Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

một số giải pháp đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn huyện trần văn thời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.89 KB, 5 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Về một số giải pháp để đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường học đạt
chuẩn quốc gia trên địa bàn huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau
I. Phần mở đầu
Chuẩn quốc gia về trường học được xem là thước đo đánh giá hình
thức hoạt động và hiệu quả đạt được của các loại hình trường, trên cơ sở đó
để thực hiện mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Là một huyện còn khó khăn về kinh tế, đời sống nhân dân ở mức trung
bình, địa bàn rộng, giao thông chưa thuận lợi, cơ sở vật chất trường lớp đầu
tư chưa nhiều, nguồn lực hạn chế, nhưng thời gian qua huyện Trần Văn Thời
luôn là đơn vị dẫn đầu trong công tác xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia
(ĐCQG) của tỉnh Cà Mau, đặc biệt là hai năm trở lại đây. Tuy nhiên so với
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển giáo dục thì kết quả đó chưa đáp ứng yêu cầu.
Theo Nghị quyết của huyện Đảng bộ Trần Văn Thời lần thứ XII, đến
năm 2015 toàn huyện có ít nhất 70% trường ĐCQG. Đây là chỉ tiêu mang
tính đột phá đối với sự nghiệp giáo dục của huyện. Bởi vì, để nâng cao chất
lượng giáo dục, để giáo dục phát triển, không có giải pháp nào khác là xây
dựng trường theo hướng ĐCQG. Bên cạnh, xây dựng trường ĐCQG cũng là
một tiêu chí quan trọng trong đề án xây dựng nông thôn mới hiện nay.
Với kinh nghiệm bản thân trong việc xây dựng trường ĐCQG thời gian
qua cho thấy, xây dựng được một trường ĐCQG là một quá trình chuẩn bị kỹ
càng về mọi mặt, phải có sự nỗ lực, quyết tâm cao của các ngành, các cấp
cùng với sự hỗ trợ tích cực của xã hội, bên cạnh là vai trò nòng cốt là ngành
giáo dục. Tỷ lệ 70% trường ĐCQG đến năm 2015 thật sự là một thách thức,
nếu không có biện pháp, giải pháp tốt thì khó có khả năng đạt được.
Với mong muốn chia sẻ kinh nghiệm với các cấp quản lý trong việc
thực hiện nhiệm vụ xây dựng trường ĐCQG thời gian tới, tôi chọn chủ đề
sáng kiến kinh nghiệm “Về một số giải pháp để đẩy nhanh tiến độ xây dựng


trường học đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà
Mau” với nội dung trình bày dưới đây, mong được góp một phần nhỏ cho
nhiệm vụ chung của địa phương.
II. Phần nội dung
1. Cơ sở lý luận:
- Xây dựng trường học ĐCQG là mục tiêu quan trọng trong phát triển
sự nghiệp giáo dục, đồng thời là yêu cầu phát triển mới của đất nước, của địa
- 1 -
phương. Yêu cầu đó phải được quán triệt cả về nhận thức và hành động từ
cấp ủy Đảng, chính quyền, đến các đoàn thể, các tổ chức chính trị- xã hội và
nhân dân ở địa phương; phải đặt dưới sự lãnh đạo sâu sắc của Đảng.
- Trong chỉ đạo phải có trọng tâm, trọng điểm để tập trung, tránh đầu
tư dàn trải, hiệu quả thấp. Trong thực hiện phải gắn chặt mục tiêu phổ cập
giáo dục, chất lượng giáo dục và các nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của
địa phương; phải chú trọng số lượng và chất lượng trong đó chất lượng là
quan trọng.
- Việc đầu tư xây dựng phải đảm bảo phù hợp với quy hoạch mạng
lưới trường lớp gắn với đề án xây dựng nông thôn mới. Hệ thống nhà trường
phải được phân bổ hợp lý, vừa đáp ứng yêu cầu học tập của học sinh, phù
hợp với phân bố dân cư lâu dài, vừa đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội của địa phương.
2. Thực trạng và nguyên nhân công tác xây dựng trường học
ĐCQG giai đoạn 2000 – 2010.
2.1. Thực trạng:
Trường học ĐCQG được Bộ GD&ĐT triển khai từ năm 1996. Huyện
Trần Văn Thời là một trong những đơn vị đầu tiên của tỉnh Cà Mau xây dựng
đề án triển khai thực hiện trên địa bàn huyện từ những năm 2000. Qua 10
năm thực hiện (tính đến năm 2010), toàn huyện có 9 trường được công nhận
ĐCQG, chiếm tỷ lệ 11,1%. Mặc dù có nhiều cố gắng trong triển khai thực
hiện, nhưng kết quả đạt được còn thấp, chưa đáp ứng với kế hoạch đề ra. Vì

thế mà chất lượng giáo dục giữa các trường trong huyện chưa được đồng đều,
tỉ lệ học sinh, kưu ban, bỏ học, học sinh xếp loại học lực yếu kém còn cao, cơ
sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho dạy và học còn nhiều khó khăn, thiếu
thốn, chưa đáp ứng với yêu cầu phát triển giáo dục.
2.2. Nguyên nhân:
Có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau:
Công tác tham mưu, đề xuất chưa được thường xuyên, hiệu quả chưa cao;
công tác quy hoạch, kế hoạch chưa phù hợp với thực tế và yêu cầu phát triển.
Công tác tuyên truyền chưa mang tính chiều sâu; một số cấp ủy, chính quyền,
ban ngành, đoàn thể và một bộ phận nhân dân chưa thật sự quan tâm đến
công tác xây dựng trường học ĐCQG. Cán bộ quản lý một số trường chưa
đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn về trình độ đào tạo và kiến thức phụ trợ khác;
một số giáo viên chưa nhiệt tình trong công tác, tay nghề yếu, chậm đổi mới
phương pháp giảng dạy…; tỷ lệ học sinh yếu kém, lưu ban, bỏ học khá cao,
bình quân trên 5%. Nguồn vốn hạn hẹp, đầu tư thiếu tập trung; nhiều điểm
trường thiếu diện tích, mặt bằng để xây dựng; công tác xã hội hoá giáo dục
còn mang tính hình thức, hiệu quả thấp.
Từ những nguyên nhân trên nên tiến độ, kết quả xây dựng trường học
ĐCQG giai đoạn 2001- 2010 chưa đạt mục tiêu, kế hoạch đề ra.
- 2 -
3. Một số giải pháp, biện pháp xây dựng trường học ĐCQG đã
được triển khai thực hiện trong thời gian qua tại huyện
Thực hiện Nghị quyết của Huyện ủy, HĐND huyện về xây dựng
trường học ĐCQG giai đoạn 2010-2015, Phòng GD&ĐT đã tham mưu
UBND huyện tập trung nhiều giải pháp, biện pháp triển khai thực hiện. Sau
hơn hai năm đã xây dựng được 13 trường học ĐCQG, nâng tổng số trường
ĐCQG trong toàn huyện lên 22 trường. Sau đây xin nêu một số giải pháp,
biện pháp kinh nghiệm trong việc xây dựng trường ĐCQG thời gian qua.
Thứ nhất, tham mưu UBND huyện xây dựng kế hoạch phát triển giáo
dục trên địa bàn đến năm 2015 và năm 2020; điều chỉnh bổ sung hoàn chỉnh

mạng lưới trường lớp đến năm 2020. Phối hợp với các ngành liên quan và
các xã, thị trấn quy hoạch, sử dụng đất đảm bảo đủ điều kiện, diện tích xây
dựng trường học ĐCQG theo quy định. Điều tra thực trạng 5 tiêu chuẩn của
trường học ĐCQG để làm cơ sở xây dựng kế hoạch cho cả giai đoạn và từng
năm phù hợp với thực tế. Khi có đủ các điều kiện trên, tham mưu cho Huyện
ủy, HĐND, UBND huyện ban hành Nghị quyết, Kế hoạch, thành lập Ban Chỉ
đạo về xây dựng trường học ĐCQG giai đoạn 2010- 2015 nhằm để huy động
cả hệ thống chính trị và xã hội cùng vào cuộc.
Giai đoạn trước đây, Phòng GD&ĐT chỉ tham mưu ban hành kế hoạch
xây dựng trường ĐCQG giai đoạn 2001-2010 không có tham mưu ban hành
Nghị quyết, Kế hoạch của Huyện ủy, HĐND huyện; không có điều tra thực
trạng, không có giải pháp cụ thể…Cho nên, trong thực hiện không tập hợp
được sức mạnh và nguồn lực của hệ thống chính trị, của xã hội để đầu tư xây
dựng trường học ĐCQG.
- Thứ hai, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, tuyên truyền phải mang
tính chiều sâu, bằng nhiều hình thức. Đây là giải pháp quan trọng để qua đó,
làm cho các cấp ủy Đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể, các tổ chức xã
hội; cán bộ, giáo viên ngành giáo dục và cha mẹ học sinh hiểu được sự cần
thiết phải đầu tư xây dựng trường học ĐCQG mà có trách nhiệm phối hợp
với ngành giáo dục để cùng thực hiện.
Nhờ làm tốt công tác tuyên truyền, nên những năm qua, công tác xây
dựng trường học ĐCQG đã được các ngành, các cấp và nhân dân tham gia
tích cực, từ việc xây dựng trường sở, cảnh quan, môi trường sư phạm đến
việc quan tâm chất lượng giáo dục, tạo điều kiện cho con em đến trường học
tập…. Trước đây, công tác này chỉ có ngành giáo dục thực hiện.
- Thứ ba, nâng cao năng lực quản lý của hiệu trưởng, cán bộ, giáo
viên. Đây là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Vì vậy, phải
thường xuyên tiến hành rà soát, đánh giá, quy hoạch, bồi dưỡng để nâng cao
năng lực của đội ngũ CBQL, giáo viên các trường học đảm bảo đạt chuẩn
kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ để đáp ứng với yêu cầu mà trước mắt phục

vụ cho việc xây dựng trường học ĐCQG.
- 3 -
Hiện nay, năng lực đội ngũ cán bộ, giáo viên của ngành giáo dục
huyện đã được nâng lên một bước đáng kể. Trình độ đào tạo đạt chuẩn gần
100%, trong đó trên chuẩn hơn 70% (tỷ lệ này trước đây là 80% và 30%).
100% hiệu trưởng đạt trình độ đào tạo trên chuẩn và đảm bảo các kiến thức
phụ trợ khác.
- Thứ tư, chỉ đạo tốt hoạt động dạy và học và các phòng trào thi đua
trong nhà trường nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục và các hoạt
động. Chú trọng bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém. Có kế
hoạch mở rộng lớp học trên 6 buổi/tuần đối với THCS, 9-10 buổi/ngày đối
với tiểu học và bán trú đối với mầm non ở những nơi có điều kiện.
Thực tế cho thấy, chất lượng các mặt giáo dục nói chung những năm
gần đây đã được nâng lên rõ rệt. Cụ thể, chất lượng giáo dục năm học 2008 –
2009, tỷ lệ học sinh khá giỏi chiếm khoản 40%, yếu kém hơn 10%; năm học
2011 – 2012, tỷ lệ này là 60% và 5%. Chất lượng giáo dục mũi nhọn tăng lên
đáng kể, tỷ lệ học sinh giỏi các cấp năm sau cao hơn năm trước. Đối với các
trường học ĐCQG, tỷ lệ học sinh khá, giỏi, học sinh giỏi các cấp đều cao hơn
các trường khác. Tỷ lệ lớp học 2 buổi/ngày trên mức quy định.
- Thứ năm, cần tranh thủ các nguồn vốn của tỉnh, của huyện, các
chương trình, dự án để đầu tư và đầu tư theo hướng tập trung, tránh dàn trải,
hiệu quả thấp. Đối với kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm phải dành ít
nhất từ 30% từ kinh phí hoạt động để phục vụ xây dựng trường học ĐCQG.
Tranh thủ sự hỗ trợ từ ngân sách huyện cho việc mở rộng diệc tích, san lắp
mặt bằng, xây dựng công trình phụ, phòng chức năng, phòng hiệu bộ…
Do nguồn vốn khó khăn, nên việc lập kế hoạch xây dựng trường học
ĐCQG phải thực hiện theo thứ tự ưu tiên từ “dễ đến khó”. Những trường có
đủ điều kiện, suất đầu tư thấp thực hiện trước; những trường khó khăn về
diện tích, mặt bằng, suất đầu tư lớn thực hiện sau; nhưng trong thời gian này
phải có kế hoạch khắc phục, đầu tư dần, như xây dựng các công trình phụ,

tạo cảnh quan, môi trường xanh-sạch-đẹp…Trước đây do đầu tư dàn trải,
không tranh thủ tốt các nguồn vốn, chương trình, dự án, nên tiến độ thực hiện
rất chậm.
- Thứ sáu, thực hiện tốt công xã hội hóa giáo dục. Đây là giải pháp
quan trọng nhằm huy động tối đa các nguồn lực của xã hội phục vụ cho giáo
dục theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Chính vì thực hiện tốt công tác
này, trong những năm qua đã huy động đáng kể sự đóng góp của xã hội cho
giáo dục nói chung, xây dựng trường ĐCQG nói riêng. Trong hai năm qua,
vận động nhân dân hiến được 3.000 m2 đất để mở rộng diện tích xây dựng
các trường đạt chuẩn; đóng góp công sức, vật chất để chăm lo, tu sửa, xây
dựng trường lớp trị giá hơn 5 tỷ đồng. Việc xây dựng trường ĐCQG được
xem là trách nhiệm chung của các ngành, các cấp và của xã hội.
- 4 -
III. Phần kết luận
1. Kết luận
Qua việc triển khai thực hiện các giải pháp, biện pháp nêu trên về xây
dựng trường học ĐCQG trong thời gian qua đã đem lại kết quả thiết thực.
Trong hơn hai năm đã xây dựng được 13 trường, tăng 4 trường so với mười
năm trước đây. Điều này có thể khẳng định rằng, những giải pháp, biện pháp
đó là đúng đắn, phù hợp và hiệu quả.
Tuy nhiên, cái khó lớn nhất hiện nay trong xây dựng trường học
ĐCQG là nguồn vốn, trong khi kế hoạch xây dựng trường học ĐCQG thời
gian tới rất nặng nề, số lượng nhiều, suất đầu tư lớn, ngân sách eo hẹp. Theo
tôi, để đạt được kế hoạch, UBND tỉnh, Sở GD&ĐT Cà Mau cần nghiên cứu
và có văn bản hướng dẫn, chỉ đạo vận dụng linh hoạt tiêu chuẩn về cơ sở vật
chất cho phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương để nhằm giảm suất
đầu tư, giải quyết khó khăn về nguồn vốn, như: sáp nhập và giảm bớt số
phòng chức năng không cần thiết, giảm bớt qui mô đầu tư một số hạng mục
công trình (sân, hàng rào ) bằng thảm cỏ, cây xanh…
2. Khuyến nghị và đề xuất

- Như đã trình bày ở trên, công tác xây dựng trường học ĐCQG đòi hỏi
phải có sự chung tay vào cuộc của các ngành, các cấp, trong đó vai trò lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền là rất quan trọng. Không nên xem
nhiệm vụ xây dựng trường học ĐCQG là riêng của ngành giáo dục, từ đó
giao khoán cho ngành giáo dục thực hiện. Làm như vậy sẽ dẫn đến tình trạng
đùn đẩy, né tránh trách nhiệm và không huy động được sức mạnh của hệ
thống chính trị, của xã hội để đầu tư phát triển cho giáo dục.
- Hiện nay theo phân cấp của tỉnh, kinh phí đầu tư xây dựng trường
ĐCQG đối với cấp THCS do ngân sách tỉnh đảm nhiệm; cấp mầm non, tiểu
học do ngân sách huyện đảm nhiệm. Trên thực tế số trường tiểu học, mầm
non gấp hai đến ba lần trường THCS, tương ứng số trường ĐCQG theo kế
hoạch cũng như vậy. Cho nên, theo phân cấp như trên, ngân sách huyện
không thể nào thực hiện đạt kế hoạch. Đề xuất với cấp tỉnh cần có cơ chế phù
hợp hơn để hỗ trợ cho cấp huyện trong việc đầu tư xây dựng trường ĐCQG
thời gian tới.
Xác nhận của Người thực hiện
Thủ trưởng đơn vị

Mai Thanh Hải
- 5 -

×