khoỏn úng, qu dng m cú c cu
vn luụn bin ng do cỏc lng tin vo ra liờn tc t vic cho bỏn mi v
vic mua li chng ch qu. Vỡ vy, cỏc nh iu hnh qu luụn phi la chn
danh mc vi cỏc sn phm cú tớnh thanh khon cao ng i cỏc thay i
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

20
liên tục về nguồn vốn. Nếu thời kỳ thị trường lên cao có nhiều nhà đầu tư đổ
tiền vào quỹ thì các nhà quản lý quỹ sẽ phải dành một khoản đáng kể để đầu
tư vào các chứng khoán có mức lợi tức không lấy gì làm hấp dẫn chỉ cần có
tính thanh khoản cao. Đặc điểm này tuy bất lợi đối với các nhà quản lý của
quỹ mở lại nhưng lại là điểm hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, là ưu điểm của
quỹ trong việc thu hút công chúng đầu tư vào quỹ. Trong rất nhiều trường
hợp, tính thanh khoản của chứng chỉ quỹ còn cao hơn cả cổ phiếu thường
khác. Một khối lượng tiền lớn được đầu tư hoặc để mua lại chứng chỉ của nhà
đầu tư tại mức NAV tính hàng ngày cộng thêm chi phí bán hoặc giảm trừ chi
phí mua lại. Hơn nữa, vốn có thể được di chuyển linh hoạt và hiệu quả giữa
các quỹ có mục tiêu đầu tư khác nhau với chi phí rất nhỏ. Tuy vậy, không
phải quỹ dạng mở mua lại chứng chỉ quỹ từ các nhà đầu tư vào bất cứ lúc
nào, mà bao giờ quỹ cũng quy định một thời gian tối thiểu để thực hiện việc
mua lại. Thời gian dài ngắn phụ thuộc vào quy định của từng TTCK cũng như
tùy thuộc mục tiêu hoạt động của từng quỹ. Trong điều kiện thị trường có

nhiều biến động, thời gian thực hiện mua lại càng dài thì rủi ro của nhà đầu tư
càng lớn.
Từ đây, có thể thấy quỹ đầu tư chứng khoán đóng và quỹ đầu tư chứng
khoản mở có nhiều điểm khác biệt nhau:
Bảng : So sánh quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở
Tiêu chí so
sánh
Quỹ dạng đóng
Quỹ dạng mở
Loại chứng
khoán
cổ phiếu thường/chứng chỉ quỹ,
cổ phiếu ưu đãi, trái phiếu
cổ phiếu thường/chứng chỉ
quỹ
Số lượng
chứng khoán
lưu hành
Cố định
Luôn thay đổi
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

21
Số lần chào
bán và mua lại
Một lần
Liên tục
Nơi giao dịch
chứng chỉ quỹ

TTCK tập trung và thị trường
OTC
Mua trực tiếp tại quỹ thông
qua công ty quản lý quỹ
hoặc thông qua các đại lý
được quỹ ủy quyền
Giá mua
chứng chỉ quỹ
Do cung cầu trên thị trường xác
định
Giá mua = NAV + phí giao
dịch
Bảng : So sánh ưu nhược điểm của từng quỹ:
Quỹ dạng đóng
Quỹ dạng mở
Ưu
điểm
Ít chịu áp lực đầu tư khi nhận thấy chưa
nên đầu tư.
Không cần phải bán tài sản để trả lại vốn
cho người đầu tư khi thị trường đi xuống
Có khả năng huy động, mở
rộng quy mô vốn nên rất
linh hoạt trong việc lựa
chọn các dự án đầu tư.
Nhược
điểm
Hoạt động khá phức tạp so với hiểu biết
chung của người đầu tư.
Khó huy động vốn vì hoàn toàn phụ thuộc

vào uy tín của nhà phát hành.
Chịu áp lực lớn từ ciệc rút
vốn từ công chúng.
c. Căn cứ vào mục tiêu đầu tư
Quỹ đầu tư chứng khoán có nhiều mục tiêu đa dạng và các chính sách
đầu tư khác nhau. Tuy nhiên, các quỹ thường đầu tư vì những mục tiêu cơ
bản sau
 Thu nhập vừa phải –An toàn
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

22
 Thu nhập khá – Rủi ro tương đối
 Thu nhập cao – Rủi ro cao
Căn cứ các mục tiêu trên, quỹ có thể được phân làm 3 loại:
Quỹ tăng trưởng ( Growth fund) : Là những quỹ nhằm đến chứng
khoán của các công ty làm ăn tốt, có tốc độ phát triển và tăng trưởng nhanh.
Thông thường là các công ty công nghệ cao, công ty phần mềm Mục tiêu khi
đầu tư vào các công ty này là sự tăng giá của cổ phiếu chứ không phải là thu
nhập từ cổ tức.
Quỹ tăng trưởng – thu nhập (Growth – income fund): đầu tư chủ
yếu vào các chứng khoán có giá cao đồng thời có mức lợi tức ổn định như các
cổ phiếu thường. Những quỹ này mong muốn đạt được cả hai yếu tố là vốn
trong dài hạn và dòng thu nhập ổn định trong ngắn hạn.
Quỹ thu nhập ( Income fund): mục tiêu của những quỹ này là thu
nhập ổn định. Do vậy, các quỹ này thường đầu tư vào các chứng khoán có thu
nhập ổn định như trái phiếu chính phủ, trái phiếu công ty và cổ phiếu ưu đãi.
b. Căn cứ vào đối tượng đầu tư
Quỹ đầu tư chứng khoán còn được phân loại căn cứ vào đặc trưng của
chứng khoán mà nó sở hữu chủ yếu như:

 Quỹ đầu tư cổ phiếu
 Quỹ đầu tư trái phiếu
 Quỹ thị trường tiền tệ
 Quỹ đầu tư hỗn hợp
Quỹ đầu tư cổ phiếu: là quỹ mà phần lớn tài sản của nó là cổ phiếu,
còn phần còn lại là đầu tư vào các công cụ có tính an toàn hơn như các loại
trái phiếu. cổ tức thường được trả mỗi năm một lần, vào thời điểm kết toán tài
khoản, từ cổ tức mà quỹ thu được và các khoản thu nhập khác của quỹ. Khi
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

23
hết thời hạn hoạt động, toàn bộ tài sản của quỹ sẽ được thanh toán và hoàn trả
cho người đầu tư.
Các quỹ đầu tư cổ phiếu có thể có các loại hình cụ thể :
Quỹ đầu tư lựa chọn vốn(Capital Selection Fund): Quỹ này lựa chọn
theo quy mô vốn của công ty để đầu tư vào cổ phiếu, bao gồm:
1. Quỹ cổ phiếu hạng nhỏ (Small – cap stock fund): quỹ này luôn tìm
mua cổ phiếu của các công ty có quy mô nhỏ. Cổ phiếu của những công ty
này có độ rủi ro cao và ít khi được trả cổ tức. Tuy nhiên, các quỹ này đầu tư
vì mục tiêu lâu dài là sự mở rộng và tăng trưởng của những công ty này trong
tương lai.
2. Quỹ cổ phiếu hạng trung ( middle – cap stock fund): là các quỹ
hướng vào cổ phiếu của các công ty có lượng cổ phần trung bình nhưng có
tiềm năng tăng trưởng cao và mức độ biến động giá cổ phiếu của các công ty
này hơn của các công ty có quy mô nhỏ.
3. Quỹ cổ phiếu hạng lớn ( large – cap stock fund): là các quỹ có
nguồn vốn lớn, luôn tìm mua cổ phần của các công ty có quy mô lớn như
IBM, UNILEVER với giá cổ phiếu tương đối ổn định và lợi tức cao.
Quỹ đầu tư lựa chọn ngành(Industrial Selection Fund): là những quỹ

đầu tư chứng khoán chỉ chọn một số ngành nhất định như viễn thông, công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học để đầu tư. Việc chỉ đầu tư vào một số
ngành nhất định dẫn đến khả năng xảy ra rủi ro cao hơn nhưng đồng thời
cũng mang lại lợi nhuận cao. Các quỹ đầu tư theo chiến lược chọn ngành
thường phải có các chuyên gia phân tích giỏi, dự đoán tình hình chính xác và
biết nắm thời cơ.
Quỹ đầu tư chỉ số(Index Fund): là quỹ sở hữu tất cả các chứng khoán
có trong danh mục của một loại chỉ số nào đó và phân chia tỷ trọng nắm giữ
các loại chứng khoán tương đồng với chỉ số cổ phiếu đó. Ví dụ quỹ chỉ số S
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

24
& P 500
Quỹ quyền chọn (Option Fund) Các quỹ này tập trung vào mục tiêu lợi
nhuận cao bằng cách đầu tư chủ yếu vào các cổ phiếu thường có trả cổ tức mà
có thể giao dịch bằng quyền chọn trên sở giao dịch chứng khoán. Lợi nhuận
của quỹ thu được tư cổ tức, phí hoa hồng khi viết quyền chọn, chênh lệch khi
bán cổ phiếu của danh mục đầu tư hay khi kết thúc hợp đồng quyền chọn.
Quỹ đầu tư trái phiếu chuyển đổi ( Convertible Bond Fund): là những
quỹ tập trung vốn vào mua cổ phần thông qua việc chuyển đổỉ trái phiếu. khi
đầu tư vào loại chứng khoán này, các chuyên gia phân tích phải tính được
lượng tiền chuyển đổi dang cổ phiếu là bao nhiêu phần trăm so với lượng vốn
bỏ ra.
Quỹ đầu tư trái phiếu: là những quỹ không ưa mạo hiểm và mong đợi
khoản thu nhập cố định. Vì vậy, phần lớn tài sản của quỹ dạng này được đầu
tư vào trái phiếu là chủ yếu. Phần còn lại thì đầu tư vào các chứng khoán
khác. Khoản trái tức nhận được có thể được nhận về hoặc được đưa vào một
quỹ khác gọi là quỹ tái đầu tư lãi.
Quỹ trái phiếu cũng có rất nhiều loại hinh khác nhau:

1. Quỹ trái phiếu công ty (Copration Bond Fund): là một loại hình quỹ
thu nhập. Quỹ này muốn có thu nhập ổn định nên phần lớn danh mục đầu tư
của quỹ sẽ là trái phiếu các tổng công ty lớn, trái phiếu Chính phủ hoặc trái
phiếu công trình.
2. Quỹ trái phiếu Chính phủ( Government Bond Fund): chủ yếu đầu
tư vàp trái phiếu Chính phủ.
3. Quỹ trái phiếu địa phương (Municipal Bond Fund): quỹ này tập
trung đầu tư vào các trái phiếu do nhà nước hoặc địa phương phát hành nhằm
huy động vốn cho xây dựng các công trình cấp Nhà nước hoặc cấp địa
phương như xây dựng đường xá, cầu cống, bệnh viện, trường học Lợi thế
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Phát triển Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam
Nguyễn Thị Vân Anh Thị trường chứng khoán 42B

25
của quỹ này là rủi ro của các trái phiếu loại này hầu như không có vì đều
được nhà nước hoặc địa phương đảm bảo, đồng thời các khoản thu nhập từ
các trái phiếu này thường không phải chịu lãi.
4. Quỹ trái phiếu quốc tế (Global Bond Fund): thường được đầu tư vào
các trái phiếu của chính phủ hoặc trái phiếu công ty nước ngoài.
Quỹ đầu tư hỗn hợp: là quỹ có cơ cấu vốn cho cả cổ phiếu, trái
phiếu, và các chứng khoán phái sinh sao cho trong danh mục vừa có những
chứng khoán có tính an toàn cao, vừa có những chứng khoán có mức sinh lợi
cao. Quỹ đầu tư hốn hợp còn phân loại cụ thể thành:
1. Quỹ đầu tư phân bổ : là quỹ phân bổ vốn vào cả cổ phiếu, trái phiếu
và các công cụ của thị trường tiền tệ.
2. Quỹ đầu tư cân đối: là quỹ đầu tư vào nhiều loại cổ phiếu để đồng
thời thoả mãn các mục tiêu sau: bảo toàn vốn đầu tư ban đầu, mang lại thu
nhập hiện tại ổn định, và có khả năng tăng trưởng lâu dài cả vốn và lãi. Quỹ
này thường có chiến lược phân bổ tài sản dựa trên phần trăm theo tỷ lệ đã
định sẵn.

3. Quỹ đầu tư linh hoạt: là quỹ đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, các
công cụ phái sinh và các công cụ của thị trường tiên tệ mang lại thu nhập cao.
Tỷ trọng đầu tư vào từng loại tài sản có thể thay đổi dựa theo các điều kiện cụ
thể của thị trường.
Quỹ thị trường tiền tệ (Money Market Fund): Là loại quỹ đầu tư vào
các chứng khoán ngắn hạn trên thị trường tiền tệ. Thời hạn của các công cụ
trong danh mục trung bình là khoảng 90 ngày đến một năm. Đây là những
công cụ khá an toàn, ổn định như tín phiếu kho bạc, chứng chỉ tiền gửi của
các ngân hàng, thương phiếu Do đó, quỹ tiền tệ thường ít biến động hơn các
quỹ khác, nó thích hợp cho mục tiêu đầu tư ngắn hạn, lại có thu nhập ổn định.
Để bảo vệ khoản vốn ban đầu của người đầu tư, quỹ tiền tệ phải đáp

×