Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.38 KB, 13 trang )

Mở đầu:
Quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam đã xuất hiện cùng với hoạt động của thị
trường chứng khoan. Nó góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường này và
mang lại nhiều lợi ích cho các nhà đầu tư cũng như doanh nghiệp. Sau đây là các
quy định của pháp luật về việc thành lập và cấp giấy phép hoạt động của quỹ đầu
tư chứng khoán.
1. Khái quát chung về quỹ đầu tư chứng khoán:
1.1 Khái niệm và đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán:
Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ tiền hình thành từ vốn góp của các nhà đầu
tư để đầu tư chủ yếu vào chứng khoán nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Công ti quản lý
quỹ tạo lập quỹ đầu tư chứng khoán bằng cách phát hành chứng chỉ hưởng lợi để
thu hút vốn từ nhiều nhà đầu tư trên thị trường. Tiền của quỹ sau đó sẽ được
công ty quản lý quỹ đêm đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ của thị
trường tiền tệ và các chứng khoán hoặc tài sản khác phù hợp với mục tiêu đầu tư
ghi nhận trong điều lệ của quỹ.
* Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán:
Thứ nhất, bản thân quỹ đầu tư chứng khoán chỉ thể hiện một lượng tiền do
các nhà đầu tư đóng góp chứ không phải là một pháp nhân, không có tổ chức bộ
máy riêng, bì vậy toàn bộ việc huy động vốn thành lập quỹ, quản lý và điều hành
hoạt động của quỹ cho tới việc sử dụng vốn của quỹ để đầu tư, thu lời đều do
công ty quản lý quỹ đảm nhiệm. Đến lượt mình, toàn bộ hoạt động của công ty
quản lý quản lý quỹ lại chịu sự giám sát của một pháp nhân, thường là ngân
hàng, độc lập với quỹ và với công ty quản lý quỹ. Ngân hàng vừa đóng vai trò là
người bảo quản tài sản của quỹ đồng thời vừa là người giám sát toàn bộ hoạt
động của công ty quản lý quỹ để bảo đảm công ty quản lý quỹ tuân thủ pháp luật
và những mục tiêu cũng như chính sách đầu tư đề ra trong điều lệ quỹ.
Thứ hai, chứng khoán được phát hành để huy động vốn thành lập quỹ không
phải là cổ phiều mà chỉ là chứng chỉ hưởng lợi cho phép nhà đầu tư sở hữu
chúng được hưởng một phần thu nhập từ hoạt động đầu tư của quỹ tương ứng
với tỷ lệ vốn mà họ đã đầu tư vào quỹ. Lãi từ hoạt động đầu tư của quỹ, sau khi
bù đắp chi phí quản lý quỹ, sẽ được phân chia cho các nhà đầu tư sở hữu chứng


chỉ quỹ. Giá trị của mỗi chứng chỉ quỹ được xác định hàn ngày và abwngf tổng
giá trị của quỹ chi cho số lượng chứng chỉ quỹ đang lưu hành trên thị trường.
Thứ ba, những người đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán không phải là cổ
đông mà chỉ là cổ đông mà chỉ là những người hưởng lợi từ hoạt động của quỹ;
họ bỏ tiền góp vốn lập quỹ nhưng không trực tiếp quản lý quỹ mà ủy thác toàn
bộ việc quản lý, điều hành quỹ cho công ty quản lý và ngân hàng bảo quản, là
1
những tổ chức có chuyên môn, nghiệp vụ trong lĩnh vực hoạt động này, nhằm tối
đa hóa lợi nhuận có được từ khoản vốn.
1.2. Vai trò của quỹ đầu tư chứng khoán:
Đối với các nhà đầu tư, lợi ích lớn nhất của nguồn vốn đầu tư là đa dạng hóa
đầu tư, phân tán rủi ro. Với quỹ đầu tư chứng khoán, ngay cả khi một cá nhân có
lượng vốn nhỏ vẫn có thể đa dạng hóa đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác
nhau. Từ những lý do trên người đầu tư sở hữu những chứng chỉ đầu tư có tính
thanh khoản cao, có thể rút vốn nhanh chóng bằng việc bán lại các chứng chỉ
trên TTCK.
Đối với nhà quản lý vốn thì thông qua những hoạt động này họ thu được hoa
hồng và những khoản thưởng bởi những nhà quản lý vốn là những người có kiến
thức chuyên môn có trình độ dự đoán và phân tích thông tin cho nên họ được ủy
thác đầu tư.
Đối với nền kinh tế thì quỹ góp phần huy động vốn cho việc phát triển nền
kinh tế nói chung và sự phát triển của thị trường sơ cấp; góp phần ổn định thị
trường thứ cấp và phổ cập đầu tư chứng khoán, phát huy nội lực.
1.3. Phân loại quỹ đầu tư chứng khoán:
Có nhiều loại qũy đầu tư chứng khoán và cũng có những cách phân loại khác
nhau đối với các quỹ này. Tuy nhiên phổ biến nhất là căn cứ vào số lượng nhà
đầu tư góp vốn thành lập, quỹ đầu tư chứng khoán được chia thành hai loại: quỹ
đại chúng và quỹ thành viên. Thường thì pháp luật các nước đều quy định giới
hạn số lượng nhà đầu tư để xác định một quỹ đầu tư là quỹ đại chúng hay quỹ
thành viên. Cụ thể:

- Qũy đại chúng là quỹ đầu tư được hình thành từ vốn góp của nhiều nhà đầu
tư riêng lẻ trên thị trường chứng khoán. Do số lượng nhà đầu tư bỏ vốn để thành
lập quỹ đầu tư đại chúng rất lớn, toàn bộ quy trình huy động vốn. Quỹ đại chúng
là loại quỹ đầu tư chứng khoán được chào bán chứng chỉ quỹ ra công chúng.
Quỹ đại chúng thường không bị pháp luật giới hạn về số lượng nhà đầu tư tối đa
vào quỹ. Tuy nhiên, do số lượng các nhà đầu tư lớn nên quỹ đại chúng có nhiều
giới hạn đầu tư do pháp luật quy định nhằm đảm bảo an toàn cho nguồn vốn các
nhà đầu tư vào quỹ. Trên thế giới, quỹ đại chúng có nhiều dạng khác nhau. Cách
phân loại phổ biến dựa vào tiêu chí nghĩa vụ của quỹ đối với nhà đầu tư, theo đó,
quỹ đại chúng có hai loại là quỹ dạng đóng và quỹ dạng mở.
Quỹ đại chúng dạng đóng là loại quỹ mà theo đó, quỹ không có nghĩa vụ mua
lại chứng chỉ quỹ đầu tư được phát hành ra công chúng theo yêu cầu của nhà đầu
tư. Do vậy, nhà đầu tư chỉ có thể thu hồi số vốn đầu tư bằng cách chuyển
nhượng chứng chỉ quỹ đầu tư cho nhà đầu tư khác trên thị trường chứng khoán
2
Quỹ đại chúng dạng mở là loại quỹ mà theo đó, quỹ có nghĩa vụ mua lại
chứng chỉ quỹ đầu tư theo yêu cầu của nhà đầu tư. Loại quỹ này có số vốn và số
thành viên luôn biến động, nên thường chỉ xuất hiện ở những quốc gia có nền
kinh tế và thị trường chứng khoán phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Đức, Nhật
Bản v.v..
- Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán được lập bằng vốn góp của một
số nhà đầu tư nhất định và không phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng. Nhà
đầu tư vào quỹ thành viên được gọi là thành viên góp vốn hay thành viên quỹ
đầu tư. Pháp luật thường có quy định giới hạn số lượng thành viên góp vốn của
Quỹ thành viên. Luật chứng khoán năm 2006 quy định quỹ thành viên có tối đa
không quá 30 thành viên và tất cả thành viên phải là pháp nhân. Thành viên của
quỹ thông thường là những nhà đầu tư chuyên nghiệp và có năng lực tài chính
mạnh như công ty tài chính, ngân hàng hoặc doanh nghiệp bảo hiểm. Các thành
viên góp vốn có quyền tham gia quản lý quỹ nhiều hơn so với nhà đầu tư trong
quỹ đại chúng, đồng thời khả năng chịu đựng rủi ro cũng tốt hơn nên quỹ thành

viên không chịu nhiều hạn chế đầu tư như quỹ công chúng.
2. Quy định của pháp luật về thành lập và cấp giấy phép hoạt động cả
quỹ đầu tư chứng khoán.
2.1 Quy định về việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán.
Việc thành lập quỹ đầu tư chứng khoán không do nhà đầu tư đảm nhiệm mà
do công ty quản lý quỹ đảm nhiệm. Trước đây, theo Nghị định số 48/1998/NĐ-
CP, công ty quản lý quỹ muốn thành lập quỹ đầu tư chứng khoán phải xin phép
UBCKNN và quỹ sẽ chỉ được khai sinh khi UBCKNN cấp giấy phép thành lập
quỹ. Sau khi Nghị định số 144/2003/NĐ-CP được ban hành thay thế Nghị định
số 48/1998/NĐ-CP, chủ thể lập quỹ công chúng vẫn phải được UBCKNN cấp
giấy phép, còn chủ thể lập quỹ thành viên chỉ cần đăng ký với UBCKNN để
được cấp chứng nhận đăng kí thành lập quỹ. Hiện nay, luật chứng khoán vẫn
tiếp tục thừa nhận 2 loại quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ đại chúng và quỹ thành
viên, tuy nhiên, thủ tục thành lập từng loại quỹ đầu tư chứng khoán đã có những
thay đổi đáng kể so với trước. Tùy thuộc vào loại hình quỹ đầu tư chứng khoán
dự định được thành lập, công ty quản lý quỹ sẽ phải tuân thủ những quy trình
pháp lý khác nhau.
2.1.1.Thành lập quỹ đại chúng
*Điều kiện đăng ký thành lập quỹ
Để có đủ điều kiện để thành lập quỹ đại chúng, thì kết quả đợt chào đón
chứng chỉ ra công chúng phải thỏa mãn những điều kiện nhất định:
3
Một là, số lượng nhà đầu tư (không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp) tham gia góp vốn vào quỹ và tổng giá trị chứng chỉ quỹ đã bán đều phải
đạt mức tối thiểu theo quy định của pháp luật. Việc quy định số vốn tối thiểu sẽ
giúp cho hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán được tập trung và đạt kết quả
cao, tránh việc làm dụng thành lập quỹ đầu tư chứng khoán sẽ làm giảm hiệu
quả và vai trò của nó với nền kinh tế.
Hai là, tỷ lệ giữa giá trị chứng chỉ quỹ đã bán và mức vốn dự kiến huy động
cũng phải đạt tới mức tối thiểu được quy định trong điều lệ quỹ và ghi nhận

trong bản cáo bạch.
Trường hợp tổng giá trị vốn huy động từ đợt phát hành và tổng số nhà đầu tư
cá nhân bỏ vốn mua chứng chỉ quỹ không đạt tới mức luật định, công ty quản lý
quỹ phải hoàn trả cho nhà đầu tư một khoản tiền đã đóng góp trong vòng 15
ngày kể từ khi kết thúc việc huy động vốn. Trong trường hợp đó, công ty quản lý
quỹ vẫn phải chịu mọi phí tổn và nghĩa vụ tài chính phát sinh tự việc huy động
vốn.
Pháp luật quy định như vậy nhằm bảo vệ nhà đầu tư, khuyến khích các nhà
đầu tư bỏ vốn để tham gia vào hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán.
*Trình tự, thủ tục thành lập
Trường hợp đợt phát hành chứng chỉ quỹ ra công chúng thỏa mãn những điều
kiện pháp luật quy định, công ty quản lý quỹ phải gửi UBCKNN hồ sơ báo cáo
kết quả chào bán và thực hiện việc đăng ký lập quỹ.
Hồ sơ gồm: Giấy đăng ký lập quỹ và báo cáo về kết quả đợt chào bán và
danh sách nhà đàu tư
Trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBCKNN sẽ cấp giấy
chứng nhận đăng ký lập quỹ nhưng phải trả lời bằng văn bản nêu rõ lý do. Thời
hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký quỹ đầu tư chứng khoán đại chúng hiện nay đã
được rút ngắn hơn so với thời hạn 15 ngày theo nghị định số 144/2003/NĐ-CP
trước đây.
Ngay sau khi giấy chứng nhận đăng ký lập quỹ có hiệu lực, công ty quản lý
quỹ có quyền giải tỏa vốn huy động tại ngân hang giám sát để thực hiện đầu tư.
Trong vòng 45 ngày kể từ khi được cấp giấy chứng nhận đăng ký quỹ, công
ty quản lý phải gửi UBCKNN một số văn bản chứng tỏ quỹ đã có những bước
khởi động ban đầu, đó là:
-Danh sách và sơ yếu lý lịch của các thành viên ban đại diện quỹ
-Cam kết bằng văn bản của các thành viên độc lập trong ban đại diện quỹ về
sự độc lập của mình với công ty quản lý quỹ
4
-Biên bản và các tài liệu khác liên quan tới cuộc họp đại hội nhà đầu tư.

Trình tự thủ tục thành lập được pháp luật quy định cụ thể và chặt chẽ, giúp
cho việc thực hiện được thống nhất và dễ dàng hơn với các cơ quan hữu quan.
2.1.2.Thành lập quỹ thành viên
Khác với quỹ đại chúng, quỹ thành viên có mục tiêu đầu tư khá mạo hiểm
nhằm thu lợi nhuận cao, hoạt động dầu tư của quỹ thành viên, vì vậy có mức độ
rủi ro cao hơn quỹ công chúng. Thực tế này đòi hỏi nhà đầu tư vào quỹ thành
viên cần phải có đủ tiềm lực tài chính để có thể gánh chịu rủi ro xảy ra. Nhận
thức được vấn đề này, khi soạn thảo Luật chứng khoán, các nhà làm luật đã quy
định toàn bộ số thành viên góp vốn vào quỹ đẩu phải là pháp nhân.
Vốn của quỹ cũng không phải do công chúng đầu tư đóng góp mà do các
thành viên của quỹ, gồm những tổ chức có tư cách pháp nhân đống góp. Các
thành viên góp vốn thành lập quỹ trên cơ sở biên bản thỏa thuận góp vốn và điều
lệ quỹ. Công ty quản lý quỹ phải cung cấp cho các tổ chức có nhu cầu góp vốn
vào quỹ bản cáo bạch tóm tắt. Việc làm này nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt
động của quỹ đầu tư chứng khoán.
Theo quy định tại Điều 22 QĐ 45/2007/NĐ-BTC về Thành lập Quỹ thành
viên có quy định về các điều kiện cụ thể:
“1. Việc thành lập Quỹ thành viên phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán Nhà
nước và phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
a) Vốn góp tối thiểu là năm mươi (50) tỷ đồng Việt Nam;
b) Có tối đa ba mươi (30) thành viên góp vốn và chỉ bao gồm thành viên là
pháp nhân. Tổ chức tham gia góp vốn thành lập Quỹ thành viên chỉ được phép sử
dụng vốn của chính mình, không bao gồm các nguồn vốn ủy thác đầu tư, vốn
chiếm dụng từ các cá nhân, tổ chức khác;
c) Quỹ được uỷ thác cho một Công ty quản lý quỹ được cấp phép quản lý quỹ
thực hiện việc quản lý;
d) Tài sản của Quỹ thành viên được lưu ký tại một Ngân hàng lưu ký không
phải là người có liên quan với Công ty quản lý quỹ.
Bên cạnh những điều kiện quy định tại khoản 1 điều 22, tại khoản 2, 3, 4 điều
này cũng có quy định một số điều kiện khác về việc kêu gọi góp vốn, thăm dò

thị trường bằng các phương tiện thông tin đại chúng; việc đặt tên; cung cấp bản
cáo bạch cho những tổ chức có nhu cầu góp vốn; việc ghi rõ nguyên tắc hoạt
động của quỹ cũng được quy định khá chi tiết và cụ thể.
*Trình tự, thủ tục thành lập
5

×