Tải bản đầy đủ (.doc) (47 trang)

Đề tài "Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế" pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.72 KB, 47 trang )

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đ ề tài
"Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư,
giải thích vai trò của đầu tư với tăng
trưởng và phát triển kinh tế"
1
MỤC LỤC
BÁO CÁO THỰC TẬP 1
Đề tài 1
"Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư, giải thích vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát
triển kinh tế" 1
MỤC LỤC 2
I.Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam 24
LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư là gì? Đầu tư để làm gì? Vai trò của đầu tư? Đây là những câu hỏi
mà bất kì 1 nền kinh tế, 1 nhà kinh tế nào cũng đều phải nghiên cứu và tìm ra lời
đáp. Các trường phái kinh tế từ khi nền kinh tế mới hình thành đã nghiên cứu về
đầu tư và đã khẳng đinh phần nào vai trò đầu tư trong tăng trưởng và phát triển
kinh tê. Mác đã từng khẳng định: Vốn đầu tư là một trong những yếu tố cơ bản
rạo ra sự tăng trưởng phát triển kinh tế quốc gia hay như A.Smith trong cuốn
“Của cải các dân tộc” cũng cho rằng: “Vốn đầu tư là yếu tố quyết định chủ yếu
đến số lao động hữu hiệu và hiệu quả”
Ở Việt Nam đặc biệt là sau Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), vai trò
của đầu tư đã thực sự được khẳng định. Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng
2
vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng quy mô đầu tư và sử dụng hợp lý
là những nhân tố quan trọng góp phần làm nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh
tế, làm nâng cao hiệu quả vốn đầu tư, tăng nhân tố tổng hợp, tác động đến việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao
sức cạnh tranh của nền kinh tế…Thông qua việc cải cách cơ chế đầu tư, thực hiện
chính sách mở cửa,mức gia tăng vốn đầu tư vào Việt Nam ngày càng cao, kéo


theo đó là tốc độ tăng trưởng nền kinh tế ngày gia tăng và ổn định hơn trong
những năm qua.
Những năm gần đây, vốn đầu tư vào Việt Nam đạt được mức cao đáng kể,
tuy nhiên với mức gia tăng tốc độ tăng trưởng như hiện nay thì có thể coi là thỏa
đáng chưa? Vì thế vấn đề của Việt Nam hiện nay là phải làm sao để có chất
lượng đầu tư cao hơn, mức gia tăng tốc độ kinh tế phải xứng đáng với vốn đầu tư
bỏ ra, chính sách đầu tư phải tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư cả trong và ngoài
nước, đầu tư vào những lĩnh vực thế mạnh phù hợp với định hướng Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá Bằng việc ban hành các văn bản hướng dẫn,và thực hiện hàng
loạt các biện pháp thẩm định, nâng cao chất lượng các luồng vốn đầu tư, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực….đầu tư càng thể hiện rõ vai trò của mình trong
tiến trình đến một nền kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong tương lai gần.
Tiến trình Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế cùng những yêu cầu mới
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi các doanh
nghiệp Việt Nam, chính phủ Việt Nam phải có những định hướng đúng cho
nguồn vốn đầu tư để có được chất lượng tăng trưởng cao nhất. Việc huy động và
sử dụng vốn đầu tư hiệu quả sẽ là bàn đạp cho sự tăng trưởng kinh tế nói riêng và
phát triển xã hội nói chung.
Trong phạm vi đề tài: “Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư, giải thích
vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế”, chúng em sẽ trình bày
một số lí thuyết kinh tế về đầu tư, từ đó giải thích vai trò của đầu tư với tăng
trưởng và phát triển kinh tế; đồng thời phân tích, đánh giá tác động của đầu tư tới
tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam trong thời gian qua.
Trong quá trình nghiên cứu, tập thể nhóm xin chân thành cảm ơn thầy Từ
Quang Phương và thầy Phạm Văn Hùng đã giúp đỡ hoàn thành đề tài.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG
TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - NHỮNG VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
I / Một số lí thuyết kinh tế

1. Lí thuyết cơ bản về đầu tư
1.1. Khái niệm:
3
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các
nguồn lưc đã bỏ ra để đạt đươc các kết quả đó. Như vậy, mục tiêu của mọi công
cuộc đầu tư là đạt được các kết quả lớn hơn với những hi sinh về nguồn lực mà
người đầu tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư.
Nguồn lực hi sinh đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao
động và trí tuệ.
Những kết quả sẽ đạt được đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính
(tiền vốn) tài sản vật chất (nhà máy, đường sá, bệnh viện…), tài sản trí tuệ (trình
độ văn hoá, chuyên môn,quản lí…) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc
với năng suất cao hơn trong nền sản xuất XH.
Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ ngườ đầu tư mà cả nền kinh tế
XH được hưởng thụ trên đây không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ
đầu tư mà cả của nền kinh tế chính là đầu tư phát triển. Còn các loại đầu tư chỉ
trực tiếp làm tăng tài sản chính của người chủ đầu tư, tác động gián tiếp đến làm
tăng tài sản của nền kinh tế thông qua sự đóng góp tài chính tích luỹ của các hoạt
động đầu tư này cho đầu tư phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát
triển và thúc đẩy quá trình lưu thông phân phối các sản phẩm do các kết quả của
đầu tư phát triển tạo ra, đó là đầu tư tài chính và đầu tư thương mại.
Quá trình tiến hành một công cuộc đầu tư kể từ khi bắt đầu chi phí các
nguồn lực cho đến khi các thành quả của quá trình đầu tư phát huy tác dụng và
ngừng hoạt động có rất nhiều công việc phải làm với tính chất kĩ thuật rất đa
dạng, đòi hỏi phải sử dụng kiến thức của rất nhiều ngành kinh tế kĩ thuật khác
nhau vào quá trình thực hiện đầu tư theo từng giai đoạn và toàn bộ các công cuộc
đầu tư.
Nguồn lực chi phí cho một công cuộc đầu tư là rất lớn, thời gian cần hoạt
động của các kết quả đầu tư để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra (đối với các công cuộc

đầu tư sản xuất kinh doanh) hoặc để các lợi ích thu được tương xứng và lớn hơn
những hi sinh về nguồn lực mà nền kinh tế bỏ ra cũng rất lâu (đối với các công
cuộc đầu tư công cộng).
Có hai hình thức đầu tư mà ta xét:
- Đầu tư trực tiếp là sự đầu tư thông qua sản xuất, cung cấp dịch vụ, buôn
bán tại nước nhận đầu tư. Hình thức đầu tư này thường dẫn đến sự thành lập một
pháp nhân riêng như công ty liên doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, chi
nhánh công ty nước ngoài. Đầu tư trực tiếp góp phần làm tăng tổng sản phẩm
quốc nội, thúc đẩy quá trình chuyển giao công nghệ và phương thức quản lý, kinh
doanh tiên tiến, đồng thời góp phần giải quyết vấn đề việc làm tại nước nhận đầu
tư.
- Đầu tư gián tiếp là sự đầu tư thông qua việc buôn bán cổ phiếu và các
giấy tờ có giá trị, gọi chung là chứng khoán. Hình thức đầu tư này không dẫn đến
việc thành lập pháp nhân riêng. Hình thức này mang tính đầu cơ nên có thể thu
lãi rất lớn thông qua sự biến động giá chứng khoán (điều này lại liên quan đến
nhiều yếu tố khác như tình hình chính trị, phát triển kinh tế, chính sách điều hành
vĩ mô, v.v ), nhưng cũng chính vì thế mà có thể phải chịu những rủi ro khó
lường trước. Đối với nước nhận đầu tư, hình thức đầu tư góp phần giải quyết sự
4
khan hiếm vốn, nhưng khi các nhà đầu tư đồng loạt rút đi (bằng cách bán lại
chứng khoán) sẽ dễ dẫn đến những biến động trên thị trường tiền tệ, ảnh hưởng
tới nền kinh tế.
1.2. Các loại hình đầu tư
1.2.1. Đầu tư phát triển
Khái niệm
Đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư, là việc chi dung vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm làm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản
vật chất (nhà xưởng, thiết bị…) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng…), gia tăng
năng lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp,

nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực
đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc, thiêt bị, tài nguyên. Như
vậy, khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư
phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ
vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định. Trên quan điểm phân công lao
động XH, có hai nhóm đối tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư
thao lãnh thổ. Trên góc độ tính chất và mục đích đầu tư, đối tượng đầu tư chia
thành hai nhóm chính: công trình vì mục tiêu lợi nhuận và công trình phi lợi
nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan trọng, đối tượng đầu tư chia thành: loại
được khuyến khích đầu tư, loại không được khuyến khích đầu tư và loại cấm đầu
tư.
Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà
xưởng, thiết bị…) tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá, chuyên môn…) và tài sản vô
hình (phát minh, sáng chế…). Các kết quả đạt được của đầu tư góp phần làm tăng
thêm năng lực sản xuất của XH. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ
so sánh giữa kết quả kinh tế XH thu được với chi phí chi ra để đạt được kết quả
đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện
chủ đầu tư và XH, đảm bảo kết hợp hài hoà giữa các loại lợi ích phát huy vai trò
chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lí, kiểm tra giám sát của cơ quan
quản lí Nhà nước các cấp. Thực tế, có những khoản đầu tư tuy không trực tiếp tạo
ra tài sản cố định và tài sản lưu động cho hoạt động sản xuất kinh doanh như đầu
tư cho y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo… Nhưng lại rất quan trọng để nâng cao
chất lượng cuộc sống và vì mục tiêu phát triển, do đó cũng được xem là đầu tư
phát triển.
Mục đích
Đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng
đồng và nhà đầu tư. Trong đó, đầu tư Nhà nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, tăng thu nhập quốc dân, góp phần giải quyết việc làm và nâng cao đời sống
của các thành viên trong XH. Đầu tư của doanh nghiệp nhằm tối thiểu chi phí, tối

đa lợi nhuận, nâng cao khả năng cạnh tranh và chất lượng nguồn nhân lực…
Hoạt động của đầu tư phát triển là một quá trình diễn ra trong thời kì dài và
tồn tại vấn đề “độ trễ thời gian”. Độ trễ thời gian là sự không trùng hợp giữa thời
5
gian đầu tư và thời gian vận hành các kết quả đầu tư. Đầu tư hiện tại nhưng kết
quả thường được thu trong tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần được quán
triệt khi đánh giá kết quả ,chi phí và hiệu quả đầu tư phát triển.
Đặc điểm của đầu tư phát triển:
- Quy mô tiền vốn vật tư, lao động cần thiết cho hoạt động đầu tư phát
triển thường rất lớn. Vốn đầu tư lớn nằm khô đọng lâu trong suốt quá trình thực
hiện đầu tư. Lao động cần sử dụng cho cac dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự
án trọng điểm quốc gia.
- Thời kì đầu tư kéo dài: thời kì đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự
án đến khi dự án hoàn thành và đưa vào hoạt động. Nhiều công trình đầu tư phát
triển có thời gian kéo dài hàng chục năm.
- Thời gian vận hành các kết quả đầu tư kéo dài: thời gian vận hành các kết
quả đầu tư tính từ khi đưa công trình vào hoạt động cho đến khi hết thời hạn sử
dụng và đào thải công trình.
- Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng
thường phát huy tác dụng ở ngay nơi no được tạo dựng nên, do đó, quá trình thực
hiện đầu tư cung như thời kì vận hành các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng lớn của
các nhân tố về tự nhiên, kinh tế, XH vùng. Không thể dễ dàng di chuyển các công
trình đã đầu tư từ nơi này sang nơi khác, nên công tác quản lí hoạt động đầu tư
phát triển cần phải quán triệt đặc điểm này trên một số nội dung sau:
+ Trước tiên, cần phải có chủ trương đầu tư và quyết định đầu tư đúng đắn.
+ Lựa chọn địa điểm đầu tư hợp lí.
- Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao, do quy mô vốn đầu tư lớn, thời kì đầu
tư kéo dài, thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng kéo dài… nên mức độ rủi
ro của hoạt động đầu tư phát triển thường cao.
Nội dung của đầu tư phát triển:

Hoạt động đầu tư phát triển bao gồm nhiều nội dung, tuỳ theo cách tiếp
cận.
Căn cứ vào lĩnh vực phát huy tác dụng, đầu tư phát triển bao gồm các nội
dung sau: đầu tư phát triển sản xuất, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật
chung của nền kinh tế, đầu tư phat striển văn hoá giáo dục y tế và dịch vụ XH
khác, đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật và những nội dung phát triển khác. Cách
tiếp cận này là căn cứ để xác định quy mô vốn đầu tư, đánh giá kết quả và hiệu
quả hoạt động cho từng ngành lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân.
Theo khái niệm, nội dung đầu tư phát triển bao gồm: đầu tư những tài sản
vật chất (tài sản thực) và đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư các tà sản vật chất
gồm: đầu tư tài sản cố định (đầu tư xây dựng cơ bản) và đầu tư vào hàng tồn trữ.
Đầu tư tài sản vô hình gồm các nội dung sau: đầu tư nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa học, kĩ thuật, đầu tư
xây dựng thương hiệu, quảng cáo.
1.2.2. Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại
1.2.2.1. Đầu tư tài chính
Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính) là loại đầu tư trong đó người có
tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá trên thị trường tiền tệ, thị
6
truờng vốn để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ)
hoặc lợi nhuận tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty
phát hành (mua cổ phiếu…). Đầu tư tài sản tài chính là loại đầu tư không trực
tiếp làm tăng sản phẩm thực (tài sản vật chất) cho nền kinh tế (nếu không xét đến
quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính cho
chủ đầu tư. Mua cổ phiếu (đầu tư cổ phiếu) gắn với việc chuyển quyền sở hữu và
hoạt động cho vay dẫn đến chuyển quyền sử dụng,do vậy, hai loại đầu tư này đều
thuộc hoạt động đầu tư dịch chuyển. Đầu tư tài chính thường được thực hiện gián
tiếp thông qua các trung gian tài chính như ngân hàng, công ty chứng khoán. Đầu
tư tài chính còn có đặc điểm là: chủ đầu tư thường có kì vọng thu được lợi nhuận
cao khi đầu tư nhưng thực tế lợi nhuận thu được có thể tăng giảm không theo ý

muốn. Tuy nhiên, đầu tư tài chính là kênh huy động vốn rất quan trọng cho hoạt
động đầu tư phát triển và là một trong những loại hình đầu tư lựa chọn để tối đa
hoá lợi ích, giảm thiểu rủi ro cho chủ đầu tư.
1.2.2.2. Đầu tư thương mại
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận cho chênh lệch giá
khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh
tế.
1.2.3. Mối quan hệ giữa ba loại hình đầu tư
Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là ba loại hình đầu
tư luôn tồn tại và có mối quan hệ tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề
để tăng tích luỹ, phát triển hoạt động đầu tư tài chính và đầu tư thuơng mại.
Ngược lại đầu tư tài chính và đầu tư thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng
cường đầu tư phát triển.
1.3. Các lí thuyết kinh tế về đầu tư
1.3.1.Số nhân đầu tư
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó cho thấy
sản lượng gia tăng bao nhiêu khi đầu tư gia tăng 1 đơn vị .
Công thức tính:
k = ∆Y/ ∆I (1)
Trong đó: ∆Y: Mức gia tăng sản lượng
∆I : Mức gia tăng đầu tư
k : Số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta được
∆Y = k * ∆I (2)
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng tăng lên
số nhân lần. Trong công thức trên, k là số dương lớn hơn 1. Vì, khi I = S, có thể
biến đổi công thức (2) thành:

k =

I
Y


=
s
Y


=
CY
Y
∆−∆

=
Y
C


−1
1
=
MPC−1
1
=
MPS
1
(3)
7
Trong đó:


MPC =
Y
C


Khuynh hướng tiêu dùng biên

MPS =
Y
s


Khuynh hướng tiết kiệm biên
Vì MPS < 1 nên k >1
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó, độ khuyếch đại của sản lượng
càng lớn. Sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng tăng.
Thực tế, gia tăng đầu tư, dẫn đến cầu về các tư liệu sản xuất (máy móc,
thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…) và quy mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này
làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế.
1.3.2.Gia tốc đầu tư
Số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ giữa gia tăng đầu tư gia tăng sản
lượng hay việc gia tăng đầu tư có ảnh hưởng như thế nào đến sản lượng. Như
vậy, đầu tư xuất hiện như một yếu tố của tổng cầu. Theo Keynes (nhà kinh tể học
trong thập niên 30 thế kỉ trước), đầu tư cũng được xem xét từ góc độ tổng cung,
nghĩa là, mỗi sự thay đổi của sản lượng làm thay đổi đầu tư như thế nào.
Theo lí thuyết này, để sản xuất ra 1 đơn vị đầu ra cho trước cần phải có
một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể
được biểu diễn như sau:
x =

Y
K
(4)
Trong đó:
K: Vốn đầu tư tại thời kì nghiên cứu
Y: Sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x : Hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức (4) suy ra:
K = x * Y (5)
Như vậy, nếu x không đổi thì khi quy mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến
nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Nói cách khác, chi tiêu đầu tư tăng
hay giảm phụ thuộc nhu cầu về tư liệu sản xuất và nhân công. Nhu cầu các yếu tố
sản xuất lại phụ thuộc vào quy mô sản phẩm cần sản xuất.
Theo công thức (5), có thể kết luận:sản lượng phải tăng liên tục mới là cho
đầu tư tăng cùng tốc độ, hay không đổi so với thời kì trước.
* Ưu điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Lí thuyết gia tốc đầu tư phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu
x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá
chính xác.
- Lí thuyết phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tư. Khi
kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng, cơ hội kinh doanh lớn,dẫn
đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư nhiều.
*Nhược điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
8
- Lí thuyết giả định quan hệ tỷ lệ giữa sản lượng và đầu tưlà cố định.thực tế
đại lượng này (x) luôn luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác
nhau.
- Thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ
không phải sự biến động của tổng đầu tư do sự tác động của thay đổi sản lượng.
Vì, từ công thức (5) có thể viết:

+ Tại thời điểm t: Kt = x * Yt (6)
+ Tại thời điểm (t-1): K(t-1) = x *Y(t-1) (7)
+ Lấy (6) trừ (7) ta được:
Kt – K(t-1) = x*Yt – x*Y(t-1) = x*( Yt – Y(t-1)) (8)
Trong đó:
Kt – K(t-1): Đầu tư ròng và bằng (It – D) với D là khấu hao
Do đó:
It – D = Kt – K(t-1) =x * (Yt – Y(t-1)) = x *
Y∆
(9)

Và đầu tư ròng:
YxI ∆=∆ *
(10)
Như vậy, theo lí thuyết này, đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng
đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần). Nếu sản lượng
giảm, đầu tư thuần sẽ âm. Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không
đổi, đầu tư ròng sẽ bằng 0. (Khi
0=∆y
thì

I =0)
- Theo lí thuyết này toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện
ngay trong cùng một thời kì. Điều này không đúng bởi nhiều lí do, chẳng hạn do
việc cung cấp các yếu tố liên quan đến thực hiện vốn đầu tư không đáp ứng, do
cầu vượt quá cung… Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tuc được hoàn thiện qua
thời gian.theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được
xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tạivà quá khứ, nghĩa là, qui mô
đầu tư mong muốn được xác định trong dài hạn.
Nếu gọi: Kt và K (t-1) là vốn đầu tư thực hiện ở thời kì t và (t-1)

Kt* là vốn đầu tư mong muốn

λ
là một hằng số ( 0<
λ
<1 )
Thì: Kt – K(t-1) =
λ
*(Kt* - K(t-1))
Có nghĩa là, sự thay đổi đầu tư thực hiện giữa hai kì chỉ bằng một phần của
chênh lệch giữa vốn đầu tư mong muốn thời kì t và vốn đầu tư thực hiện thời kì
t - 1. Nếu
1=
λ
thì Kt = Kt*.
Và lí thuyết gia tốc đầu tư hoàn thiện sau này cũng đã đề cập đến tổng đầu
tư.
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư ban đầu thi đầu tư thuần:
).1( −−=−=∆ tKKtDtItI
Theo lí thuyết gia tốc đầu tư sau này thì: Kt – K(t-1) =
))1(*(* −− tKKt
λ
.
Và do đó:
))1(*(* −−=∆ tKKtI
λ

Để xác định tổng đầu tư,chúng ta giả định: Dt =
)1(* −tK
δ


δ
là hệ số khấu hao và 0
1<<
δ
.
Do đó:
It –Dt = It -
))1(*(*)1(* −−=− tKKttK
λδ
hoặc
It =
)1(*))1(*(* −+−− tKtKKt
δλ
(11)
9
It chính là tổng đầu tư trong kì và là hàm của vốn mong muốn và vốn thực
hiện.
Lí thuyết gia tốc đầu tư và số nhân đầu tư giải thích mối quan hệ qua lại
giữa đầu tư và sản lượng. Mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo việc gia tăng
bổ sung lao động,nguyên vật liệu sản xuất… dẫn đến gia tăng sản phẩm (giải
thích qua số nhân đầu tư). Sản lượng gia tăng,dẫn đến gia tăng tiêu dung (do thu
nhập người tiêu dùng tăng), tăng cầu hàng hóa và dịch vụ nên lại đòi hỏi gia tăng
đầu tư mới (giải thích qua mô hình gia tốc đầu tư). Gia tăng đầu tư mới dẫn đến
gia tăng sản lượng, gia tăng sản lượng lại là nhân tố thúc đẩy gia tăng đầu tư. Quá
trình này diễn ra liên tuc, dây chuyền.
1.3.3.Quỹ nội bộ của đầu tư
Theo lí thuyết này,đầu tư có quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận thực tế:
I = f (lợi nhuận thực tế). Do đó, dự án đầu tư nào đem lại lợi nhuận cao sẽ
được lựa chọn. Vì lợi nhuân cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư

sẽ cao hơn. Nguồn vốn cho đầu tư có thể huy động bao gồm: Lợi nhuận giữ lại,
tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu
và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội
bộ của doanh nghệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn
vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nợ, trường hợp nền kinh tế lâm
vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào tình
trạng phá sản. Do đó việc đi vay không phải là điều hấp dẫn, trừ khi được vay ưu
đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không
phải là biện pháp hấp dẫn. Còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các
doanh nghiệp thực hiện khi hiệu quả của dự án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do
dự án đem lại trong tương lai lớn hơn các chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ nôi bộ của đầu tư, các doanh nghiệp
thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia
tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
Sự khác nhau giữa lí thuyết gia tốc đầu tư và lí thuyết nàydẫn đến việc thực
thi các chính sách khác nhau để khuyến khích đầu tư. Theo lí thuyết gia tốc đầu
tư, chính sách tài khóa mở rộng sẽ làm cho mức đầu tư cao hơn và do đó sản
lượng thu được cũng sẽ cao hơn. Còn việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp
không có tác dụng kích thích đầu tư. Ngược lại, theo lí thuyết quỹ nội bộ của đầu
tư thì việc giảm thuế lợi tức của doanh nghiệp sẽ làm tăng lợi nhuận từ đó tăng
đầu tư và tăng sản lượng, mà tăng lợi nhuận có nghĩa là tăng quỹ nội bộ. Quỹ nội
bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng vốn đầu tư mong muốn, còn chính
sách tài khóa mở rộng không có tác dụng trực tiếp làm tăng đầu tư theo lí thuyết
này.
1.3.4.Lí thuyết tân cổ điển
Theo lí thuyết này thì đầu tư bằng tiết kiệm (ở mức sản lượng tiềm năng).
Còn: tiết kiệm S = s*y trong đó 0
1<< s
.
s: Mức tiết kiệm từ 1 đơn vị sản lượng(thu nhập) và tỷ lệ tăng trưởng của

lao động bằng với tỷ lệ tăng dân số và kí hiệu là n.
10
Theo hàm sản xuất,các yếu tố của sản xuất là vốn và lao động có thể thay
thế cho nhau trong tương quan sau đây:
y = A*
)(
π
E
*
)(
α
K
* N
)1(
α

(12)
Trong đó:
y : Sản lượng

)(
α
K
: Vốn đầu tư
N
)1(
α

: Lao động
A*

)(
π
E
biểu thị ảnh hưởng của yếu tố công nghệ.

α

)1(
α

là hệ số co giãn thành phần của sản xuất với các yếu
tố vốn và lao động (thí dụ nếu
α
=0.25 thì 1% tăng lên của vốn sẽ làm cho sản
lượng tăng lên 25%). Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo thì
α

)1(
α

biểu
thị phần thu nhập quốc dân từ vốn và lao động.
Từ hàm sản xuất Cobb Douglas trên đây ta có thể tính được tỷ lệ tăng
trưởng của sản lượng như sau:
g = r +
nh *)1(*
αα
−+
(13)
Trong đó:

g: Tỷ lệ tăng trưởng của sản lượng
h: Tỷ lệ tăng trưởng của vốn
n: Tỷ lệ tăng trưởng lao động
Biểu thức trên cho thấy:tăng trưởng của sản lượng có mối quan hệ thuận
với tiến bộ của công nghệ và tỷ lệ tăng trưởng của vốn và lao động.
Trong một nền kinh tế ở “thời đại hoàng kim”có sự cân bằng trong tăng
trưởng của các yếu tố sản lượng,vốn và lao động.
Gọi đầu tư ròng là
I∆

KI ∆=∆
YsSK *==∆
suy ra
YsK *=∆
Chia cả 2 vế cho K, ta được:


K
Ys
K
K *
=

Hoặc: h = s *
K
Y
Khi h không đổi,s không đổi thì
K
Y
cũng không đổi và Y phải tăng trưởng

cùng tỷ lệ như h và K.
Khi đó: g =
ngr *)1(*
αα
−++

Ở đây g là tỷ lệ tăng trưởng ở “thời đại hoàng kim”.
Suy ra:
g -
nrg *)1(*
αα
−+=
(1-
−+= 1(*) rg
α
α
)*n
Hay g =
n
r
+

α
1
(14)
11
Như vậy, trong “thời đại hoàng kim”, tỷ lệ tăng trưởng g phụ thuộc vào tỷ
lệ tăng trưởng của công nghệ và lao động. Điều này cho thấy,không thể có thu
nhập trên đầu người tăng nếu không có sự tiến bộ của công nghệ.
1.3.5.Mô hình Harrod - Domar

Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng
kinh tế với yếu tố tiết kiệm và đầu tư.
Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t
g =
Yt
Y∆
: Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Y∆
: Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
s =
Yt
S
: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
ICOR : Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức: ICOR =
Y
K


Nếu
IK =∆
, ta có : ICOR =
Y
I


Ta lại có: I = S =s *Y. Thay vào công thức tính ICOR,ta có:
ICOR =
Y
Ys
Y
K

=

∆ *
Từ đây suy ra:
R
*
ICO
Ys
Y =∆
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Y
ICO
Ys
Y
Y
g :
R
*
=

=
Cuối cùng ta có:
RICO

s
g =
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng
kinh tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu
tư trong GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện S là nguồn vốn
của I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (

K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp
gia tăng

Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến,nhằm xem xét
vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu,
nên những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối
với các nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn
đề không đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan
trọng là phải tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ
thường sử dụng nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
2/ Tổng quan về tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.1. Một số quan điểm
Lịch sử phát triển kinh tế cho thấy, mỗi quốc gia tuỳ theo quan niệm khác
nhau của các nhà lãnh đạo đã lựa chọn con đường phát triển khác nhau. Nhìn một
12
cách tổng thể có thể hệ thống sự lựa chọn ấy theo ba con đường: nhấn mạnh tăng
trưởng nhanh; coi trọng vấn đề bình đẳng, công bằng xã hội và phát triển toàn
diện.
2.1.1. Quan điểm nhấn mạnh vào tăng trưởng kinh tế
Các nước phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa trước đây thường
lựa chọn con đường nhấn mạnh tăng trưởng nhanh. Sự phát triển kinh tế của các
nước Mehico, các nước OPEC và kể cả Philipin, Malaysia, Indonesia đi theo sự
lựa chọn này.

Nội dung: Chính phủ tập trung chủ yếu vào các chính sách đẩy nhanh tốc
độ tăng trưởng mà bỏ qua các nội dung xã hội. Các vấn đề về bình đẳng, công
bằng xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư chỉ được đặt ra khi tăng
trưởng thu nhập đã đạt được một trình độ khá cao.
Kết quả: Nhiều quốc gia thực hiện theo mô hình này đã làm cho nền kinh
tế rất nhanh khởi sắc. Tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân năm rất cao.
Hạn chế: - Bất bình đẳng về kinh tế xã hội ngày càng gay gắt, các nội dung
về nâng cao chất lượng cuộc sống thường không được quan tâm, một số giá trị
văn hoá, lịch sử truyền thống của dân tộc và đạo đức thuần phong mỹ tục tốt đẹp
của nhân dân bị phá huỷ.
- Việc chạy theo mục tiêu tăng trưởng nhanh trước mắt đã nhanh
chóng dẫn đến sự cạn kiệt nguồn tài nguyên, huỷ hoại môi trường sinh thái, chất
lượng tăng trưởng kinh tế không bảo đảm và vi phạm những yêu cầu phát triển
bền vững. Chính những hạn chế này đã tạo ra lực cản cho sự tăng trưởng kinh tế
ở giai đoạn sau.
2.1.2. Quan điểm nhấn mạnh công bằng xã hội
Đây là mô hình khá nổi bật của các nước đi theo mô hình Chủ nghĩa xã hội
trước đây, trong đó có cả Việt Nam.
Nội dung: Đưa ra yêu cầu giải quyết các vấn đề xã hội ngay từ đầu trong
điều kiện thực trạng tăng trưởng thu nhập ở mức độ thấp. Các nguồn lực phát
triển, phân phối thu nhập cũng như chăm sóc sức khoẻ, giáo dục, văn hoá được
quan tâm và thực hiện theo phương thức dàn đều, bình quân cho mọi ngành, mọi
vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội.
Kết quả: Các nước đã đạt được một mức độ khá tốt về các chỉ tiêu xã hội.
Công bằng xã hội cao.
Hạn chế: Nền kinh tế thiếu các động lực cần thiết cho sự tăng trưởng
nhanh, mức thu nhập bình quân đầu người thấp, nền kinh tế lâu khởi sắc và ngày
càng trở nên tụt hậu so với mức chung của thế giới. Các chỉ tiêu xã hội thường
chỉ đạt cao về mặt số lượng mà có thể không bảo đảm về chất lượng.
2.1.3. Quan điểm phát triển toàn diện

Hiện nay, nền kinh tế mở cửa, hội nhập cho phép nhiều nước đang phát
triển tận dụng lợi thế lịch sử để thực hiện một sự lựa chọn tối ưu hơn bằng con
đường phát triển toàn diện. Hàn Quốc, Đài Loan là những nước đã thực hiện theo
sự lựa chọn này. Trong quá trình cải tổ nền kinh tế, Đảng và Chính phủ Việt Nam
đã thể hiện sự lựa chọn theo hướng phát triển toàn diện.
13
Nội dung: Đi đôi với thực hiện mục tiêu tăng trưởng nhanh, đưa ra mục
tiêu giải quyết vấn đề công bằng xã hội ngay từ đầu và trong toàn tiến trình phát
triển. Theo mô hình này, Chính phủ các nước, một mặt đưa ra các chính sách thúc
đẩy tăng trưởng nhanh, khuyến khích dân cư làm giàu, phát triển kinh tế tư nhân
và thực hiện phân phối thu nhập theo sự đóng góp nguồn lực; mặt khác, cũng
đồng thời đặt ra vấn đề bình đẳng, công bằng và nâng cao chất lượng cuộc sống
dân cư.
* Việc hệ thống hoá các con đường phát triển kinh tế mặc dù mang nội
dung tương đối, nhưng nó là cần thiết để giúp các nước, căn cứ vào điều kiện
kinh tế, chính trị trong và ngoài nước ở từng giai đoạn cụ thể để lựa chọn hướng
đi thích hợp cho mình.
2.2. Khái niệm
2.2.1.Tăng trưởng kinh tế
Phúc lợi vật chất được đo lường bằng giá trị hàng hoá và dịch vụ mà nền
kinh tế sản xuất ra. Nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế là nghiên cứu về khả năng
của các nền kinh tế sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ. Khi một nước có tăng truởng
kinh tế, thì dân cư trong nước nhìn chung sẽ có cuộc sống sung túc hơn. Tăng
trưởng kinh tế được định nghĩa là sự gia tăng về mặt thu nhập của một nền kinh
tế trong khoảng thời gian nhất định, thường tính là một năm.
Nhìn chung,tăng trưởng kinh tế được tính bằng % thay đổi của mức sản
lượng quốc dân.
gt = ( Yt - Y(t-1))/Y(t-1) *100%
Trong đó: gt :Tốc độ tăng trưởng của thời kì t
Y :GDP thực tế của thời kì t

Thước đo đó có thể gây nhầm lẫn nếu như dân số tăng rất nhanh trong khi
GDP thực tế lại tăng trưởng chậm.
Một định nghĩa khác có thể thích hợp hơn về tăng trưởng kinh tế theo mức
sản lượng bình quân đầu người được tính bằng tổng sản lượng hàng hoá và dịch
vụ được tạo ra trong năm chia cho dân số.
gt(PC) = ( yt - y(t-1))/y(t-1) *100%
Trong đó: gt(PC): Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân đầu người
của thời kì t
y : GDP thực tế bình quân đầu người
Khi các nhà kinh tế nghiên cứu tăng trưởng kinh tế, họ quan tâm đến tăng
trưởng của sản lượng thực tế qua một thời kì dài để có thể xác định được các yếu
tố làm tăng GDP thực tế tại mức tự nhiên trong dài hạn.
Các nguồn lực của tăng truởng kinh tế: Yếu tố hàng đầu quyết định tăng
trưởng là năng suất. Nhưng các yếu tố quyết định năng suất và do đó tăng truởng
kinh tế là nguồn nhân lực, tích luỹ tư bản, tài nguyên thiên nhiên và tri thức công
nghệ. Các nhân tố đó có thể khác nhiều giữa các nước và một số nước có thể kết
hợp chúng hiệu quả hơn các nước khác.
Các chính sách của chính phủ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế:
- Chính sách khuyến khích tiết kiệm và đầu tư trong nước.
- Chính sách thu hút đầu tư từ nước ngoài.
14
- Chính sách về vốn nhân lực.
- Xác định quyền sở hữu tài sản và sự ổn định chính trị.
- Chính sách mở cửa nền kinh tế.
- Chính sách kiểm soát tăng dân số.
- Nghiên cứu và triển khai công nghệ mới.
Tăng trưởng bền vững: Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm
định nghĩa một sự phát triển về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự
tiếp tục phát triển trong tương lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng
tới nhiều quốc gia trên thế giới, mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội,

chính trị, địa lý, văn hóa riêng để hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc
gia đó.
Theo Brundtland: "Phát triển bền vững là sự phát triển thoả mãn những
nhu cầu của hiện tại và không phương hại tới khả năng đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ tương lai. Đó là quá trình phát triển kinh tế dựa vào nguồn tài nguyên được
tái tạo tôn trọng những quá trình sinh thái cơ bản, sự đa dạng sinh học và những
hệ thống trợ giúp tự nhiên đối với cuộc sống của con người, động vật và thực vật.
Qua các bản tuyên bố quan trọng, khái niệm này tiếp tục mở rộng thêm và nội
hàm của nó không chỉ dừng lại ở nhân tố sình thái mà còn đi vào các nhân tố xã
hội, con người, nó hàm chứa sự bình đẳng giữa những nước giàu và nghèo, và
giữa các thế hệ. Thậm chí nó còn bao hàm sự cần thiết giải trừ quân bị, coi đây là
điều kiện tiên quyết nhằm giải phóng nguồn tài chính cần thiết để áp dụng khái
niệm phát triển bền vững.
Như vậy, khái niệm "Phát triển bền vững" được đề cập trong báo cáo
Brundtlanđ với một nội hàm rộng, nó không chỉ là nỗ lực nhằm hoà giải kinh tế
và môi trường, hay thậm chí phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Nội
dung khái niệm còn bao hàm những khía cạnh chính trị xã hội, đặc biệt là bình
đẳng xã hội. Với ý nghĩa này, nó được xem là "tiếng chuông" hay nói cách khác
là "tấm biển hiệu” cảnh báo hành vi của loài người trong thế giới đương đại.
2.2.2. Khái niệm phát triển
Hiện nay, mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển. Phát triển kinh
tế được hiểu là quá trình tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Phát triển kinh tế
được xem như quá trình biến đổi cả lượng và chất, nó là sự kết hợp 1 cách chặt
chẽ quá trình hoàn thiện của 2 vấn đề về kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Như
vậy, phát triển phải là 1 quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế
quy định.
Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo 3 tiêu thức:
- Sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu nhập
trên 1 đầu người. Nó thể hiện quá trình biến đổi về lượng của nền kinh tế, là điều
kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của 1 quốc gia và thực hiện những mục

tiêu khác của phát triển.
- Sự biến đổi theo đúng xu hướng của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức phản
ánh sự biến đổi về chất. Hiện nay cơ cấu kinh tế thương được thay đổi theo
hướng: thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá; giảm vai trò của ngành nông nghiệp;
thay đổi sản phẩm thương mại; tăng cường ứng dụng vốn con người và vốn tri
15
thức trong sản xuất; tiến hành thay đổi thể chế. Để phân biệt các giai đoạn phát
triển hay đánh giá trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước, người ta thường dựa
vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế.
- Sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Đây là mục tiêu
cuối cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia. Đó là việc xoá bỏ nghèo
đói, suy dinh duỡng, sự tăng lên của tuổi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến
các dịch vụ y tế, văn hoá, giáo dục…
* Hoàn thiện các tiêu chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá trình
phát triển, và là mục tiêu mà bất kỳ quốc gia nào cũng mong muốn hướng tới.
2.2.3. Khái niệm phát triển bền vững
Theo thời gian, quan niệm về phát triển bền vững ngày càng được hoàn
thiện. Năm 1987, vấn đề về phát triển bền vững được Ngân hàng thế giới (WB)
đề cập lần đầu tiên, theo đó phát triển bền vững là: “…Sự phát triển đáp ứng các
nhu cầu hiện tại mà không làm nguy hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các
thế hệ tương lai”. Ngày nay, quan niệm về phát triển bền vững được đề cập một
cách đầy đủ hơn, bên cạnh yếu tố môi trường tài nguyên thiên nhiên, yếu tố môi
trường xã hội được đặt ra với ý nghĩa quan trọng. Hội nghị thượng đỉnh thế giới
về phát triển bền vững năm 2002 đã xác định: Phát triển kinh tế bền vững là quá
trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hoà giữa 3 mặt của sự phát
triển, gồm: tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi trường.
Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh tế ổn định;
thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên; bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống.
Đảng cộng sản Việt Nam đã thể hiện rất rõ quan điểm về phát triển bền

vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước tới năm 2010:
“Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững. tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường”, gắn sự phát triển kinh tế với giữ
vững ổn định chính trị xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng.
2.3. Các chỉ tiêu đánh giá tăng trưởng kinh tế
2.3.1. Tổng giá trị sản xuất(GO Gross output)
Tổng giá trị sản xuất (GO) là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo nên trên phạm vi lãnh thổ của một quốc gia trong một thời kì nhất định
(thường là một năm). Chỉ tiêu tổng giá trị sản xuất có thể được tính theo hai cách.
Thứ nhất, đó là tổng doanh thu bán hàng thu được từ các đơn vị, các ngành trong
toàn bộ nền kinh tế Quốc Dân. Thứ hai, tính trực tiếp từ sản xuất và dịch vụ gồm
chi phí trung gian (IC) và giá trị gia tăng của sản phẩm vật chất và dịch vụ (VA).
Công thức tính:
GO = Chi phí trung gian + giá trị gia tăng
= IC + VA
2.3.2. Tổng sản phẩm quốc nội(GDP_Gross domestic product)
16
Tổng sản phẩm quốc nội (GDP): Là tổng giá trị sản phẩm vật chất và dịch
vụ cuối cùng do kết quả hoạt động kinh tế trên pham vi lãnh thổ của một quốc gia
tạo nên trong một thời kì nhất định.
Để tính GDP, có ba cách tiếp cận cơ bản là từ sản xuất, tiêu dùng, phân
phối. Theo cách tiếp cận từ sản xuất, GDP là giá trị gia tăng tính cho toàn bộ nền
kinh tế. Nó được đo bằng tổng giá trị gia tăng của tất cả các đơn vị thường trú
trong nền kinh tế.
Như vậy: VAi = GOi - ICi
Trong đó: GOi là tổng giá trị sản xuất, ICi là chi phí trung gian của ngành
i.
Tiếp cận từ chi tiêu, GDP là tổng chi cho tiêu dùng cuối cùng của các hộ
gia đình (C), chi tiêu của chính phủ (G), đầu tư tích luỹ tài sản (I) và chi tiêu qua
thương mại quốc tế, tức là giá trị kim ngạch xuất khẩu trừ kim ngạch nhập khẩu

(X-M).
GDP = C + G + I + (X – M)
Nếu tiếp cận từ thu nhập, GDP đựơc xác định trên cơ sở các khoản hình
thành thu nhập và phân phối thu nhập lần đầu, bao gồm: Thu nhập của người có
sức lao động dưới hình thức tiền công và tiền lương (W); thu nhập của người có
đất cho thuê(R); thu nhập của người có tiền cho vay (In); thu nhập của người có
vốn (Pr); khấu hao vồn cố định (Dp) và cuối cùng là thuế kinh doanh (Ti).
GDP = W + R + In + Pr + Dp + Ti
2.3.3. Tổng thu nhập quốc dân(GNI_Gross national income)
Tổng thu nhập quốc dân(GNI): Đây là chỉ tiêu xuất hiện trong bảng SNA
năm 1993 thay cho chỉ tiêu GNP sử dụng trong bảng SNA năm 1968. Về nội
dung thì GNI và GNP là như nhau, tuy vậy khi sử dụng GNI là muốn nói theo
cách tiếp cận từ thu nhập chứ không phải nói theo góc độ sản phẩm sản xuất như
GDP. Hiểu theo khía cạnh trên, GNI là tổng thu nhập từ sản phẩm vật chất và
dịch vụ cuối cùng do công nhân của một nước tạo nên trong một khoảng thời
gian nhất định. Chỉ tiêu này bao gồm các khoản hình thành thu nhập và phân phối
lại thu nhập lần đầu có tính đến cả các khoản từ nước ngoài về và chuyển ra nước
ngoài. Như vậy, GNI hình thành từ GDP tiếp cận theo góc độ thu nhập và được
điều chỉnh theo con số chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài.
GNI = GDP + Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài
Chênh lệch thu nhập nhân tố với nước ngoài = Thu nhập lợi tức nhân tố
với nước ngoài - Chi trả lợi tức nhân tố ra nước ngoài.
Sự khác nhau về lượng giữa GDP và GNI là ở phần chênh lệch thu nhập
nhân tố với nước ngoài. Ở các nước đang phát triển thì GNI thường nhỏ hơn GDP
vì thông thường phần chênh lệch này nhận giá trị âm.
2.3.4.Thu nhập quốc dân(NI_National income)
Thu nhập quốc dân (NI): Là phần giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ mới
sáng tạo ra trong một khoảng thời gian nhất định.NI chính là tổng thu nhập quốc
dân (GNI) sau khi đã trừ đi khấu hao vốn cố định của nền kinh tế (Dp).
NI = GNI - Dp

2.3.5.Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI_Natonal disposable income)
17
Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI): Là phần thu nhập của cả quốc gia dành
cho tiêu dùng cuối cùng và tích luỹ thuần trong một thời kì nhất định. Chỉ tiêu
này được hình thành sau khi thực hiện phân phối thu nhập lần thứ hai, thực chất
nó là thu nhập quốc dân (NI) sau khi đã điều chỉnh các khoản thu, chi về chuyển
nhượng hiện hành giữa các đợn vị thường trú và không thường trú. Tuy vậy, xét
trên toàn bộ nền kịnh tế các chuyển nhượng hiện hành giữa các đơn vị thường trú
sẽ triệt tiêu nhau, vì nếu có một đơn vị chi thì sẽ có một đơn vị khác thu chuyển
nhượng. Vì vậy, NDI và NI sau khi điều chỉnh các khoản chuyển nhượng hiện
hành với nước ngoài.
NDI = NI + Chênh lệch về chuyển nhượng hiện hành với nước ngoài
Chênh lệch chuyển nhượng với nước ngoài = Thu chuyển nhượng hiện
hành với nước ngoài - Chi chuyển hiện hành ra nước ngoài
2.3.6.Thu nhập bình quân đầu người
Với ý nghĩa phản ánh thu nhập, chỉ tiêu GDP và GNI còn được sử dụng để
đánh giá mức thu nhập bình quân trên đầu người của mỗi quốc gia (GDP/người;
GNI/người). Chỉ tiêu này phản ánh tăng trưởng kinh tế có tính đến sự thay đổ dân
số. Quy mô và tốc độ tăng thu nhập bình quân dầu người là những chỉ báo quan
trọng phản ánh và là tiền đề để nâng cao mức sống dân cư nói chung. Sự gia tăng
liên tục với tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu này là dấu hiệu thể hiện sự tăng
trưởng bền vững và nó còn được sử dụng trong việc so sánh mức sống dân cư
giữa các quốc gia với nhau.
Theo dõi chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người có thể xác định khoảng
thời gian cần thiết nâng cao thu nhập lên gấp 2 lần dựa vào tỷ lệ tăng trưởng kinh
tế theo dự báo. Một phương pháp đơn giản và khá chính xác tiếp cận đến con số
này gọi là “luật 70” tức là thời gian để thu nhập dân cư tăng lên gấp 2 lần được
xác định xấp xỉ bằng 70 chia cho tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu
người hàng năm thao dự báo. Ví dụ như nếu tốc độ tăng trưởng thu nhập bình
quân đầu người một nước đặt ra là 5% 1năm thì sẽ đạt được mức tăng gấp 2 lần

sau khoảng 14 năm (70:5). Dự báo mức tăng thu nhập bình quân trên đầu người
có ý nghĩa quan trọng trong nghiên cứu xu hướng chuyển biến thu nhập của các
quốc gia từ nhóm này sang nhóm khac so với mức bình quân toàn thế giới.
II. Xem xét vai trò của đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế dưới góc
độ các mô hinh kinh tế:
1, Các mô hình cho rằng đầu tư kích thích tổng cung của nền kinh tế
1.1 Mô hình tăng trưởng kinh tế của phái cổ điển :
Theo Ricardo (1773 - 1823) thuộc trường phái cổ điển, nông nghiệp là
ngành kinh tế quan trọng nhất, từ đó ông cho rằng các yếu tố cơ bản của tăng
trưởng kinh tế là đất đai, lao động và vốn. Đây cũng là các yếu tố cấu thành tổng
cung nền kinh tế và trong từng ngành, theo 1 trình độ kĩ thuật nhất định các yếu
tố này kết hợp với nhau theo 1 tỉ lệ không thay đổi. Trong 3 yếu tố kể trên, đất
đai là yếu tố quan trọng nhất. Chính vì thế đất đai là giới hạn của tăng trưởng,
cũng là giới hạn của tổng cung.
18
Khi sản xuất nông nghiệp gia tăng trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì
giá lương thực thực phẩm tăng lên. Do đó tiền lương danh nghĩa của công nhân
cũng phải tăng theo tương ứng, lợi nhuận của các nhà tư bản có xu hướng giảm.
Nếu cứ tiếp tục như vậy đến khi lợi nhuận hạ thấp, ko bù đắp được rủi ro trong
kinh doanh làm cho nền kinh tế rơi vào bế tắc. Đây là tình trạng tổng cung nền
kinh tế bị giới hạn.
Trước tình hình đó, các nhà kinh tế đã đưa ra giải pháp gì để hạn chế sự
giới hạn? Ricardo cho rằng chỉ có thể giải quyết bằng cách xuất khẩu hàng công
nghiệp để mua lương thực rẻ hơn từ nước ngoài, hoặc phát triển công nghiệp để
tác động vào nông nghiệp. Tức là cần thiết nhất phải đầu tư sang ngành công
nghiệp từ đó tạo tiền đề phát triển nông nghiệp, đồng thời phát triển kinh tế. Như
vậy, đầu tư có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy tổng cung, giảm giới hạn
phát triển tổng cung, đặc biệt là đầu tư vào công nghiệp.
Tuy nhiên, những lý thuyết trên vẫn còn 1 số hạn chế. Các nhà kinh tế học
cổ điển vẫn cho rằng thị trường tự do được 1 bàn tay vô hình dẫn dắt để gắn lợi

ích cá nhân với lợi ích xã hội. Thị trường với sự linh hoạt của giá cả và tiền công
có khả năng điều chỉnh những mất cân đối của nền kinh tế, xác lập những cân đối
mới, tạo công ăn việc làm đầy đủ. Ngoài ra, Ricardo còn cho rằng chính phủ
không có vai trò gì trong phát triển kinh tế thậm chí chính sách của chính phủ có
khi còn hạn chế khả năng phát triển kinh tế. Như vậy, Ricardo chưa nhìn ra vai
trò cần thiết của nhà nước, cũng như những chính sách đầu tư phát triển của nhà
nước.
1.2. Mô hình tăng trưởng kinh tế của Marx (1818 - 1883)
Theo Marx các yếu tố tác động đến quá trình tái sản xuất là đất đai, lao
động vốn và tiến bộ kĩ thuật. Trong đó, Marx đặc biệt quan tâm đến vai trò của
lao động trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Ngoài ra, với yếu tố sản xuất kĩ
thuật Marx phân tích mục đích của nhà tư bản là tăng giá trị thặng dư cho nên họ
tìm cách tăng thời gian làm việc của công nhân, hoặc là nâng cao năng suất lao
động bằng cải tiến kỹ thuật. Trong đó cải tiến kĩ thuật là quan trọng nhất vì 2
phương án đầu đều có giới hạn. Muốn cải tiến kĩ thuật thường xuyên và có hiệu
quả, các nhà tư bản phải có 1 nguồn vốn cần thiết và đầy đủ. Đây chính là tầm
quan trọng của vốn đầu tư trong tích luỹ cho tái sản xuất, từ đó tăng năng suất lao
động, tăng tổng cung nền kinh tế.
Marx còn cho rằng giữa cung và cầu luôn có 1 khoảng cách. Để giải quyết
khoảng cách này, cần thiết phải có tích luỹ sản xuất, tích luỹ hàng hoá. Đây cũng
là hoạt động đầu tư hàng tồn trữ. Cũng theo ông, sau khi trải qua giai đoạn khủng
hoảng có chu kỳ, để tiếp tục phát triển các nhà tư bản phải tiến hành đổi mới tư
bản cố định với quy mô lớn làm cho nền kinh tế tiến đến phục hồi, hưng thịnh.
Để đổi mới được tư bản cố định, các nhà tư bản cũng nhất thiết cần có hoạt động
đầu tư đổi mới công nghệ. Đây cũng chính là vai trò của đầu tư trong tăng
trưởng kinh tế.
1.3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của phái tân cổ điển :
Các nhà kinh tế tân cổ điển đã giải thích nguồn gốc sự tăng trưởng thông
qua hàm sản xuất Cobb - Douglas :
19

Y= f (K,L, R,T)
Trong đó: Y Đầu ra
K Vốn sản xuất
L Lao động
R Tài nguyên
T Khoa học công nghệ
Đây cũng chính là các yếu tố cấu thành nên tổng cung nền kinh tế. Cũng
qua hàm sản xuất này, ta thấy vai trò của vốn đầu tư:
g = t + aK + bL + cR
Trong đó : g tốc độ tăng trưởng kinh tế
a,b,c tốc độ tăng trưởng của vốn, lao động và đất đai
Qua đó ta thấy rằng sự tăng trưởng của yếu tố vốn cũng như yếu tố đầu tư
góp phần vào tăng trưởng kinh tế nói chung.
Hạn chế của lý thuyết này cũng là chưa thấy được vai trò của chính phủ
trong tăng trưởng kinh tế. Vai trò này cũng còn rất mờ nhạt trong nền kinh tế.
1.4. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái Keynes :
Keynes đã rất coi trọng vai trò của đầu tư trong tăng trưởng kinh tế. Dựa
vào tư tưởng của ông, 2 nhà khoa học Harrod và Domar đã đưa ra mô hình giải
thích mối quan hệ giữa sự tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô
hình cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan
hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kì 1
đơn vị kinh tế nào, dù là 1 công ty, 1 doanh nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ
thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Mô hình cũng chỉ ra nguồn gốc của đầu tư,
mối quan hệ giữa vốn đầu tư và vốn sản xuất. Theo 2 ông thì tiết kiệm luôn là
nguồn gốc của đầu tư, nên về lý thuyết đầu tư luôn bằng tiết kiệm. Đồng thời đầu
tư chính là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất. 2 ông đã thiết lập mối quan hệ như sau:
- Đầu tư = tiết kiệm => s = đầu tư/sản lượng
- Đầu tư = vốn sản xuất => k = đầu tư/mức tăng trưởng
Từ đó 2 ông xây dựng được mô hình:
g = s/k

Trong đó : g tốc độ tăng trưởng kinh tế
s tỉ lệ tiết kiệm trong GDP
k hệ số ICOR
Hệ số ICOR còn được gọi là hệ số gia tăng vốn đầu ra (là tỷ số gia tăng
giữa vốn và đầu ra), thể hiện rằng: vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản
của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư.
Hệ số này hiện nay là thước đo quan trọng của các nước đang phát triển về việc
sử dụng hiệu quả vốn. Nó thể hiện vai trò quan trọng của vốn cũng như của đầu
tư tới sự tăng trưởng và phát triển.
Hạn chế của trường phái: Mô hình Harrod - Domar chỉ ra sự tăng trưởng
kinh tế là do kết quả của tương tác giữa tiết kiệm và đầu tư và đầu tư là động lực
cơ bản của tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên trên thực tế thì tăng trưởng kinh tế có
thể xảy ra không phải vì lý do tăng đầu tư, hoặc ngược lại, nếu đầu tư có hiệu quả
vẫn có thể dẫn đến không có sự tăng trưởng. Và kể cả trong trường hợp đầu tư có
20
hiệu quả thì cũng chỉ có thể tạo nên sự gia tăng trong tốc độ tăng trưởng trong
ngắn hạn, chứ không thể đạt được trong dài hạn.
1.5. Căn cứ vào các lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái hiện đại:
Những yếu tố tác động đến tổng cung của nền kinh tế theo trường phái
hiện đại: Nguồn lao động, vốn sản xuất, tài nguyên thiên nhiên và khoa học công
nghệ. Các yếu tố này được kế thừa từ trường phái tân cổ điển, và cũng thống nhất
với hàm sản xuất Cobb_Douglas về những yếu tố tác động đến tăng trưởng.
g = t + aK + bL + cR
Samuelson gọi những yếu tố này là nguồn gốc của sự tăng trưởng. Và 1 nét
đặc trưng quan trọng của nền kinh tế hiện đại là “ kỹ thuật công nghiệp tiên tiến
hiện đại dựa vào việc sử dụng vốn lớn”. Do đó, vốn được coi là cơ sở để phát huy
tác dụng của các yếu tố khác.
Mặt khác, 1 mặt tiến bộ trong trường phái kinh tế hiện đại là ngày càng coi
trọng vai trò của Chính phủ trong đời sống kinh tế. Theo Samuelson, trong nền
kinh tế hỗn hợp hiện đại, Chính phủ có 4 chức năng cơ bản: thiết lập khuôn khổ

pháp luật, xác định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô, tác động vào việc phân bổ
tài nguyên để cải thiện hiệu quả kinh tế, thiết lập các chương trình tác động tới
việc phân phối thu nhập. Qua các chức năng này, đặc biệt là các chức năng về
kinh tế, Chính phủ đã thể hiện vai trò quan trọng của mình trong thúc đẩy các
hoạt động đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư, và qua đó ta thấy được vai
trò của đầu tư trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
2. Đầu tư kích thích tổng cầu nền kinh tế:
2.1. Vai trò của tổng cầu trong tăng trưởng kinh tế:
Các lý thuyết của trường phái kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ
yếu quan tâm đến vấn đề tổng cung, coi tăng tổng cung cũng chính là tăng trưởng
kinh tế. Tuy nhiên bắt đầu vào những năm 30 của thế kỷ XX, các cuộc khủng
hoảng kinh tế diễn ra thường xuyên và nghiêm trọng. Trước hoàn cảnh đó trường
phái Keynes ra đời đánh dấu 1 sự phát triển mới của các lý thuyết kinh tế. Lý
thuyết này đã nhấn mạnh đến tổng cầu, coi tổng cầu cũng như tổng cung là yếu tố
quyết định đến tăng trưởng kinh tế.
Keynes cho rằng tiêu dùng có vai trò quan trọng trong việc xác định sản
lượng. Theo ông, thu nhập của các cá nhân được sử dụng cho tiêu dùng và tích
lũy. Khi mức thu nhập tăng thì tiêu dùng có xu hướng giảm và tiết kiệm có xu
hướng tăng. Việc giảm xu hướng tiêu dùng sẽ làm cho cầu tiêu dùng giảm, và
đây chính là 1 trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự trì trệ trong hoạt động
kinh tế. Ông lý giải điều này như sau: Cầu tiêu dùng giảm dẫn đến hàng hóa ế
thừa, không bán được. Trước tình hình đó, các nhà kinh tế bi quan về nền kinh tế
sẽ giảm qui mô sản xuất, đồng thời thất nghiệp xảy ra, tệ nạn xã hội gia tăng. Tất
cả những nguyên nhân đó sẽ làm tổng nền kinh tế trở nên trì trệ và tất yếu sẽ dẫn
đến khủng hoảng.
Mặt khác cũng từ những lý luận trên ta thấy rằng khi cầu tiêu dùng tăng
lên,các doanh nghiệp sẽ tích cực sản xuất, từ đó nâng cao tổng cung. Như vậy,
tổng cầu kích thích tổng cung của nền kinh tế và tạo ra 1 mức sản lượng cân bằng
mới cao hơn mức sản lượng cũ. Và như vậy nền kinh tế đã tăng trưởng.
21

2.2. Vai trò của đầu tư với tổng cầu:
2.2.1. Vai trò của đầu tư với tổng cầu thông qua mô hình số nhân của Keynes:
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Cụ thể như
sau: mỗi sự gia tăng của vốn đầu làm tăng nhân công và tư liệu sản xuất, từ đó
dẫn đến sự gia tăng của nhu cầu tiêu dùng và kéo theo đó là thu nhập. Thu nhập
gia tăng lại làm tăng sự đầu tư mới. Quá trình này lặp đi lặp lại, kết quả là thu
nhập sẽ gia tăng theo cấp số nhân nhờ sự gia tăng của đầu tư. Đó là nội dung của
mô hình số nhân.
k = dR/dI = dR/dS = 1/(1- dC/dR )
Trong đó k hệ số nhân đầu tư
dR sự gia tăng thu nhập
dI sự gia tăng đầu tư
dS sự gia tăng tiết kiệm
dC sự gia tăng tiêu dùng
2.2.2. Vai trò của đầu tư thông qua các chính sách kinh tế:
Qua phân tích tổng quan về việc làm, Keynes đã đi đến kết luận, muốn
thoát khỏi khủng hoảng, thất nghiệp, Nhà nước phải thực hiện điều tiết bằng các
chính sách kinh tế, những chính sách này nhằm nâng cao cầu tiêu dùng, đồng thời
kích thích đầu tư. Theo ông nhà nước nên sử dụng ngân sách để kích thích đầu tư
thông qua các đơn đặt hàng và trợ cấp vốn cho các doanh nghiệp. Ông đánh giá
cao vai trò của các chính sách tài khóa và tiền tệ. Ông tán thành đầu tư của chính
phủ vào công trình công cộng, đồng thời cũng phải đẩy mạnh và khuyến khích
đầu tư của khu vực tư nhân.
Như vậy các chính sách của nhà nước có vai trò quan trọng trong việc
khuyến khích đầu tư, tăng cầu tiêu dùng và từ đó sản xuất phát triển - là nhân tố
quyết định đến tăng trưởng kinh tế.
3. Đầu tư là cú huých bên ngoài thoát khỏi vòng luẩn quẩn:
Mô hình vòng luẩn quẩn của Samuelson:
Theo ông các nước có trình độ kinh tế phát triển thấp thường rơi vào vòng
luẩn quẩn. Vòng luẩn quẩn này đưa các nước đang phát triển từ mức phát triển

thấp đến thấp hơn, và gần như không thoát ra nổi tình trạng đó.
Tiết kiệm và đầu tư thấp

Thu nhập bình quân thấp Tốc độ tích lũy vốn thấp


Năng xuất thấp

22
Vậy phải có những giải pháp gì để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó?
Samuelson cho rằng, giải pháp duy nhất để thoát khỏi vòng luẩn quẩn đó là cú
huých từ bên ngoài, cũng có nghĩa là đầu tư nước ngoài. Đầu tư nước ngoài chính
là cú huých mạnh nhất, có hiệu quả nhất. Muốn vậy, các nước đang phát triển
phải tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích đầu tư nước ngoài, cụ thể
bằng các chính sách của nhà nước, bằng môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư.
Đây chính là vai trò quan trọng của đầu tư nước ngoài trong việc thúc đẩy kinh tế
của các nước đang phát triển.
4. Tác động của đầu tư nước ngoài tới khoa học và công nghệ:
* Lý thuyết đầu tư nước ngoài của Vernon về chu kì sống của sản phẩm:
Đầu tư nước ngoài giúp chuyển giao công nghệ từ các nước phát triển sang
các nước đang phát triển cần khoa học công nghệ. Mà như ta đã biết, khoa học
công nghệ có vai trò vô cùng to lớn với sự tăng trưởng của các nước đang phát
triển.
Mô hình của Vernon đã chỉ ra rằng: đầu tư đổi mới công nghệ giúp tạo ra
sản phẩm mới, từ đó tăng lợi nhuận, rồi sản xuất phát triển, thúc đẩy quá trình
thương mại hóa. Và đến một mức nhất định nào đó, sẽ có thể đầu tư ra nước
ngoài, sự đầu tư này là khâu cốt yếu để chuyển giao công nghệ.
Như vậy, nhờ có đầu tư nước ngoài mà các nước đang phát triển sẽ nhận
được những công nghệ mới, nâng cao hiệu quả sản xuất trong nước, thúc đẩy quá
trình tăng trưởng và phát triển.

5. Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
5.1. Mô hình các giai đoạn của Rostow:
Theo ông quá trình phát triển kinh tế của 1 quốc gia phải trải qua 5 giai
đoạn: xã hội truyền thống, chuẩn bị cất cánh, cất cánh, trưởng thành và cuối cùng
là tiêu dùng cao. Ứng với mỗi giai đoạn là 1 dạng cơ cấu ngành kinh tế đặc trưng.
Giai đoạn 1: Xã hội truyền thống: Sản xuất nông nghiệp thống trị nền kinh
tế, năng suất lao động thấp, tích lũy thấp, nói chung nền kinh tế chưa có những
biến đổi mạnh.
Giai đoạn 2: Chuẩn bị cất cánh: Bước đầu phát triển công nghiệp, khoa học
công nghệ bắt đầu được áp dụng. Nhu cầu đầu tư tăng lên, thúc đẩy sự hoạt động
của ngân hàng và các tổ chức huy động vốn.
Giai đoạn 3: Cất cánh: Đây là giai đoạn trung tâm trong các giai đoạn phát
triển. Đầu tư đã thực sự phát triển với các yếu tố huy động vốn được thúc đẩy
mạnh mẽ: tỉ lệ tiết kiệm tăng lên, ít nhất chiếm 10% trong thu nhập quốc dân
thuần túy . Ngoài vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư nước ngoài cũng có ý nghĩa
quan trọng giúp thúc đẩy các ngành công nghiệp mũi nhọn - là 1 yếu tố chủ đạo
trong phát triển các ngành kinh tế khác.
Giai đoạn 4: Trưởng thành: Giai đoạn này đã đánh dấu sự phát triển vượt
bậc của đầu tư. Cụ thể là, tỷ lệ đầu tư tăng lên liên tục, tới 20% thu nhập kinh tế
quốc dân thuần túy. Khoa học công nghệ được ứng dụng cho toàn bộ nền kinh tế,
nhiều ngành công nghiệp mới hiện đại phát triển.
Giai đoạn 5: Tiêu dùng cao: Giai đoạn cao nhất của sự phát triển được thể
hiện qua thu nhập bình quân đầu người tăng cao.
23
Tóm lại, qua mỗi giai đoạn phát triển, đầu tư lại càng thể hiện rõ hơn vai
trò của nó, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều hướng phát triển hơn.
5.2. Mô hình 2 khu vực của Lewis
Mô hình của Lewis mô tả sự vận động của 2 khu vực kinh tế: khu vực
truyền thống (nông nghiệp) và khu vực hiện đại (công nghiệp).
Do ảnh hưởng từ Ricardo, Lewis cũng cho rằng đất đai là giới hạn của tăng

trưởng, do đó nông nghiệp cũng bị đình trệ, lao động trong nông nghiệp trở nên
dư thừa. Để giảm bớt sự dư thừa lao động vô ích này, phải có sự tham gia của
công nghiệp, trước hết là để tận dụng những lao động dư thừa, sau là để tạo điều
kiện cho nông nghiệp phát triển. Vai trò của đầu tư chính ở chỗ tạo điều kiện cho
công nghiệp phát triển. Khi công nghiệp phát triển đến mức độ cần thiết đầu tư
cho nông nghiệp, khi đó cả 2 ngành sẽ phát triển và nền kinh tế sẽ phát triển
mạnh mẽ.
CH ƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG VỀ ĐẦU TƯ VÀ TĂNG TRƯỞNG PHÁT
TRIỂN KINH TẾ TRONG GIAI ĐOẠN 2000 - 2007
I.Tổng quan về nền kinh tế Việt Nam
1.Tình hình tăng trưởng và phát triển
24
1.1. Thành tựu
Sau gần 22 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu.
Việt Nam đã có những nỗ lực trong việc chuyển sang hệ thống kinh tế thị trường
có sự quản lý điều tiết của nhà nước. Thông qua quá trình hội nhập, các DN và
nền kinh tế nước ta đã từng bước làm quen và tham gia thực sự vào cuộc cạnh
tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các
DN Việt Nam, các DN phải nỗ lực vươn lên để tồn tại và phát triển. Sau năm
1986, kinh tế Việt Nam đã có những bước phát triển to lớn và đạt được tốc độ
tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 9% hàng năm từ 1993 đến 1997. Năm
1998, tăng trưởng GDP giảm xuống 4% do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
kinh tế châu Á năm 1997, sau đó lại tăng lên đến 4,8% năm 1999. Trong những
năm 2000 - 2003, tăng trưởng GDP tăng từ 6% đến 7% trong khi tình hình kinh
tế thế giới đang suy thoái. Năm 2004, mức tăng GDP là 7,7% và năm 2005 là
8,4%, trong đó khu vực nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản tăng 4%, khu vực
công nghiệp và xây dựng tăng 11% và khu vực dịch vụ tăng 8%. Nền kinh tế
Việt Nam đang diễn ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách rõ rệt, khu vực
nông nghiệp đã giảm từ 21,7% năm 2004 xuống 19% năm 2005 trong khi khu

vực công nghiệp và dịch vụ tăng từ 40,1% năm 2004 lên 41% và khu vực dịch vụ
tăng từ 38,2% lên 39%. Tốc độ tăng trưởng trung bình giai đoạn 2003 - 2007 đạt
8,04%. Tốc độ tăng trưởng của chúng ta trong năm 2007 trong khu vực chỉ đứng
sau Trung Quốc (theo đánh giá của Ngân hàng Phát triển châu Á – ADB).
Trong năm 2007 cả ba khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản, công nghiệp -
xây dựng và dịch vụ đều nỗ lực vượt qua khó khăn để đóng góp vào tăng trưởng
chung của cả nền kinh tế. Trong đó, dịch vụ được xem là điểm sáng nhất. Nếu
như năm 2006, khu vực này tăng trưởng với mức 8,29% thì năm nay đạt 8,68%.
Cơ cấu đóng góp trong GDP cũng nâng từ mức 38,08% năm ngoái, lên 38,14%.
Tỷ trọng đóng góp của công nghiệp và xây dựng trong GDP cũng cải thiện hơn
năm 2006, chiếm 41,61% (so với con số 41,52% năm ngoái). Tốc độ tăng trưởng
của khu vực này năm 2007 đạt 10,6% (tăng nhẹ so với mức 10,37% cùng kỳ).
Khu vực nông nghiệp gặp khó khăn do thiên tai và dịch bệnh, song không sa sút
so với năm 2006, đạt tốc độ tăng trưởng 3,41% (kết quả của năm ngoái là 3,4%).
Tuy nhiên, tỷ trọng đóng góp trong GDP giảm từ mức 20,40% năm ngoái xuống
20,25% trong năm 2007. Kim ngạch xuất khẩu đạt 48,4 tỷ USD. Nhập siêu hàng
hóa đang chiếm tới 25,7% giá trị xuất khẩu và lớn gấp gần 2,5 lần mức nhập siêu
của năm 2006. Cán cân thương mại ngày càng nghiêng về phía nhập khẩu. Tuy
nhiên hàng hoá nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam là máy móc. Lượng máy móc
này chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng nhập khẩu của Việt Nam. Nợ nước ngoài
giảm xuống còn 30,3% so với năm 2006 là 37,3%. Đầu tư tiếp tục tăng do kinh tế
Việt Nam đang trong đà phát triển và chính trị Việt Nam được đánh giá là ổn
định. Nhưng khi bắt đầu năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng năng
lượng dẫn tới nền kinh tế toàn cầu giảm tăng trưởng và Việt nam cũng không
nằm ngoài vòng giảm tăng trưởng ấy. Lạm phát tiếp tục tăng cao và nhanh chóng
đưa chỉ số giá tiêu dùng tăng cao. Nhưng nhờ có chính sách đúng đắn đặc biệt là
sự kiên quyết trong chính sách thắt chặt tiền tệ Việt Nam đã dần quay lại con
đường phát triển tăng truởng của mình. Theo dự đoán của ngân hàng phát triển
25

×