Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Đề tài "Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước" pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (316.16 KB, 49 trang )

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
Đ ề tài
"Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
và tình hình đầu tư phát triển trong
doanh nghiệp nhà nước"
1
MỤC LỤC
BÁO CÁO TỐT NGHIỆP 1
Đề tài 1
"Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp và tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà
nước" 1
MỤC LỤC 2
Lời mở đầu
Trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay,khi vừa gia nhập WTO còn gặp nhều
khó khăn và thử thách, cũng theo đánh giá của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX về định hướng phát triển các thành phần và các vùng kinh tế ở nước ta trong
giai đoạn 2001 – 2010, Đảng ta khẳng định cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển kinh
tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực
lượng vật chất quan trọng và là công cụ quan trọng để Nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô nền kinh tế; tập trung đầu tư cho kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và một số
cơ sở công nghiệp quan trọng. Doanh nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền
kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, nêu gương về năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Phát triển doanh nghiệp nhà
nước trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, xây dựng các công ty nhà
2
nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế,đưa nước ta đi lên,hội nhập kinh tế thế giới
và khu vực.
Với vị trí của các doanh nghiệp đang ngày càng được khẳng định trong nền kinh tế
quốc dân, mà đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước thì nội dung đầu tư phát triển đã trở
thành một vấn đề cần phải được quan tâm hàng đầu. Trong thời gian qua đầu tư phát


triển trong doanh nghiệp đã đạt được những kết quả to lớn, đã đưa nền kinh tế tiến
thêm những bước thêm vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá
đất nước. Tuy nhiên đầu tư phát triển có hiệu quả hay không cũng vẫn tồn tại nhiều
vướng mắc trong các doanh nghiệp. Vì vậy, dưới sự hướng dẫn của thầy, TS.Từ
Quang Phương, nhóm chúng tôi là nhóm 13-lớp Đầu tư 48A đã chọn đề tài về “Đầu
tư phát triển trong doanh nghiệp và tình hình đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
nhà nước” Trong quá trình thực hiện đề tài,có thể còn có nhiều thiếu sót, nhóm chúng
tôi rất mong muốn nhận được sự góp ý và bổ sung của thầy. Và chúng tôi xin chân
thành cảm ơn những góp ý, bổ sung của TS.Từ Quang Phương và các bạn để đề tài
được hoàn thiện hơn.
Chương 1
Lý luận chung về đầu tư phát triển trong
doanh nghiệp
I-Các vấn đề cơ bản về đầu tư phát triển
1. Định nghĩa
Trong thực tế quản lý kinh tế hiện nay ở nước ta nhiều nhà kinh tế còn có sự nhầm lẫn
giữa đầu tư phát triển với các loại đầu tư khác. Điều này là một nguyên nhân dẫn đến thực
3
trạng là khi tổng kết đánh giá kết quả và hiệu quả của đầu tư phát triển không thống nhất, mỗi
cơ quan quản lý đưa ra những số liệu khác nhau, gây khó khăn cho quá trình hoạch định chính
sách và kế hoạch hoá tiếp theo. Do đó, chúng ta cần phải hiểu rõ về đầu tư phát triển.Trước
hết, chúng ta phải làm rõ bản chất của các hoạt động đầu tư nói chung.
Đầu tư là một hoạt động kinh tế của đất nước; một bộ phận của hoạt động sản xuất kinh
doanh của cơ sở, một vấn đề trong cuộc sống được mọi gia đình, mọi cá nhân quan tâm khi có
điều kiện nhằm tăng thu nhập và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của bản thân và gia
đình. Nhìn dưới góc độ của nhà đầu tư thì đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào
một hoạt động nào đó nhằm đem lại lợi ích cho chủ đầu tư trong tương lai.Bản chất thuật ngữ
“đầu tư” là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy sinh sự chi
phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động, ) để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong tương lai (như thu về được

số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra, có thêm nhà máy, trường học, bệnh viện, máy móc thiết bị,
sản phẩm được sản xuất ra, tăng thêm sức lao động bao gồm cả số lượng và trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và sức khoẻ).
Vậy,đầu tư phát triển là bộ phận cơ bản của đầu tư,là việc sử dụng vốn trong hiện tại
và hoạt động nào đó,là việc đánh đổi lợi ích trước mắt lấy lợi ích lâu dài nhằm tạo ra những
tài sản mới,năng lực sản xuất mới và vì mục tiêu phát triển.
Xét về bản chất,đầu tư phát triển chính là đầu tư tài sản vật chất (nhà xưởng,thiết bị )
và tài sản trí tuệ (tri thức,kĩ năng,sức lao động ) trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến
hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra tài sản mới cho mình đồng thời cho cả nền
kinh tế, từ đó làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động sản xuất khác, là điều
kiện chủ yếu tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là
việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và
lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường
xuyên gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì hoặc tăng thêm tiềm lực
hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và bổ sung tài sản.
2. Phân loại đầu tư phát triển
Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện
nhằm đạt những mục tiêu nhất định.Tùy từng quan điểm,tùy từng góc độ xem xét có thể chia
đầu tư phát triển thành nhiều loại.Trên quan điểm phân công lao động xã hội,có hai nhóm đối
tượng đầu tư chính là đầu tư theo ngành và đầu tư theo lãnh thổ.Trên góc độ tính chất và mục
đích đầu tư,đối tượng đầu tư chia làm hai nhóm chính là đầu tư công trình vì mục tiêu lợi
nhuận và đầu tư công trình vì mục tiêu phi lợi nhuận. Trên góc độ xem xét mức độ quan
trọng, đối tượng đầu tư chia làm thành:loại được khuyến khích đầu tư, loại không được
khuyến khích đầu tư và loại bị cấm đầu tư. Từ góc độ tài sản,đối tượng đầu tư chia thành:
những tài sản vật chất (tài sản thực) là những tài sản cố định được sử dụng cho sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp,của nền kinh tế và có cả những tài sản lưu động;và những tài sản vô
hình như phát minh sáng chế, uy tín, thương hiệu
II- Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
1. Khái niệm
Đầu tư phát triển có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một quốc gia,là một lĩnh

vực hoạt động nhằm tạo ra và duy trì sự hoạt động của các cơ sở vật chất,kỹ thuật của nền
4
kinh tế. Đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, hoạt động đầu tư là một bộ phận trong
hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật mới ,duy trì sự hoạt
động của cơ sở vật chất ,kỹ thuật hiện có. Và vì thế,là điều kiện để phát triển sản xuất kinh
doanh dịch vụ của các doanh nghiệp. Do đó, đầu tư phát triển có vai trò hết sức quan trọng
đối với doanh nghiệp.
Vậy,đầu tư phát triển trong doanh nghiệp là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài
chính,nguồn lực vật chất.nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng ,sửa chữa nhà cửa và cấu
trúc hạ tầng ,mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ,bồi dưỡng đào tạo nguồn
nhân lực ,thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm
duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế -xã hội,tạo ra việc làm và nâng cao đời sống của mọi
thành viên trong xã hội .
2. Đặc điểm của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
Hoạt động đầu tư phát triển có các đặc điểm khác biệt với các loại hình đầu tư khác ,đó
là:
a. Hoạt động đầu tư phát triển đòi hỏi một số vốn lớn và để nằm khê đọng trong suốt quá
trình thực hiện đầu tư.Đây là cái giá phải trả khá lớn của hoạt động đầu tư phát triển
Bởi trong suốt quá trình đầu tư nó vẫn nằm dưới dạng các công trình dở dang .Do vốn lớn
nên các nhà đầu tư cần phải cân nhắc lựa chọn đầu tư vào đâu cho có hiệu quả cao nhất,phải
nghiên cứu thị trường…
Vốn lớn nằm khê đọng trong suốt quá trình đầu tư nên ảnh hưởng đến chi phí sử dụng ,quản
lý vốn (thời gian,chi phí ,kết quả,chất lượng) và khả năng cạnh tranh trên thị trường nếu vốn
nằm khê đọng quá dài thì sẽ bỏ lỡ thời cơ và cơ hội cạnh tranh
b, Hoạt động đầu tư phát triển mang tính chất lâu dài :
-Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khia các thành quả của nó phát huy
tác dụng thường kéo dài trong nhiều năm tháng. Nó phụ thuộc vào giai đoạn thực hiện đầu tư.
-Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ vốn hoặn thanh lý tài sản
cũng kéo dài. Điều này chịu tác động của cung cầu thị trường, của các yếu tố đầu vào hay đầu
ra của dự án.

-Thời gian thực hiện đầu tư dài còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố không dự đoán ảnh
hưởng đến quá trình thực hiện: môi trường, điều kiện tự nhiên .pháp lý.kinh tế ,chính trị. Điều
này có thể thay đổi kết quả và hiệu quả của đầu tư.
c,Thời gian của hoạt động đầu tư phát triển kéo dài nên mang tính rủi ro cao.Vì vậy cần
phải phân tích kỹ để loại trừ hạn chế tới mức thấp nhất các rủi ro như:
-Trong trường hợp rủi ro nhất thì hiệu quả của dự án là bao nhiêu;những rủi ro nào có thể
xảy ra nhất.
-Trong trường hợp thuận lợi nhất thì hiệu quả đạt được bao nhiêu để bù lại trong trường
hợp rủi ro.
5
Tuy nhiên đối với những yéu tố rủi ro bất định, bất khả kháng thì chúng ta phải chấp nhận
d, Các thành quả của các hoạt động đầu tư phát triển có giá trị sử dụng lâu dài nhiều năm,có
khi hàng năm ,hàng ngàn năm và thậm chí tồn tại vĩnh viễn như các công trình nổi tiếng thế
giới (Kim tự tháp cổ Aicập, Nhà thờ La Mã ở Rôm, Vạn lý thường thành ở Trung
Quốc,Ăngcovat của Cămpuchia…). Điều này nói lên giá trị lớn của các thành quả hoạt động
đầu tư phát triển .
e, Các thành quả của hoạt động đầu tư phát triển là các công trình xây dựng sẽ hoạt động ở
ngay nơi mà nó được tạo dựng nên.
Do đó các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện
đầu tư cũng như tác dụng sau này của các kết quả đầu tư.
Thí dụ: qui mô đầu tư để xây dựng nhà máy sang tuyển than ở khu vực có mỏ than tùy
thuộc rất nhiều vào trữ lượng của mỏ than.Nếu trữ lượng than của mỏ ít thì qui mô của nhà
máy cũng không nên lớn để đảm bảo cho nhà máy hang năm hoạt động hết công suất với số
năm tồn tại của nhà máy theo dự kiến trong dự án.
Vì thế cần có chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư đúng đắn và đầu tư phải theo quy
hoạch ,kế hoạch ,cần phải có cơ sở khoa học để lựa chọn địa điệm thực hiện dự án để có thể
khai thác tối đa lợi thế của địa diểm mà doanh nghiệp hoạt động trên đó. Nếu công trình
không tiến hành cẩn thận có thể ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế không chỉ một hai năm
mà lâu dài.
f, Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao đòi hỏi phải

làm tốt công tác chuẩn bị .
Sự chuẩn bị này được thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư(lập dự án đầu tư)có
nghĩa là phải thực hiện đầu tư theo dự án dược soạn thảo với chất lượng tốt. Đó là quá trình
thực hiện đầu tư và quá trình vận hành khai thác .
- Quá trình thực hiện đầu tư ảnh hưởng đến việc lựa chọn địa điểm, đến giá thành chi phí xây
dựng (giá đất) như chọn những nơi địa hình bằng phẳng sẽ giảm đựoc chi phí san bằng
- Quá trình vận hành khai thác ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn cao nếu địa lý thuận lợi.
Phải cân đối giữa giá thành xây dựng công trình ,chi phí vận chuyển và chi phí cung cấp sản
phẩm với khả năng tiêu thụ yếu tố đầu ra.
- Ngoài ra việc lựa chọn địa điểm còn ảnh hưởng đến dân cư,địa bàn,môi trường sống
3. Nội dung của đầu tư phát triển trong doanh nghiệp
3.1 Đầu tư vào hàng dự trữ và tạo ra tài sản cố định.
a) Hàng dự trữ
Ta có thể nói một cách đơn giản hàng dự trữ của doanh nghiệp bao gồm tồn kho nguyên
vật liệu, bán thành phẩm và thành phẩm. Tuy nhiên trên thực tế để nghiên cứu kĩ về vấn đề
này cần phải tiếp cận nó ở những góc độ khác nhau và đặt trong những mối quan hệ cụ thể.
6
* Nguyên nhân cần thiết phải đầu tư vào dự trữ:
Xuất phát từ vai trò của hàng dự trữ đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, ta
có thể nó được sử dụng để đảm bảo sự ổn định cho sản xuất và đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Vì vậy đàu tư vào hàng dự trữ lag việc không thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi doanh nghiệp: Dựa trên cơ sở lý luận, vai trò của hàng dự trữ có bốn mặt chủ yếu,
biểu hiện cụ thể ở bốn loại hàng tồn kho cơ bản:
- Quay vòng tồn kho: mỗi khi sản xuất và đặt hàng là một lần đặt ra số lượng lô nhất định,
mà không phải là mỗi lần một lô, kiểu tồn kho được hình thành từ tính chu kỳ của số lượng lô
được gọi là quay vòng tồn kho.
- Lượng tồn kho dự phòng: hay còn gọi là lượng tồn kho bảo hiểm, là lượng tồn kho nhất
định mà nhà sản xuất chuẩn bị để ứng phó với tính không ổn định của nhu cầu và tính không
ổn định của cung ứng, nhằm tránh sự tổn thất do thiếu hàng gây nên. Nếu như nhà sản xuất có
thể dự toán được về sự thay đổi về nhu cầu trong tương lai hoặc có thể xác định được số

lượng và thời gian hàng tương ứng, thì không cần phải thiết lập lượng tồn kho dự phòng. Số
lượng tồn kho dự phòng ngoài việc chịu ảnh hưởng của sự bất ổn định về nhu cầu và cung
ứng, còn liên quan đến việc doanh nghiệp hy vọng đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng.
Đây là nhân tố xem xét chính khi đưa ra quyết sách cề lượng tồn kho dự phòng.
- Tồn kho vận chuyển: là sự tồn kho giữa hai đơn vị công tác hoặc hai tổ chức tiêu thụ gần
nhau, bao gồm lượng tồn kho trong quá trình vận chuyển và lượng tồn kho tạm dừng giữa hai
nơi.Tồn kho vận chuyển được quyết định bởi số lượng lô vận chuyển và thời gian vận chuyển.
- Lượng tồn kho dự định theo thời kỳ: do đặc điểm mang tính thời vụ của nhu cầu hoặc tính
thời vụ của việc mua sắm, nên doanh nghiệp buộc phải sản xuất, tích trữ và bán hàng vào mùa
bán ế để duy trì và tăng cường phục vụ khách hàng vào mùa bán hàng chạy, hoặc tăng cường
lượng tồn kho của mùa thu hoạch. Do vậy, nguyên nhân quyết định lượng tồn kho dự định
theo thời kỳ, ngoài chi phí mang tính cơ hội của việc khan hàng hết hàng, còn phải xét đến chi
phí tăng thêm khi sản xuất ổn định (chi phí khấu hao, khi thiết bị sản xuất ngừng nghỉ, lương
công nhân rảnh rỗi và các chi phí phát sinh khác…).
Dựa trên cơ sở thực tiễn, vai trò của hàng dự trữ được biểu hiện trong mối quan hệ
giữa việc khống chế lượng hàng dự trữ trong kho và hai loại nhu cầu: nhu cầu độc lập và nhu
cầu phụ thuộc:
-Nhu cầu độc lập: là nhu cầu do thị trường quyết định .Ví dụ: nhu cầu đối với các thành phẩm
như xe ô tô, máy giặt gia dụng và linh kiện dễ hỏng như tấm phanh xe, vòng đệm cao su.
Những nhu cầu này lúc nào thì sẽ nảy sinh? Mỗi lần bao nhiêu? Không theo kế hoạch sắp xếp
của doanh nghiệp, nó được gọi là nhu cầu độc lập. Tuy nhiên với phạm vi dao động và xu
hướng thay đổi nhất định trong một khoảng thời gian cùng những đặc trưng thay đổi, nhu cầu
này có thể dự đoán thông qua những số liệu lịch sử và các nhân tố tương quan khác.
-Nhu cầu phụ thuộc: Là nhu cầu do nhu cầu của sản phẩm cuối cùng hoặc hạng mục khác
quyết định, nó có thể đoán trước và có thể khống chế được. Ví dụ như: với một số lượng máy
giặt cần sản xuất cho trước, thì số lượng nhu cầu của nguyên vật liệu hoặc linh kiện như thùng
giặt, máy định giời, động cơ điện, hoàn toàn có thể được quyết định căn cứ vào linh kiện, vì
vậy nó được gọi là nhu cầu phụ thuộc.
7
Tóm lại: Nhu cầu xuất phát từ bên ngoài doanh nghiệp hay từ thị trường là nhu cầu độc

lập, còn gọi là nhu cầu khách hàng, những nhu cầu này nảy sinh từ yêu cầu sản xuất bên trong
doanh nghiệp gội là nhu cầu phụ thuộc, hay còn gọi là nhu cầu sản xuất. Nhu cầu độc lập có
tính tuỳ cơ ứng biến cho nên chỉ có thể dựa trên dự đoán để tính toán. Nhu cầu phụ thuộc có
tính xác định, đặc trưng thay đổi theo thời gian đã được biết trước, vì vậy không cần dự đoán
mà chỉ cần xác định theo kế hoạch sản xuất. Đáp ứng sự khác nhau về mặt tính tồn kho của
hai loại nhu cầu. Tức là do tính chất tuỳ cơ của nhu cầu độc lập mà ta cần phải thiết lập lượng
tồn kho dự phòng nhằm tránh tổn thất do thiếu hàng. Do tính xác định của nhu cầu phụ thuộc,
về mặt lý thuyết thì không cần thiết lập lượng tồn kho dự phòng, hơn nữa lý tưởng nhất là tất
cả những lượng tồn kho sản xuất đều nên ơe dạng bán thành phẩm. Chính sự khác nhau này
đã quy định số lượng từng loại hàng dự trữ ở những thời điểm khác nhau của chu kỳ kinh
doanh của doanh nghiệp. Đồng thời khẳng định lại vai trò rất quan trọng của hàng dự trữ và
vấn đề khống chế hàng dự trữ trong việc quay vòng vốn, tiết kiệm chi phí, ổn định sản xuất và
đáp ứng nhu cầu luôn biến đổi của khách hàng.
* Đầu tư vào hàng dự trữ có thể có thể được phân thành 2 loại chi phí chủ yếu sau:
- Chi phí bảo tồn hàng được tạo bởi:
+ Chi phí cơ hội sử dụng vốn: thông thường được xác định dựa trên tỷ lệ lãi suất đầu tư, trong
tình huống đơn giản hoá, có thể sử dụng tỷ lệ lãi suất với kỳ hạn tương ứng để thay thế.
+ Chi phí bảo hiểm và chi phí hao mòn cơ sở hạ tầng kho bãi…
+ Chi phí mất mát, hư hỏng và không có hiệu quả của hàng tồn. Chi phí về mặt này sữ có sự
chênh lệch rất lớn dựa trên tính chất khác nhau của hàng tồn, ví dụ như lỗi của hàng điện tử
tương đối cao, mà chi phí tổn thất của thực phẩm lại còn cao hơn.
Do chi phí cơ hội của vốn và chi phí hỏng hóc, mất hiệu quả luôn chiếm đa số tỷ lệ của phí
bảo tồn. Vi vậy các doanh nghiệp thường theo thói quen, đem chi phí bảo tồn thể hiện là hình
thức tỷ lệ thuận với giá cả mua bán của đơn vị hàng tồn.
- Chi phí đặt hàng: Là chi phí bình quân để xử lý nghiệp vụ đặt hàng, bao gồm các tư liệu kỹ
thuật sản phẩm cần thiết như sổ ghi chép, thông tin, phán đoán và lương nhân viên đặt hàng,
đặc điểm của nó là không liên quan đến số lượng hangf đặt. Trên lĩnh vực sản xuất, chi phí
này là chi phí chuẩn bị sản xuất và điển hình máy móc khi thay đổi linh kiện và tác nghiệp,
gọi là chi phí chuyển đổi tác nghiệp và chi phí lắp đặt.
-Chi phí thiếu hàng: Là những tổn thất do thiếu hàng gây nên. Từ góc độ bán hàng nếu thiếu

hàng cung cấp, khách hàng sẽ chuyển sang đặt hàng của doanh nghiệp khác, và hơn nữa, uy
tín của doanh nghiệp cũng bị tổn hại nghiêm trọng. Từ góc độ sản xuất, trong quá trình sản
xuất, thiếu hàng dẫn đến việc ngừng sản xuất đợi nguyên liệu, ứ đọng bán thành phẩm, kéo
dài thời gian giao hàng và dẫn đến ngưng ca…chi phí của nó được tính lần lượt với ảnh
hưởng của hoạt động tương ứng.
b) Tài sản cố định
Nghị định số 199/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 3/12/2004 về quy chế quản lý tài
chính của công ty Nhà nước và quản lý vốn Nhà nước đầu tư vào các doanh nghiệp khác có
quy định, tài sản của công ty Nhà nước bao gồm: tài sản cố định (tài sản cố định hữu hình, tài
sản cố định vô hình, các khoản đầu tư tài chính dài hạn, chi phí xây dựng cơ bản dở dang và
8
các khoản ký cược, ký quỹ dài hạn); tài sản lưu động (tiền, các khoản đầu tư tài chính ngắn
hạn, các khoản phải thu, hàng tồn kho, tài sản lưu động khác và chi sự nghiệp) mà công ty
Nhà nước có quyền chiếm hữu sử dụng và định đoạt theo quy định của pháp luật.
Như vậy có thể thấy tài sản cố định hữu hình là một trong những tài sản quan trọng bậc
nhất của doanh nghiệp. Nó là những tư liệu lao động có thời hạn sử dụng tương đối dài và có
giá trị lớn. Trong quá trình sản xuất kinh doanh hình thái vật chất của tài sản cố định hầu như
không thay đổi, còn giá trị giảm dần trong suốt thời gian tồn tại, do cả hao mòn hữu hình và
hao mòn vô hình.
* Phân loại tài sản cố định:
Nhà cửa và vật kiến trúc: Gồm nhà xưởng kho bãi, văn phòng và các công trình có cùng
mục đích. Chúng tạo ra không gian sản xuất, vận hành quản lý và lưu trữ hàng hoá hoặc
nguyên vật liệu. Là tài sản cố định có thời gian khấu hao khá dài, có thể lên đến 30, 50 năm.
Máy móc thiết bị công nghệ : Bao gồm tất cả máy móc thiết bị, hệ thống dây chuyền. Là
bộ phận tài sản cố định hữu hình có hàm lượng khoa học công nghệ cao và có sự đổi mới
nhanh chóng. Hiện nay những dây chuyền hiện đại được khấu hao chỉ trong vòng từ 2 đến 4
năm.
Phương tiện vận tải : Ngoài chi phí ban đầu chi phí vận hành, chi phí nhiên liệu xăng dầu
chiếm một tỷ trọng đáng kể và cần được tính đến trong quá trình vận hành.
Các công cụ, dụng cụ quản lý, thiết bị đo lường và kiểm định. Đây là các máy móc có giá trị

không lớn nhưng được khấu hao trong thời gian dài. Các máy móc văn phòng như máy vi
tính, máy in… đã giúp làm tăng năng xuất và hiệu quả quản lý. Đồng thời một hệ thống đo
lường và kiểm định hiện đại và chính xác sẽ giúp doanh nghiệp tạo nên những sản phẩm có
chất lượng và độ tin cậy cao.
* Vai trò của tài sản cố định hữu hình:
- Là một trong những cơ sở đầu tiên được hình thành trong quá trình từ thời điểm doanh
nghiệp bắt đầu đi vào sản xuất kinh doanh. Bất kỳ doanh nghiệp nào khi bắt đầu đi vào hoạt
động cũng đều phải trải qua các giai đoạn tiền đề sau:
+ Chi phí ban đầu về đất đai: tiền thuê đất, mua đất, đền bù giải phóng mặt bằng.
+ Chi phí xây dựng, lắp đặt nhà xưởng công trình, hạ tầng cơ sở.
+ Chi phí mua sắm máy móc phương tiện vận tải.
+ Chi phí mua sắm máy móc thiết bị, công nghệ sản xuất.
+ Cùng với các chi phí khác, các chi phí cho tài sản cố định hữu hình thực sự trở thành một
trong những yếu tố không thể thiếu được trong quá trình hình thành, vận hành sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Một khi hệ thống nhà xưởng, văn phòng và vật kiến trúc không đảm bảo cho hoạt động
sản xuất kinh doanh và hoạt động quản lý, sẽ gây ra một sự cản trở rất lớn tới sự thành công
của doanh nghiệp. Do đặc điểm được sử dụng trong một thời gian dài nên tầm quan trọng của
9
hệ thống nhà xưởng lại càng lớn, cần phải tính toán một cách kỹ lưỡng để tránh gây ra những
hậu quả lâu dài.
- Đầu tư vào máy móc thiết bị công nghệ lại là một trong những hoạt động cần chú ý hàng
đầu. Nhất là trong thời đại khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ và thay đổi nhanh chóng
như hiện nay. Một dây chuyền công nghệ sản xuất thích hợp với các công nghệ mới đạt được
các hiệu quả sẽ giúp doanh nghiệp đạt được sản lượng lớn với giá thành thấp và chiếm lĩnh
được thị trường.
- Hệ thống phương tiện vận tải cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong rất nhiều doanh nghiệp, nó quyết định đến doanh số
bán hàng, khả năng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thị trường, đặc biệt với các doanh nghiệp
kinh doanh thương mại. Do đó các doanh nghiệp không những cần thiết phải chú trọng hoạt

động đầu tư cho hệ thống phương tiện giao thông vận tải mà còn phải chú trọng vấn đề bảo
hiểm tài sản, đặc biệt đối với cả các loại hình phương tiện vận tải đường thuỷ như tàu thuỷ xà
lam cũng như đối với các phương tiện cơ giới đường bộ thường xuyên phải đối mặt với các
rủi ro khác.
3.2. Nội dung đầu tư phát triển cho tài sản cố định hữu hình của doanh nghiệp
a) Vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản là toàn bộ chi phí bỏ ra để đạt được mục đích đầu tư, bao gồm:
+ Chi phí cho việc khảo sát quy hoạch công trình chuẩn bị đầu tư
+ Chi phí thiết kế và xây dựng
+ Chi phí mua sắm lắp đặt thiết bị
+ Các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán và chi phí dự phòng( bằng 10 % tổng dự
toán).
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản có thể chia ra theo các mục sau:
a. Chi phí xây dựng và lắp đặt bao gồm:
+ Chi phí phá huỷ tháo dỡ các vật kiến trúc cũ.
+ Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng.
+ Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ phục vụ thi công.
+ Chi phí xây dựng các hạng mục công trình như làm mới mở rộng cải tạo và khôi phục các
công trình xây dựng.
+ Chi phí lắp đặt thiết bị bao gồm việc lắp đặt trang thiết bị vật dụng, các hoạt động thăm dò
phục vụ cho hoạt động lắp đặt đó.
+ Các chi phí di chuyển thiết bị thi công và vật liệu, lực lượng xây dựng.
10
b. Chi phí mua sắm thiết bị máy móc bao gồm:
+ Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ và các trang thiết bị khác phục vụ sản xuất, làm việc,
sinh hoạt.
+ Chi phí vận chuyển từ cảng hoặc nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho lưu bãi chi phí
bảo quản bảo dưỡng tại kho chi phí gia công sửa chữa chi phí kiểm tra thiết bị máy móc khi
tiến hành lắp đặt.
+ Các loại thuế và phí bảo hiểm thiết bị công trình cần thiết.

c. Chi phí liên quan đén đất đai:
+ Tiền thuê đất, hoặc tiền chuyển quyền sử dụng đất.
+ Chi phí đền bù và tổ chức thực hiên trong quá trinh đền bù.
b) Mua sắm tài sản cố định khác dùng cho hoạt động sản xuất
Doanh nghiệp cần ý thức được tầm quan trọng của việc mua sắm và đổi mới trang thiết
bị theo hướng hiện đại, nhập các máy móc thiết bị hoặc mua trong nước các loại máy trong
nước đã sản xuất được với giá cả và công nghệ phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp cũng
như điều kiện khí hậu, từng bước tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm công nghệ.
Chi phí này bao gồm:
+ Chi phí cho thiết bị máy móc cần lắp toàn bộ hoặc từng bộ phận trên nền máy cố định.
+ Chi phí cho thiết bị không cần lắp đặt trên nền máy cố định.
+ Chi phí cho các máy móc thiết bị dụng cụ phục vụ cho quá trình quản lý, kinh doanh, báo
cáo tổng hợp
3.3. Vốn đầu tư sửa chữa lớn tài sản cố định
+ Chi phí sửa chữa lớn tài sản cố định: sửa chữa các tài sản hư hỏng sau một thời gian sử
dụng mà cần vốn lớn.
+ Chi phí nâng cấp tài sản cố định: Nâng cấp các tài sản cố định cho phù hợp với sự biến
động của khoa học công nghệ, giúp cải tiến sản phẩm tăng năng xuất để hạ giá thành, tăng
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp cả trong hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như trong
hoạt động quản lý.
3.4 Đầu tư vào nghiên cứu đổi mới và phát triển Khoa học công nghệ- kĩ thuật
Theo quan điểm hiện đại, có thể hiểu: đầu tư đổi mới công nghệ và phát triển KHKT là
hình thức của ĐTPT nhằm hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và trang thiết bị cũng như trình
độ nhân lực, tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cải tiến đổi mới sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ, đây cũng là hoạt động đầu tư vào lĩnh vực phần mềm của công nghệ như thông tin,
thương hiệu và thể chế doanh nghiệp.
11
Về ĐTPT phần cứng của KHKT_CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động ĐTPT
những dây chuyền máy móc, trang thiết bị hiện đại. Trước tiên là đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng để tiếp nhận dây chuyền máy móc thiết bị mới. Hai là thực hiện đầu tư vào việc nhập

khẩu dây chuyền sản xuất phù hợp. Ba là thực hiện việc tiếp nhận công nghệ của dây chuyền
máy móc trang thiết bị.Bốn là thực hiện việc nghiên cứu triển khai để có thể sản xuất dây
chuyền máy móc dựa vào công nghệ được tiếp nhận.
Về ĐTPT phần mềm của KHKT_CN ở doanh nghiệp có nghĩa là hoạt động ĐTPT
nguồn nhân lực, phát triển công nghệ bao gồm thương hiệu, bí quyết kinh doanh, uy tín…và
phát triển cơ cấu thể chế tổ chức
Về công nghệ cần tiến hành nội dung như sau: thứ nhất là doanh nghiệp có thể mua công
nghệ theo các cách khác nhau đó là:
+ Mua đứt công nghệ tức là công nghệ thuộc quyền sở hữu độc quyền của doanh nghiệp,
doanh nghiệp là người duy nhất có quyền quyết định về công nghệ đó. Từ đó doanh nghiệp có
khả năng sản xuất ra sản phẩm hoặc dịch vụ hiệu quả nhất, tốt nhất, tạo lợi thế cạnh tranh cao
nhất cho doanh nghiệp. Tuy nhiên trong thực tế các doanh nghiệp nước ta hiện nay thực thi
điều này là rất khó, mặt khác việc mua đứt công nghệ thường gặp rủi ro lớn vì chưa hẳn công
nghệ là tốt nhất.
+ Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức này bởi hình thức
này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh nghiệp phải chấp nhận đối thủ của
mình cũng sở hữu công nghệ như mình và sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng
giúp cho doanh nghiệp có những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó
hoặc lợi thế giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ không
có.
+ Và ngoài ra doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra công nghệ mới
hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Về nhân lực: cần tiến hành những nội dung cụ thể như dân chủ hoá KHKT_CN, xây
dựng một chiến lược tổng thể rõ ràng nhằm phát triển thị trường lao lao động theo hướng đẩy
mạnh tính hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho lao động tự do dịch chuyển, hỗ trợ lao động
có chuyên môn kĩ thuật cao. Bên cạnh đó là những hoạt động ĐTPT nguồn nhân lực như mở
lớp đào tạo nhân lực, cử người đi học ở các quốc gia phát triển…
Về cơ cấu tổ chức và thể chế doanh nghiệp: để phục vụ cho phát triển KHCN cũng cần
tiến hành theo những nội dung như: đổi mới chính sách ưu đãi với các hoạt động nghiên cứu
và đổi mới công nghệ, đổi mới cơ chế trích khấu hao TSCĐ và cơ chế trích lập quỹ ĐTPT của

doanh nghiệp…
Hoạt động ĐTPT KHKT_CN cũng là một hoạt động đầu tư phát triển. Do đó, hoạt động
này có những đặc điểm sau đây: về nguồn vốn ĐTPT KHCN đồi hỏi 1 số vốn lớn. Từ hoạt
động ĐTPT máy móc thiết bị hiện đại, đến việc ĐTPT nguồn nhân lực thông qua đào tạo …
đều đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Do đó, về nguồn huy động vốn có thể là rất đa dạng, việc
ĐTPT KHCN không chỉ huy động nguồn vốn nội lực mà còn có thể huy động từ bên ngoài
như ODA hay FDI. Từ đó đòi hỏi doanh nghiệp phải sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất.
Về thời gian thì ĐTPT KHCN có thời gian thực hiện lâu dài và thời gian vận hành kết quả lâu
dài. Về kết quả của hoạt động đầu tư vào KHCN là những tài sản có giá trị lớn như những
công trình khoa học, trang thiết bị tiên tiến hay trình độ nguồn nhân lực
12
3.5 Đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động để duy trì và nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực của tổ chức, là điều kiện quyết định để doanh nghiệp có thể đứng vững
và dành thắng lợi trong môi trường cạnh tranh. Do đó trong các doanh nghiệp, công tác đào
tạo và phát triển cần phải được thực hiện một cách có tổ chức và có kế hoạch.
Phát triển nguồn nhân lực (theo nghĩa rộng) là tổng thể các hoạt động học tập có tổ
chức được tiến hành trong những khoảng thời gian nhất định để nhằm tạo ra sự thay đổi hành
vi nghề nghiệp của người lao động.
Trước hết, phát triển nguồn nhân lực chính là toàn bộ những hoạt động học tập được tổ
chức bởi doanh nghiệp, do doanh nghiệp cung cấp cho người lao động. Các hoạt động đó có
thể được cung cấp trong vài giờ, vài ngày hoặc thậm chí vài năm, tuỳ thuộc vào mục tiêu hcọ
tập, và nhằm tạo sự thay đổi hành vi nghề nghiệp cho người lao động theo hướng đi lên, tức là
nhằm nâng cao khả năng và trình độ nghề nghiệp cho họ. Như vậy, xét về nội dung phát triển
nhân lực bao gồm các hoạt động là: giáo dục, đào tạo và phát triển.
+ Giáo dục được hiểu là các hoạt động hcọ tập để chuẩn bị cho con người bước vào 1 nghề
nghiệp hoặc chuyển sang 1 nghề nghiệp mới thích hợp hơn trong tương lai.
+ Đào tạo (hay còn được gọi là đào tạo kỹ năng) được hiểu là các hoạt động học tập nhằm
giúp cho người lao động có thể thực hiện có hiệu quả hơn chức năng, nhiệm vụ của mình. Đó
chính là quá trình học tập làm cho người lao động nắm vững hơn về công việc của mình, là

những hoạt động để thực hiện nhiệm vụ lao động có hiệu quả hơn.
+ Phát triển là các hoạt động học tập vượt ra khỏi phạm vi công việc trước mắt của người lao
động, nhằm mở ra cho họ những công việc mới dựa trên cơ sở những định hướng tương lai
của doanh nghiệp.
Các lý do chủ yếu để doanh nghiệp tiến hành phát triển nguồn nhân lực, đó là:
+ Để đáp ứng yêu cầu của việc tổ chức hay nói cách khác là để đáp ứng nhu cầu tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp.
+ Để đáp ứng nhu cầu học tập và phát triển của người lao động trong doanh nghiệp.
+ Đào tạo và phát triển là những giải pháp có tính chiến lược tạo ra lới thế cạnh tranh cho
doanh nghiệp.
Khi doanh nghiệp đầu tư phát triển nguồn nhân lực thì doanh nghiệp đã mang lại cho
mình nhiều lợi ích trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình như:
+ Nâng cao năng suất lao động, hiệu quả thực hiện công việc.
+ Nâng cao chất lượng của việc thực hiện công việc.
+ Giảm bớt sự giám sát vị người lao động được đào tạo có khả năng tự giám sát.
+ Nâng cao tính ổn định và năng động của tổ chức.
13
+ Duy trì và nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực.
+ Tạo điều kiện cho áp dụng tiến bộ kĩ thuật và quản lý vào doanh nghiệp.
+ Tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp.
+ Ngoài ra, đối với người lao động thì phát triển nguồn nhân lực thể hiện ở chỗ: tạo ra được
sự gắn bó giữa người lao động và doanh nghiệp, tạo ra tính chuyên nghiệp của người lao
động, tạo ra sự thích ứng giữa người lao động và công việc hiện tại cũng như tương lai, đáp
ứng nhu cầu và nguyện vọng phát triển của người lao động, và tạo cho người lao động có cách
nhìn cách tư duy mới trong công việc của họ là cơ sở để phát huy tính sáng tạo của người lao
động trong công việc.
Chính vì những lý do trên mà các doanh nghiệp hiện nay đã chú trọng vào phát triển
nguồn nhân lực, coi hoạt động đầu tư phát triển nguồn nhân lực như là một hoạt động thường
xuyên và quan trọng của doanh nghiệp.
Ở nước ta thì hầu hết các doanh nghiệp để phát triển nguồn nhân lực mới chỉ sử dụng

các biện pháp như: Tìm kiếm lao động đầu vào có chất lượng cao; Đào tạo và đào tạo lại đội
ngũ lao động trong doanh nghiệp; Và nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Tuy
nhiên trong các hình thức trên thì hình thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ lao động được áp
dụng nhiều trong các doanh nghiệp nhà nước, còn hình thức lựa chọn lao động đầu vào chất
lượng cao được sử dụng nhiều trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài.
3.6 Đầu tư vào hoạt động Marketing và tài sản vô hình khác
- Đầu tư vào hoạt động Marketing: Doanh nghiệp muốn cạnh tranh thắng lợi thì
marketing được nhiều người cho rằng là chức năng then chốt của thành công của doanh
nghiệp: nhờ có marketing dự báo nhu cầu tiêu thụ sản phẩm, dự tính các hành động cho doanh
nghiệp, hỗ trợ bán hàng thông qua quảng cáo, khuyến mại,…Muốn vậy đòi hỏi phải:
+ Xác định rõ hướng đi: doanh nghiệp phải suy tính kỹ trước khi quyết định có nên đối đầu
trực tiếp với doanh nghiệp lớn hay không, nếu cảm thấy không có đủ nội lực thì chuyển
hướng khác.
+ Xác định thời gian đi: nếu doanh nghiệp đã xác định được hướng đi và nếu không phạm sai
lầm nào về kế hoạch tiếp thị cộng với một chút may mắn thì doanh nghiệp sẽ có được một
mảng thị phần,
+ Phạm vi triển khai: doanh nghiệp nên lựa chọn phương án triển khai trên phạm vi nào thì
cần phải cân nhắc rõ ràng.
+ Hiểu người tiêu dùng: Tiến hành nghiên cứu thị trường để am hiểu sâu sắc người tiêu dùng,
để thiết kế sản phẩm phù hợp với họ, và khác biệt với đối thủ.
+ Hệ thống phân phối mạnh
+ Bao bì bắt mắt và hoàn hảo
+ Chất lượng sản phẩm hoàn hảo
14
+ Can đảm và kiên trì
- Đầu tư và tài sản vô hình: tài sản vô hình bao gồm:
+ Tài sản trí tuệ
+ Các yếu tố vô hình của sản nghiệp thương mại
+ R & D (nghiên cứu và phát triển)

+ Nguồn nhân lực
+ Các yếu tố khác
III- Đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhà nước
1. Vài nét về doanh nghiệp nhà nước
1.1 Khái niệm
Theo điều luật 1 chương 1 của bộ luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 đã qui định Doanh
nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước sở hữu vốn điều lệ hoặc có cổ phần,vốn góp
chi phối,được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước,công ty cổ phần,công ty trách nhiệm
hữu hạn .
Hay theo khoản 22 điều 4 luật Doanh nghiệp năm 2005 Doanh nghiệp nhà nước là
doanh nghiệp mà nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ.
1.2 Phân loại
Có nhiều tiêu chí để phân loại DNNN như dựa vào hình thức tổ chức DN,nguồn luật áp
dụng cho việc tổ chức và hoạt động của DN , nhưng nhóm chúng tôi sẽ chỉ phân loại dựa
vào mức độ vốn NN đầu tư tại DN.
* DN 100% vốn NN là những DN mà NN đầu tư toàn bộ vốn ĐL để thành lập, được hình
thành dưới các hình thức (Tổng) công ty NN, công ty cổ phần NN và công ty TNHH NN ( 1
và 2 thành viên).
* DN có cổ phần, vốn góp chi phối của NN là những DN mà NN đầu tư trên 50% VĐL và
NN giữ quyền chi phối DN đó. Mức độ và các vấn đề chi phối được quy định trong điều lệ
DN. Các DN này tồn tại dưới các hình thức: Công ty cổ phần, công ty TNHH (ngoài cổ đông
chính là NN có cổ phần chi phối còn có các cổ đông, thành viên khác có thể là nhà đầu tư
trong nước và nước ngoài)
1.3 Đặc điểm của DNNN trong nền kinh tế thị thường.
Hoạt động kém hiệu quả của các DNNN. DNNN là các cơ sở kinh doanh do nhà nứoc sở hữư
hoàn toàn hoặc một phần.Quyền sở hữu thuộc về nhà nước là dặc trưng cơ bản nhất ,phân biệt
DNNN với các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Đặc trưng này quy định sự kiểm soát của
chính phủ bao gồm quyền chủ đạo và quyền can thiệp vào hoạt động kinh doanh.
15
Do vậy,người quản lý DNNN không có quyền linh hoạt đối phó với những điều kiện thay

đổi của thị trướng so vơi doanh nghiệp tư nhân.Cụ thể:Bị chính phủ yêu cầu phải mua hàng
hoá sản xuất trong nước,do vậy làm tăng chí phí đầu vào,do công viên chức trong nhà nước
nhân số,luôn ổn định cố định nên khó có khả năng thay thế đầu vào về nguồn lao động của
mình cho phù hợp với hoàn cảnh bên ngoài.
Mặt khác do quyền sở hữu thuộc về nhà nước ,là tổ cức không rõ ràng của nhiệm vụ được
giao cho các DNNN,trong khi các công ty của khu vực tư nhân lấy lợi nhuận làm mục đích
bao trùm thì các DNNN phải hướng vào các mục tiêu khác nhằm đảm bảo lợi ích xã hội, đôi
khi không làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Có thể là các DNNN buộc phải thoả mãn yêu cầu tiêu dùng trong nước với giá ưu đãi ,phải
đáp ứng các tiêu chuẩn dịch vụ nào đó ở bất kỳ đâu do nhà nước yêu cầu,cũng có thể bị yêu
cầu chỉ được vay vốn từ một số định chế cho vay nào đó hoặc từ những nguồn cho vay trong
nước nào đó.Do đó cũng có thể phải đầu tư phù hợp với kế hoạch quốc gia hoặc phải hy sinh
lợi nhuận để thực hiện những mục tiêu xã hội.
Bên cạnh đó,sự kiểm soát lỏng lẻo trong khu vực DNNN do sở hữu nhà nước (đôi lúc mang
nghĩa vô chủ),vì thế mỗi công nhân,người lao động thường không có mối liên hệ lợi ích đối
với DNNN,vì không thấy sự ảnh hưởng nhiều vì thế không có cá nhân nào thấy cần phải có sự
giám sát, điều hành,quản lý.
1.4 Sự cần thiết của DNNN trong nền kinh tế thị trường
Theo sự phân tích trên,DNNN gần như hoạt động kém hiệu quả so với hoạt động của doanh
nghiệp tư nhân trong nền kinh tế thị trường.Tuy vậy ,nó vẫn tồn tại và vận động,phát triển
trong nền kinh tế.
Ngoài lý do tạo cho chính phủ “một quả đấm mạnh” để giả quyết các vấn đề kinh tế xã hội
to lớn trong những giai đoạn dặc biệt như cạnh tranh,khủng hoảng kinh tế…sự tồn tại và phát
triển các DNNN chủ yếu còn do các mục tiêu phi thương mại của chính phủ nhằm điều tiết
đời sống kinh tế xã hội . Đó là mục tiêu ngăn chặn ngăn chặn độc quyền của khu vực tư nhân
trong một ngành công nghiệp nào đó có khả năng gây thiêt hại chung cho xã hội. Đó là mục
tiêu phân phối lại thu nhập quốc dân,tạo công ăn việc làm và cung cấp hàng hoá cho những
thiệt hại kinh tế.
Sản xuất những hàng hoá và dịch vụ mà sản phẩm của chúng được tiêu dùng mang tính xã
hội không thương mại hoá như giao thông đường thuỷ,những công thình kiến trúc mang tính

lịch sử,bảo vệ phong cảnh thiên nhiên…Những sản phẩm náy được coi là thuộc về cộng
đồng ,chính phủ phải chi phí đảm bảo giao thông đường thuỷ,bảo tồn các di tích lịch sử và
phong canh thiên nhiên,khu vực tư nhân không thể cung cấp vì nó không có quyền sở hữu
chúng ,vì vậy DNNN phải đảm nhiệm.
Chính phủ phải luôn có trách nhiệm trước những ngành thuộc kết cấu hạ tầng ,tạo cơ sở
cho sự phát triển toàn bộ nền kinh tếb trong đó có khu vực tư nhân,sản xuất những hàng hoá
này đòi hỏi cũng lớn,vốn thu hồi chậm nên không hấp dânc các khu vực tư nhân.Chính vì phái
đảm nhận việc cung cấp những loại hàng hoá này nên thu nhập tài chính của DNNN thường
được đánh giá thấp hơn thu nhập thực tế,vì không tính đến những lợi ích bên ngoài doanh
nghiệp.
2.Các chỉ tiêu đánh giá kết quả đầu tư phát triển trong doanh nghiêp nhà nước
16
Với số lượng ngày càng đông, sự đóng góp của doanh nghiệp vào GDP chung của đất
nước ngày càng tăng. Năm 2005, mức đóng góp này là 53% GDP. Bên cạnh đó, đầu tư hàng
năm của doanh nghiệp chiếm khoảng 55% trong tổng đầu tư chung của cả nước, và tỷ trọng
này đang ngày càng có xu hướng tăng lên. Các doanh nghiệp cũng đã giải quyết việc làm mới
cho trên 541 ngàn người mỗi năm .
Số lượng doanh nghiệp nhà nước hiện chỉ còn chiếm 3,61% tổng số doanh nghiệp trong
cả nước. Tuy nhiên, nếu so sánh với khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước vẫn là khu vực thu hút khá đông lao
động (gần 32,7%), tập trung nguồn vốn lớn nhất (hơn 54%), có lợi nhuận cao (hơn 41%) và
đóng góp nhiều nhất vào ngân sách nhà nước (gần 41%).
Nếu như năm 2000 cả nước có 5.759 doanh nghiệp nhà nước, đến cuối năm 2005 còn
4.086 doanh nghiệp. Số lượng giảm nhưng quy mô doanh nghiệp ngày càng tăng lên. Số vốn
bình quân một doanh nghiệp nhà nước năm 2000 là 130 tỷ đồng đến 2005 tăng lên 355 tỷ
đồng; tương tự số lao động đã tăng từ 363000 người lên 499000 người.
Trong khi đó, doanh nghiệp ngoài quốc doanh tăng rất nhanh về số lượng. Năm 2000
mới có 35.004 doanh nghiệp hoạt động, đến 2005 đã lên đến 105.569 doanh nghiệp, mỗi năm
tăng trung bình 14.113 doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu cơ bản như lao động bình quân
năm 2005 là 32 người/doanh nghiệp tăng không đáng kể so với mức 30 người năm 2000; số

vốn bình quân đạt 7 tỷ đồng/doanh nghiệp so với 3 tỷ đồng cách đây 5 năm cho thấy đa số
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vẫn ở quy mô nhỏ và siêu nhỏ.
Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài là lực lượng được đánh giá là có sự tăng trưởng đều và
ổn định nhất. Đến cuối 2005, đã có 3.697 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài so với 1.525 doanh
nghiệp năm 2000, mỗi năm tăng 434 doanh nghiệp. Số doanh nghiệp này sẽ tăng lên trong
thời gian tới do thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong những năm gần đầy rất khả
quan.
Hiệu quả đầu tư của DNNN là một phạm trù kinh tế được biểu hiện bằng các
chỉ tiêu đặc trưng kinh tế kỹ thuật, xác định trên cơ sở so sánh chỉ tiêu đầu ra và
đầu vào của DNNN. Nó phản ảnh trình độ sử dụng nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu đầu
tư,mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao, từ đó khẳng định vai trò chủ đạo của Doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Nâng cao hiệu quả đầu tư của DNNN là vấn đề cấp bách và cần thiết nhằm thúc đẩy
tăng trưởng chung cho toàn bộ nền kinh tế nước ta hiện nay. Vậy để đánh giá doanh nghiệp
nhà nước hoạt động có hiệu quả phải dựa vào cơ sở nào, dựa vào hệ thống chỉ tiêu nào?
Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNNN bao gồm các chỉ tiêu sau :
2.1. Tỷ suất giữa giá trị gia tăng với tổng vốn
Giá trị gia tăng
Tỷ suất giữa giá trị gia tăng với tổng vốn = x100%
Tổng vốn
Chỉ tiêu này phản ảnh cứ một đồng vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo
ra bao nhiêu đồng giá trị gia tăng nhằm thực hiện tái sản xuất mở rộng doanh nghiệp, đóng
góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế-xã hội, nâng cao đời sống nguời lao động. Tỷ
suất giá trị gia tăng phản ảnh một cách tổng quát và đầy đủ nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh
17
đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, phản ảnh cả hiệu quả kinh tế lẫn xã hội mà doanh nghiệp
nhà nước tạo ra trong quá trình hoạt động.
2.2. Tỷ suất giữa thuế với tổng vốn
Thuế phải nộp
Tỷ suất giữa thuế với tổng vốn = x 100%

Tổng vốn
Chỉ tiêu này phản ảnh cứ một đồng vốn tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh tạo
được bao nhiêu đồng thuế nộp vào ngân sách nhà nước. Tỷ suất thuế trên vốn phản ánh rõ nét
hiệu quả đóng góp của doanh nghiệp nhà nước vào nền kinh tế quốc dân.
2.3. Thu nhập bình quân của người lao động

Tổng thu nhập của lao động
Thu nhập bình quân NLĐ = x100%
Số lao động bình quân
Nâng cao thu nhập người lao động là tiêu chuẩn để đánh gía doanh nghiệp nhà nước hoạt
động có hiệu quả, điều này xuất phát từ mục đích của nền kinh tế xã hội nước ta. Chú ý rằng,
tăng thu nhập bình quân của người lao động đánh giá tích cực khi tốc độ tăng của nó phải nhỏ
hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Bởi vì, chỉ đảm bảo tốt nguyên tắc đó mới đảm bảo tái
sản xuất mở rộng và việc nâng cao thu nhập người lao động mới bền vững.

2.4. Tỷ suất giữa lợi nhuận với tổng vốn
Lợi nhuận hoạt động sau thuế
Tỷ suất giữa lợi nhuận = x100%
với tổng vốn Tổng vốn
Lợi nhuận hoạt động= [Doanh thu - Tổng chi phí chưa trừ chi phí trả
lãi] [1 - Thuế suất thuế lợi tức]
= Lợi nhuận sau thuế + chi phí lãi vay [ 1 - Thuế suất thuế lợi tức]
=> Tỷ suất giữa lợi nhuận với tổng vốn =
Lợi nhuận sau thuế + Chi phí lãi vay [1-Thuế suất thuế lợi tức]
18
x 100%
Tổng vốn
Cách tính lợi nhuận trên tổng vốn trình bày trên có ưu điểm:
- Chi phí lãi vay được trừ ra khi tính lợi nhuận hoạt động nên tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn
sẽ không bị tác động của nguồn tài chính tài trợ cho hoạt động.Sự biến động của chỉ tiêu này

hoàn toàn phụ thuộc vào trình độ sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy tỷ suất lợi nhuận
trên tổng vốn phản ánh đúng hiệu qủa kinh tế của việc sử dụng tài sản tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh trong việc tạo ra kết quả thực chất do doanh nghiệp nhà nước mang
lại. Kết quả thực chất này bao gồm 2 bộ phận: một bộ phận lãi sau thuế thực sự để lại cho
doanh nghiệp trả lợi tức cổ phần, bổ sung vốn vv. một bộ phận phân phối cho chủ nợ ở dạng
chi phí lãi vay.
- Cách tính trên phân biệt được hiệu quả việc sử dụng tài sản và hiệu quả của chính sách tài
chính trong việc sử dụng các nguồn tài trợ. Có những doanh nghiệp mặc dù kết quả sử dụng
tài sản đạt được nhưng chính sách tài chính không phù hợp với nến kinh tế mỗi thời kỳ thì
mục tiêu hiệu quả cuối cùng của mỗi doanh nghiệp không thực hiện tốt. Ở nước ta đang chủ
trương phát triển thị trường tài chính, cách tính này giúp cho các nhà quản lý lựa chọn nguồn
tài trợ hợp lí để nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp.
- Cách tính này phản ánh rõ nét mức độ hoàn vốn, bởi vì tổng vốn sử dụng bao gồm vốn chủ
sở hữu và nợ vay nên kết quả đạt được phải hoàn lại cho chủ sở hữu và chủ nợ ở dạng lợi
nhuận sau thuế và chi phí lãi vay sau thuế.
Nhược điểm của cách tính tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn nêu trên là không phù hợp với
cách trình bày các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh ở nước ta. Cụ thể là chi
phí lãi vay không phải là một khoản mục trên Báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên
trên thực tế dựa vào sổ sách kế toán ta vẫn xác định chi phí lãi vay phục vụ cho cách tính toán
trên.
2.5. Tỷ suất giữa lợi nhuận với vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất giữa lợi nhuận với = x 100%
vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu
Tỷ suất giữa lợi nhuận với vốn chủ sở hữu phản ảnh một cách rõ nét nhất, hiện hữu nhất,
tập trung nhất trong việc đạt được mục tiêu của doanh nghiệp đó là lợi nhuận. Nó là thước đo
hoàn hảo đánh giá sự thành công của doanh nghiệp, phản ánh một cách tổng hợp hiệu quả sử
dụng tài sản, hiệu quả của chính sách tài chính mà doanh nghiệp áp dụng. Chính sách tài
chính hiệu quả là chính sách góp thêm vào khả năng sinh lợi bằng cách thay đổi cơ cấu nợ
phù hợp với sự thay đổi của các điều kiện của thị trường.

2.6. Tỷ suất giữa lợi nhuận với thị giá cổ phần
Lợi nhuận một cổ phần
19
Tỷ suất giũa lợi nhuận với = x 100%
Thị giá cổ phần Giá thị trường một cổ phần
Trong đó:
Lợi nhuận một cổ phần = lợi tức mỗi cổ phần + mức tăng giá mỗi cổ phần
Tỷ suất giữa lợi nhuận với thị giá cổ phần trực tiếp phản ảnh hiệu quả đầu tư của cổ đông
vào doanh nghiệp, hiệu quả này về cơ bản chỉ đạt được trên cơ sở hiệu qủa hoạt động mà
doanh nghiệp tạo nên.Chỉ tiêu này đạt ở mức cao sẽ thu hút mức độ hưởng ứng và tham gia
đầu tư của đông đảo công chúng. Điều đó dẫn đến kết qủa là giá trị cổ phần của doanh nghiệp
trên thị trường ngày càng cao, thúc đẩy sự tăng trưởng của doanh nghiệp.
Hiện nay nước ta đang đẩy mạnh việc thực hiện chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước. Trong tình hình này sẽ hình thành những DNNN cổ phần (DNNN giữ cổ phần chi
phối, khống chế) việc sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên thị giá cổ phần là thước đo quan
trọng để đánh giá hiệu quả kinh doanh của DNNN cổ phần.
2.7. Tỷ lệ giữa nguồn vốn tự bổ sung với nguồn vốn kinh doanh
Tỷ lệ giữa nguồn vốn tự bổ sung với nguồn vốn kinh doanh =
Nguồn vốn tự bổ sung
= x 100%
Nguồn vốn kinh doanh
Chỉ tiêu này phản ánh tỷ trọng của nguồn vốn tự bổ sung trên nguồn vốn kinh doanh.
Cụ thể cứ một đồng vốn kinh doanh có bao nhiêu đồng vốn tự bổ sung, thông qua đó phản
ánh được tình hình bảo toàn và phát triển vốn. Tình hình bảo toán và phát triển vốn của doanh
nghiệp về cơ bản chỉ có thể đạt được khi hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao.
2.8. Tỷ số nợ
Nợ phải trả
Tỷ số nợ = x 100%
Tổng vốn
Chỉ tiêu này cho thấy tỷ lệ phần trăm sử dụng nợ (vay dài hạn, ngắn hạn, chiếm dụng) để

tài trợ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ số nợ là chỉ tiêu phản ánh cơ cấu,
không trực tiếp phản ánh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng sự thay đổi của nó
ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này phụ thuộc vào chính
sách nợ mà doanh nghiệp áp dụng thích hợp với sự thay đổi của các yếu tố thị trường. Một
doanh nghiệp chỉ chạy theo các mục đích sinh lời mà không quan tâm đến sự cân bằng tài
trợ của mình có thể sẽ buộc phải ngừng hoạt động hoặc phá sản.Vì vậy để đánh giá hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp cần thiết phải nghiên cứu và sử dụng chỉ tiêu tỷ số nợ.
20
2.9. Hệ số khả năng thanh toán
Để tồn tại và tiếp tục kinh doanh, trước hết đòi hỏi doanh nghiệp phải có tiền thanh
toán các khoản nợ đến hạn. Số tiền này được thể hiện ở giá trị các loại tài sản và khả năng
luân chuyển nhanh chóng thành tiền mặt của chúng. Nếu không đủ tiền đáp ứng
được các nghĩa vụ trả nợ ngắn hạn, doanh nghiệp sẽ thiếu hụt tài chính, sẽ ngưng hoạt động.
Vì vậy để đánh giá hiệu quả, đánh giá thành tích của quá trình quản lý cần thiết và trước hết
phải nghiên cứu xem xét chỉ tiêu hệ số khả năng thanh toán.
Hệ số khả năng thanh toán là công cụ đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn nó là
điều kiện, là cơ sở đầu tiên để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả. Tùy theo khả năng
chuyển hóa thành tiền mặt của các loại tài sản trong năm thực tế của mỗi doanh nghiệp, có thể
sử dụng các hệ số khả năng thanh toán sau đây: hệ số khả năng thanh toán hiện hành, hệ số
khả năng thanh toán nhanh, hệ số khả năng thanh toán bằng tiền.
Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
Hệ số khả năng = x100%
thanh toan ngắn hạn Nợ ngắn hạn
Các chỉ tiêu trong hệ thống trên dùng để đánh giá khái quát hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên mỗi doanh nghiệp nhà nước trong mỗi giai đoạn cụ
thể có những nhiệm vụ khác nhau mà Nhà nước giao phó, có những mục tiêu chủ đạo cụ thể
của nó.Vì vậy ngoài các chỉ tiêu trên cần thiết phải xây dựng thêm những chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả việc thực hiện mục tiêu của mỗi doanh nghiệp nhà nước ở từng thời kỳ cụ thể. Mặt
khác cần thấy rằng,doanh nghiệp nhà nước ở mỗi ngành sẽ có những đặc điểm khác nhau. Vì
vậy ngoài các chỉ tiêu khái quát được nêu trong hệ thống trên, cần thiết phải có

những chỉ tiêu hiệu quả phản ảnh đặc thù của từng ngành như : năng suất cây trồng, suất sản
phẩm súc vật, số khách hàng được dịch vụ bình quân một giờ
Chương 2
Thực trạng tình hình đầu tư phát triển
trong doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam
I.Một số vấn đề trong doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam
1. Tình hình doanh nghiệp nhà nước đến cuối năm 2005
1.1 Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) đầu tư ra ngoài ngành
21
Hiện nay, do Nhà nước chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ hoạt động này nên có nhiều công
ty Nhà nước huy động vốn quá lớn, dư nợ phải trả cao gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu, dẫn đến
khả năng thanh toán không đảm bảo, ảnh hưởng đến an ninh tài chính.
Số liệu mới nhất cho biết, trong số 70 tập đoàn, tổng công ty (TCT) thì có 30 đơn vị có hệ
số nợ phải trả trên vốn vượt trên 3 lần, thậm trí nhiều doanh nghiệp vượt trên 20 lần như Tổng
công ty Xây dựng công trình giao thông 5 gấp 42 lần, Tổng công ty Xây dựng công trình giao
thông 1 gấp 22,5 lần, Tổng công ty Lắp máy Việt nam gấp 21,5 lần, Tập đoàn công nghiệp
Tàu thuỷ Việt Nam gấp 21,8 lần
Ngoài ra, một số doanh nghiệp huy động vốn từ các công ty tài chính, ngân hàng có vốn góp
của tập đoàn, TCT Nhà nước cũng rất rủi ro do được hưởng nhiều ưu đãi như không bắt buộc
phải có đủ tài sản đảm bảo cho khoản vay, thủ tục vay vốn đơn giản … dễ dẫn đến đổ vỡ dây
chuyền khi mất khả năng thanh toán.
Trong khi đó, do quy định không hạn chế phạm vi ngành nghề, lĩnh vực và quy mô đầu tư
vốn ra ngoài doanh nghiệp nên trong thời gian vừa qua nhiều DNNN đã góp vốn đầu tư hoặc
mua cổ phần, vốn góp tại nhiều doanh nghiệp khác, phân tán vào nhiều lĩnh vực kể cả không
thuộc lĩnh vực ngành nghề chủ yếu. Đáng chú ý, một số tập đoàn, TCT đã dành một lượng
vốn khá lớn đầu tư vào ngân hàng, bảo hiểm hoặc mua bán cổ phiếu trên thị trường.
Theo báo cáo của 70 tập đoàn, TCT thì có tới 28 đơn vị hoạt động đầu tư chứng khoán,
thành lập công ty chứng khoán, đầu tư vào công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, công
ty bảo hiểm với giá trị đầu tư là 23.344 tỷ đồng, chiếm 8,7% vốn chủ sở hữu và 20% tổng số
vốn đầu tư ra ngoài.Cụ thể, Tập đoàn Dầu khí đầu tư 5.780 tỷ đồng, trong đó ngân hàng 1.100

tỷ đồng, công ty chứng khoán 76,5 tỷ đồng, công ty tài chính 4.005 tỷ đồng, công ty bảo hiểm
570 tỷ đồng, quỹ đầu tư 29 tỷ đồng; Tập đoàn công nghiệp Tàu thuỷ Việt nam đầu tư 1.894 tỷ
đồng, trong đó lĩnh vực ngân hàng 344 tỷ đồng, bảo hiểm 1.462 tỷ đồng (Bảo Việt), quỹ đầu
tư 88 tỷ đồng
Bên cạnh đó, tình trạng DNNN thành lập quá nhiều công ty con , công ty liên kết hoạt
động trong nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác hẳn với lĩnh vực sản xuất kinh doanh trước đây
ngày càng phổ biến.Có thể dẫn chứng như: Tổng công ty Thuốc lá; Giấy; Dệt may; Công
nghiệp Tàu thuỷ đầu tư vào rượu bia, công nghiệp thực phẩm; Tổng công ty Xây dựng công
nghiệp đầu tư vào thuỷ điện, nhiệt điện; Tổng công ty Rượu bia nước giải khát Sài Gòn đầu tư
vào thuỷ điện, dầu khí, du lịch …
Theo Bộ Tài chính, việc đầu tư ra nhiều ngành nghề bên ngoài lĩnh vực chính, trong khi
tình trạng năng lực quản lý và ngân sách có hạn, sẽ ảnh hưởng đến năng lực tài chính và hiệu
quả sử dụng vốn tại doanh nghiệp, tác động đến việc quy hoạch và thực hiện chiến lược phát
triển của từng ngành và ảnh hưởng đến chiến lược phát triển chung của nền kinh tế. Đặc biệt,
việc đầu tư vốn vào các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm và mua bán cổ phiếu trên thị trường là
những lĩnh vực nhạy cảm, thuộc thế mạnh của các tổ chức tài chính tín dụng, nên dễ mang lại
những rủi ro đối với DNNN chưa có kinh nghiệm trong kinh doanh lĩnh vực này. Do đó, cần
có mức khống chế đối với hoạt động đầu tư tài chính của công ty Nhà nước để hạn chế rủi ro
và không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh chính. Trong đề xuất mới đây lên
Chính phủ, Bộ Tài chính cho rằng, để hướng các công ty Nhà nước tập trung nguồn lực thực
hiện đầu tư đúng mục tiêu chiến lược, hạn chế việc đầu tư vốn vào những doanh nghiệp kinh
doanh ngành nghề không phải nhiệm vụ chính thì các công ty Nhà nước phải sử dụng tối thiểu
70% tổng nguồn vốn đầu tư vào các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực có ngành
nghề kinh doanh chính (hoặc chủ yếu). Tổng mức đầu tư ra ngoài công ty Nhà nước (bao gồm
22
đầu tư ngắn hạn và dài hạn) không vượt quá mức vốn điều lệ của công ty Nhà nước theo đúng
chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Đặc biệt, DNNN không được góp vốn hoặc mua cổ phần tại các quỹ đầu tư mạo hiểm, quỹ
đầu tư chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán. Theo đó, các công ty Nhà nước hiện có
giá trị đầu tư tài chính vào các doanh nghiệp khác vượt quá mức quy định trên hoặc vào quỹ

đầu tư mạo hiểm,các quĩ chứng khoán hoặc công ty đầu tư chứng khoán thì phải điều chỉnh
giảm trong vòng 2 năm.
Trong một hội thảo mới đây về vấn đề này, nhiều DN là tập đoàn kinh tế và TCT có ý
kiến xin xem xét mở rộng tỷ lệ đầu tư ra bên ngoài doanh nghiệp. Tuy nhiên, Bộ Tài chính
vẫn giữ ý kiến, doanh nghiệp cần phải dành tối thiểu 70% tổng nguồn vốn kể cả vốn chủ sở
hữu và vốn vay để đầu tư ngành nghề kinh doanh chính; đối với việc đầu tư ra ngoài doanh
nghiệp cho những ngành nghề khác khống chế ở mức 30% là phù hợp.
1.2 DNNN là lực lượng nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, đảm bảo vai trò
chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế quốc dân
Doanh nghiệp nhà nước là một cấu phần quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng góp
38% GDP, chiếm 33% tín dụng và đóng góp 10% tổng việc làm của cả nước. Trong những
năm qua, tỷ trọng đầu tư của khu vực này trong tổng mức đầu tư toàn xã hội vẫn được duy trì
theo các năm, đóng góp rất lớn về đầu tư trong tổng đầu tư của xã hội. Đây là nguồn vốn các
doanh nghịêp chủ động trong việc huy động và sử dụng theo đúng yêu cầu của các doanh
nghịêp. Nguồn vốn này được tập trung đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ, bổ sung thiết bị
để nâng cao công suất, chất lượng sản phẩm và một phần dùng để đầu tư xây dựng mới, mở
rộng sản xuất kinh doanh. Nếu nguồn vốn huy động được từ doanh nghiệp nhà nước được sử
dụng có hiệu quả hơn sẽ góp phần trực tiếp cho tăng trưởng nhanh kinh tế, nâng cao sức cạnh
tranh trong từng sản phẩm.

Đơn vị tính: nghìn tỷ đồng (giá năm 2000)
1996-2000 2001 2002 2003 2004 2005 2001- 2005
Tổng vốn
đầu tư
toàn xã
hội
555 160,4 173,2 189,3 208,0 230,0 960,9
% 100 100 100 100 100 100 100
Đầu tư 97,3 26,3 27,1 31,4 38,1 45,3 168,2
23

của
DNNN
So với
tổng số
17,5 16,4 15,6 16,6 18,3 19,73 17,5
DNNN vẫn chi phối được những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, nắm giữ tỷ trọng
lớn trong kim ngạch xuất khẩu, thu nộp ngân sách nhà nước, hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Kết quả năm 2005 đạt được như sau:
+ Doanh thu khu vực DNNN đạt 470.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với năm 2002 và 11% so
với năm 2001, đã đóng góp 40% GDP của cả nước, tăng 0,5% so với năm 2001;
+ Nộp ngân sách đạt 87.000 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2002 và 69% so với năm 2001
chiếm trên 60% tổng thu NSNN ; Lợi nhuận thực hiện đạt 21.000 tỷ đồng, tăng 10,5% so với
năm 2002 và 31,2% so với năm 2001 ; Chiếm 50% kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Tốc độ tăng trưởng bình quân trong 3 năm 2001 - 2003 của DNNN đạt mức 10%/năm,
xấp xỉ mức bình quân trong 10 năm 1991-2000 (11%). Trình độ công nghệ và quản lý có
nhiều tiến bộ, sức cạnh tranh được nâng cao, dần dần thích nghi với cơ chế thị trường. DNNN
hoạt động công ích đi vào thực chất hơn, đảm bảo đa số sản phẩm, dịch vụ thiết yếu của xã
hội, đặc biệt cho quốc phòng - an ninh, đồng bào vùng sâu, vùng xa.
1.3 Cải cách DNNN được đẩy mạnh theo hướng tiếp tục đa dạng hóa sở hữu các
DNNN
Doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được sắp xếp lại theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3
theo hướng đa dạng hóa sở hữu với các hình thức cổ phần hóa, giao, bán, khoán, cho thuê
doanh nghiệp nhà nước. Tổng số doanh nghiệp nhà nước được sắp xếp lại trong 5 năm qua
vượt xa cùng thời kỳ trước đó. Các doanh nghiệp sau khi sắp xếp lại hoạt động có hiệu quả
hơn, nâng cao được tính cạnh tranh, phát huy được vai trò tích cực và chủ động trong các hoạt
động kinh tế, xã hộ
a) Cổ phần hoá DNNN
Tình hình đầu những năm 1990 tại Việt Nam giống như một bức tranh về một dân tộc
đang bước những bước lớn trên nấc thang lạm phát. Không giống như lý thuyết vẫn đang
thịnh hành trong chúng ta thời đó, nền kinh tế hầu như không tăng trưởng. Một lực lượng lao

động lớn hoạt động trong lĩnh vực kinh tế Nhà nước, bao gồm hệ thống hành chính quốc gia
và các doanh nghiệp Nhà nước (SOE). Khi chính phủ cải tổ bắt đầu nói về việc chuyển đổi
hình thức hệ thống doanh nghiệp không hiệu quả này thì "vương quốc" các doanh nghiệp NN
đã có tới 12.231 thành viên vào cuối những năm 1989.
Lịch sử sẽ không bao giờ quên một số những doanh nghiệp tiên phong đã châm mồi cho
cỗ máy cổ phần hóa của đất nước. Những doanh nghiệp này, lần đầu tiên kể từ năm 1946, đã
thay đổi hình thức doanh nghiệp để trở thành một đơn vị hoạt động độc lập do thị trường điều
tiết và thu nhập từ hiệu quả hoạt động. Việc chuyển đổi từ khu vực NN đáng kể nhất, mở ra
quá trình cổ phần hóa rung chuyển toàn bộ đất nước hiện nay bắt đầu với việc ban hành Quyết
định số 143-HĐBT vào ngày 10/5/1990, 3 năm sau ngày khởi động quá trình Đổi Mới. Tuy
24
nhiên, kế hoạch thử nghiệm không thành công. Trong giai đoạn thử nghiệm 4 năm, từ 6/1992
đến 5/1996, chỉ có một số công ty NN được cổ phần hóa: công ty cổ phần đại lý liên hiệp vận
chuyển (Bộ GTVT); công ty cổ phần giày Hiệp An (Bộ Công nghiệp); công ty chế biến thức
ăn gia cầm (Bộ NN&PTNT); xí nghiệp cơ điện lạnh (Bộ Công nghiệp); công ty chế biến thức
ăn xuất khẩu Long An (UBND tỉnh Long An). Rõ ràng, kết quả đáng buồn này đã gây thất
vọng cho chính phủ, và cần thiết phải có chỉnh sửa toàn bộ. Một kế hoạch tổng thể để cải tổ
các doanh nghiệp NN được thực thi, theo đó đã đưa ra một số biện pháp cải tổ DNNN. Có thể
kể ra đây các biện pháp như cải tổ, sáp nhập, bán, cho thuê, và cổ phần hóa.
Số lượng DNNN đã giảm tới 5.571 vào cuối năm 2000, và tới 4.479 năm 2003. Khoảng
3.100 DNNN được sáp nhập vào các công ty khác. Khoảng 3.350 doanh nghiệp bị giải thể.
Khoảng 950 doanh nghiệp được thuê lại, hoặc được bán. Một số tổng công ty lớn hơn được
thành lập để thu nhận nhiều doanh nghiệp thành viên. Theo con số thống kê, vào cuối năm
2001, 17 tổng công ty đã thu nhận 1.605 doanh nghiệp thành viên, chiếm khoảng 65% lượng
vốn quốc gia và 61% lượng lao động của toàn bộ các DNNN. Từ đó, hàng năm một số lượng
lớn các doanh nghiệp cổ phần hóa đã được sáp nhập thành các tổng công ty dưới hình thức
các thực thể góp vốn. Những con số trên đây được minh họa bởi bảng sau.
Số lượng công ty
Vốn pháp định
(tỉ đồng)

2005 724 4000.0
2004 753 5722.0
2003 537 6059.5
2002 139 1211.9
2001 198 850.0
2000 212 1042.0
1999 249 552.5
6-12/1998 86 61.2
1996-6/1998 25 19.0
1992-1996 5 38.5
Theo đánh giá của Bộ Tài chính, có 44,4% doanh nghiệp nhà nước được phân loại theo
nhóm A, tức doanh nghiệp có lãi, 39,5% thuộc nhóm B và số còn lại thuộc nhóm C. Các
doanh nghiệp nhà nước được cho là làm ăn thua lỗ chiếm khoảng 19,5% tổng số các doanh
nghiệp nhà nước với tổng nợ trị giá hàng nghìn tỷ đồng. Công cuộc đổi mới doanh nghiệp nhà
nước thực sự đã được khởi động từ những năm 90 sau chính sách đổi mới và được thực hiện
trong nhiều giai đoạn khác nhau theo nhiều cách tiếp cận khác nhau và sử dụng nhiều phương
tiện khác nhau. Giai đoạn 1991-1997 số lượng doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp và
25

×