Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Cơ sở, nội dung chính sách kinh tế của nhà nước – Phần 1 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.22 KB, 26 trang )

Cơ sở, nội dung chính sách kinh tế của nhà nước –
Phần 1

1.1 Cơ sở pháp lý đưa ra các chính sách kinh tế của Nhà nước
- Chế độ kinh tế dưới góc độ của Luật Hiến pháp là tổng thể những quy định của
Nhà nước nhằm điều chỉnh những quan hệ kinh tế cơ bản như: mục đích, chính
sách phát triển kinh tế, các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các nguyên
tắc tổ chức, quản lý nền kinh tế quốc dân cũng như các nguyên tắc sản xuất, phân
phối và tiêu dùng các sản phẩm xã hội.
- Chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước ta hiện nay được ghi nhận tại điều 15
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)
1.2 Nội dung chính sách kinh tế của Nhà nước theo Hiến định
- “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở
hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.”
Phần 2: Phân tích nội dung chính sách kinh tế của nhà nước
2.1. Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực,
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước
2.1.1. Cơ sở hiến định
- Các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế được đưa vào nội dung Hiến pháp
của nước ta từ Hiến pháp 1959 đến nay. Những chính sách và mục tiêu này thay
đổi qua từng thời kỳ lịch sử, tương ứng với những lần thay đổi, chỉnh sửa Hiến
pháp.
- Trong Hiến pháp 1992, chính sách phát triển kinh tế được quy định tại Điều 15
và Điều 16 như sau:
Điều 15: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu


kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng
dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng.”
Điều 16: “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước
mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên
cơ sở giải phóng mọi năng lực sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của các thành
phần kinh tế: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư
nhân và kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở
vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật và giao lưu với thị
trường thế giới.”
- Đến năm 2001, Điều 15 và Điều 16 được sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 15: “Nhà nước xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy nội
lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước.
- Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ
chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng”.
Điều 16: “Mục đích chính sách kinh tế của Nhà nước là làm cho dân giàu nước
mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân trên
cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế
gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư
nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình
thức, thúc đẩy xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở rộng hợp tác kinh tế, khoa
học, kỹ thuật và giao lưu với thị truờng thế giới.
- Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức, cá nhân thuộc các thành phần kinh
tế được sản xuất, kinh doanh trong những ngành, nghề mà pháp luật không cấm;
cùng phát triển lâu dài, hợp tác, bình đẳng và cạnh tranh theo pháp luật. - Nhà
nước thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường

theo định hướng xã hội chủ nghĩa”.
- Theo Điều 15 Hiến pháp 1992 (sửa đổi, bổ sung 2001), Nhà nước ta hiện nay
đang theo đuổi 2 chính sách phát triển kinh tế. Một là “Nhà nước xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ trên cơ sở phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế; thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.”
Hai là “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” Trong đó xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là
chính sách mới.
2.1.2. Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế như thế nào?
- Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc vào nước
khác hoặc vào một tổ chức kinh tế nào đó về đường lối, chính sách phát triển,
không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, chính trị để áp đặt, khống chế,
làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của dân tộc. Ví dụ: Khả năng
đảm bảo an ninh lương thực.
- Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trước những biến động của thị trường
bên ngoài, trước sự khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới ở bên ngoài, nó vẫn có
khả năng cơ bản duy tri sự ổn định và phát triển kinh tế tài chính quốc gia cũng
như sự ổn định định hướng phát triển;
Ví dụ: Trong cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 2008, tuy chịu ảnh hưởng rất lớn
nhưng Việt Nam đã nhanh chóng khắc phục khó khăn và là một trong những quốc
gia phục hồi sớm sau khủng hoảng.
- Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế đứng trước sự bao vây, cô lập và chống
phá của các thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ,
không bị rối loạn về kinh tế và chính trị.
Ví dụ: Cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam từ 1976 đến 1994; các vụ kiện chống
bán phá giá giày dép, tôm cá…và gần đây là việc WFF đưa cá basa của Việt Nam
vào danh sách đỏ trong Cẩm nang hướng dẫn tiêu dùng thủy sản 2010 cho Châu
Âu.
2.1.3. Vì sao phải bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế?
- Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế gắn liền với độc lập tự chủ về chính trị và chủ

quyền quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, hầu hết các quốc gia trên
thế giới đều là con nợ và chủ nợ của nhau, nhưng nếu nền kinh tế không đủ mạnh
để đứng vững thì có nguy cơ sụp đổ về kinh tế, đất nước trở thành con rối bị giật
dây trên chính trường thế giới và có nguy cơ mất cả lãnh thổ và chủ quyền quốc
gia.
Ví dụ: điển hình như sự kiện vỡ nợ của Hy Lạp trong năm 2010, Hy Lạp hiện mất
trả năng trả nợ do nhiều nguyên nhân. Ngay lập tức báo chí Đức – một trong
những chủ nợ của Hy Lạp lên tiếng gợi ý Hy Lạp bán bớt các hòn đảo hoang. Tiếp
theo, báo chí Pháp – một con nợ khác của Châu Âu, cũng lên tiếng rằng, Hy Lạp
còn có đảo hoang để bán, chứ Pháp sẽ bán gì khi bị vỡ nợ? EU đã gia hạn thời hạn
trả nợ cho Hy Lạp thêm 3 năm. Như vậy án treo vẫn đang lơ lửng trên đầu Hy Lạp
cho đến 2013.
- Bảo đảm độc lập tự chủ về kinh tế cũng có nghĩa là bảo đảm vững chắc định
hướng xa hội chủ nghĩa và giá trị truyền thống, bản sắc văn hóa dân tộc trong công
cuộc phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Không
phải chờ đến khi có trinh độ phát triển cao mới đặt vấn đề giữ vững độc lập tự chủ
về kinh tế, mà ngay từ đầu, ngay bây giờ đó phải bảo đảm yêu cầu cơ bản về độc
lập tự chủ, trước hết là về đường lối chính trị, các nguyên tắc cơ bản về phát triển
kinh tế. Việc xây dựng kinh tế độc lập tự chủ là một quá trinh lâu dài, đi từ thấp
đến cao, ngày càng hoàn chỉnh, ngày càng bền vững.
- Trong thời đại ngày nay, nói độc lập tự chủ về kinh tế không nên hiểu đó là một
nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối quan hệ mật thiết, chặt chẽ
với chính sách mở cửa, hội nhập, xu hướng toàn cầu hóa chủ động tham gia sự
giao lưu, hợp tác và cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi
thế cạnh tranh so sánh của quốc gia, từng bước xây dựng một cơ cấu kinh tế đáp
ứng được cơ bản nhu cầu thiết yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng ở
mức cần thiết cho nhu cầu phát triển kinh tế, củng cố quốc phong - an ninh.
2.1.4. Những yếu tố cơ bản để xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
- Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội
nhập với kinh tế quốc tế thì chúng ta phải cần có những yếu tố cơ bản sau đây:

Một là, phải có đường lối chính sách kinh tế độc lập, tự chủ về phát triển kinh tế -
xã hội.
Hai là, phải có thực lực và tiềm lực kinh tế đủ mạnh ở mức độ cần thiết.
Ba là, phải xây dựng được thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN vững
mạnh và giữ ổn định kinh tế vĩ mô.
- Độc lập tự chủ về kinh tế nhưng phải gắn với mở cửa và hội nhập thị trường bên
ngoài, chủ động tham gia vào sự giao lưu, hợp tác với thị trường thế giới. Nhà
nước thống nhất và mở rộng hoạt động kinh tế đối ngoại, phát triển các hình thức
quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng
độc lập chủ quyền và cùng cố lợi ích, bảo vệ và thúc đẩy sản xuất trong nước.
- Chính sách phát triển của Nhà nước phải đưa nước ta từ một nước nông nghiệp
nghèo nàn, lạc hậu thành một nước công nghiệp hóa hiện đại hóa.
2.1.5 Định hướng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
- Phát huy nội lực: việc phát huy nội lực cũng là biện pháp tránh phụ thuộc vào
bên ngoài.
Ví dụ: Việt Nam cần phát huy, khai thác tốt hơn nữa các nguồn nội lực như vị trí
địa chính trị quan trọng, nguồn nhân lực trẻ, thời kì dân số vàng, tài nguyên dồi
dào.
- Chủ động hội nhập kinh tế thế giới
Ví dụ: Việt Nam đã và đang chủ động trong việc phát triển các mối quan hệ song
và đa phương như gia nhập WTO năm 2006 kí BTA với Nhật Bản, Hoa Kì, …
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: Cơ giới hóa các hoạt động sản xuất,
đồng thời phải xây dựng một nền kinh tế hiện đại, đi tắt đón đầu những công nghệ
mới, không chấp nhận những công nghệ lạc hậu
2.1.6. Đánh giá về sự độc lập, tự chủ của nền kinh tế Việt Nam hiện nay
- Một nền kinh tế độc lập tự chủ theo cách hiểu thông thường và truyền thống là
một nền kinh tế phát triển toàn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi
mặt của đời sống xã hội, của an ninh, quốc phòng và quá trình tái sản xuất; không
bị lệ thuộc vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận
hành một cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh

quốc gia.
- Một nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có
đầy đủ mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy
mô thị trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về khoa học – công nghệ và
không cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển
được. Tuy nhiên, thực trạng Việt nam không thể đáp ứng được những yêu cầu đó.
Vì vậy, toàn cầu hóa là yếu tố bắt buộc để hòa nhập và phát triển.
- Một nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá có thể được hiểu là
nền kinh tế có khả năng thích ứng cao với những biến động của tình hình quốc tế
và ít bị tổn thương trước những biến động đó ; trong bất cứ tình huống nào nó
cũng có thể cho phép duy trì được các hoạt động bình thường của xã hội và phục
vụ đắc lực cho các mục tiêu an ninh, quốc phòng của đất nước. Để có một nền
kinh tế độc lập tự chủ, cần đáp ứng được những yêu cầu chủ yếu sau :
+ Cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết.
+ Nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao.
+ Cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú với
tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị
trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài
mục tiêu.
+ Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là những ngành
kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền kinh tế; hạn chế hoặc
không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm.
+ Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong cán cân
thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh.
- Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hóa và thực tại của nền kinh tế hiện nay thì
kinh tế Việt Nam cũng không thể tránh khỏi những ảnh hưởng kinh tế thế giới và
bị chi phối bởi nền kinh tế thế giới. Ví dụ: ngày 21/01/2008, cuộc khủng hoảng
kinh tế ở Hoa Kì đã chính thức lan ra thị trường thế giới. Ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng này đến Việt Nam là không tránh khỏi vì nó đã tác động trực tiếp đến
vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và thị trường xuất khẩu của Việt Nam vào

các quốc gia chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng.
2.1.6.1. Về yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an
toàn cần thiết
- Mặc dù có những đóng góp to lớn và có những bước phát triển mới nhưng nhìn
tổng thể và khách quan thì những năm qua sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn quá
chậm, thậm chí có một số lĩnh vực vẫn còn trong tình trạng lạc hậu so với sự phát
triển. Sự chậm chễ này biểu hiện ở những bằng chứng sau:
- Chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế nông nghiệp sang cơ cấu kinh tế công nghiệp là
một trong những điểm yếu nhất của chúng ta hiện nay. Mô hình tăng trưởng chủ
yếu của Việt Nam là dựa vào những lợi thế so sánh tĩnh đó là nguồn tài nguyên thô
và lao động rẻ chưa có kỹ năng. Sản phẩm công nghiệp chủ yếu vẫn là gia công,
lắp ráp, rất ít sản phảm có hàm lượng trí tuệ cao. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn còn rất lúng túng. Đến nay sản xuất nông nghiệp vẫn
luôn luôn bị động trước những đòi hỏi của thị trường, nhiều địa phương vẫn không
xác định được định hướng nuôi trồng cây gì, con gì… Tỷ trọng dịch vụ trong GDP
còn thấp, nhưng trong quá trình phát triển khu vực này cũng đang bộc lộ khá nhiều
thách thức như: phát triển các khu du dịch, sân gôn, khu công nghiệp … tuỳ tiện
làm giảm diện tích cấy trồng của nông nghiệp, ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới
đời sống của nông dân…
Cơ cấu GDP của một số quốc gia phân theo ngành kinh tế năm 2009
Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ
Việt Nam 20.7% 41.58% 39.1%
Singapore 0% 34.8% 65.2%
Úc 3.8% 26.2% 70%
Hoa Kỳ 0.9% 20.6% 78.5%
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
Ví dụ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đặt ra mục tiêu đến năm 2015: cơ
giới hóa 100% việc chế biến hạt giống, 70-75% việc làm đất, áp dụng các thiết bị
sạ lúa, cấy mạ, bơm thuốc, gặt lúa, gặp đập liên hợp… Thực tế đến nay, ở đồng
bằng sông Cửu Long mới chỉ cơ giới hóa được 28% diện tích canh tác lúa đông

xuân.
- Nguyên nhân: diện tích thửa ruộng nhỏ (từ 15 triệu thửa thời Pháp thuộc đến nay
là 75 triệu thửa, trong khi diện tích đất nông nghiệp không tăng, thậm chí đang
giảm do nhiều nguyên nhân: chuyển đổi mục đích sử dụng, đô thị hóa, ngập
mặn…); công nghệ lạc hậu, máy móc nhập về cũ kỹ trong khi máy sản xuất trong
nước có giá thành cao, ít linh kiện để sửa chữa.
- Các vùng kinh tế trọng điểm vẫn phát triển chậm, chưa phát huy được thế mạnh
để đi nhanh vào cơ cấu kinh tế hiện đại.
- Các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế Nhà
nước vẫn chưa tìm được mô hình quản lý hiệu quả. Nhiều doanh nghiệp nhà nước
vẫn làm ăn thua lỗ. Kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác chưa được tạo đủ điều kiện
thuận lợi để phát triển. Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vẫn còn yếu.
Ví dụ: Nhà nước cho phép thành lập nhiều tập đoàn nhà nước quản lí số vốn lớn
nhưng làm ăn thua lỗ, trong đó Vinashin là ví dụ điển hình. Chỉ tính riêng khoản
vay tín dụng quốc tế từ Credit Suisse đã là 600 triệu USD.
- Tỷ trọng lao động trong nông nghiệp vẫn còn cao. Tình trạng lao động không có
việc làm, thiếu việc làm còn nhiều. Lao động không qua đào tạo, không có trình
độ tay nghề rất đáng báo động…
- Cơ cấu đầu tư vẫn chưa hợp lý, chưa hướng vào các ngành có giá trị gia tăng…
Đầu tư ngân sách nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn dàn trải, thất
thoát, hiệu quả thấp. Không ít các công trình trọng điểm không hoàn thành đúng
kế hoạch… Đặc biệt công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém chưa phù
hợp với tình hình phát triển của xã hội dẫn đến nhiều tổn hại về tiền của vật chất
mang tính liên hoàn…
Ví dụ: Đầu tư công của Việt Nam năm 2009 là 42.5% GDP, cao thứ 4 thế giới,
trong khi tăng trưởng GDP năm 2009 chỉ đạt 5.3%.
- Nguyên nhân của tình trạng trên có nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ
quan khác nhau nhưng suy cho cùng có thể là do các nguyên nhân chủ yếu sau:
- Trước nhất là do nhận thức chưa đầy đủ của các cấp các ngành về đường lối đổi
mới kinh tế của Đảng ta, từ đó trong tư duy và cả trong hành động chỉ đạo còn

lúng túng, chậm chễ, khả năng dự báo và phát hiện chưa cao, chưa nhạy bén trước
sự phát triển mau lẹ của tình hình trong nước và quốc tế.
- Các chính sách và giải pháp vẫn chưa đủ mạnh, chưa kịp thời. Hiệu quả và hiệu
lực quản lý nhà nước về kinh tế chưa cao, cải cách hành chính còn rất chậm và đặc
biệt đội ngũ cán bộ vẫn chưa đáp ứng kịp với tình hình và nhiệm vụ hiện nay.
2.1.6.2. Về việc xây dựng nền kinh tế phát triển bền vững và có năng lực cạnh
tranh cao
- Hiện nay, với tốc độ tăng trưởng GDP khá cao, nền kinh tế Việt Nam xếp thứ 60
thế giới (trong các nền kinh tế thành viên của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF) nếu tính
theo GDP và xếp thứ 133 nếu tính theo GDP bình quân đầu người.
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam
Năm 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
% 5,8 4,8 6,8 6,9 7,1 7,3 7,8 8,4 8,2 8,5 6,2 5,3 6,5
(ước)
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
GDP bình quân đầu người nước ta qua các năm
Năm 1995 2000 2005 2007 2008 2009
USD/người 289 402 639 823 1024 1040
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam 2009
- Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới vào tháng 09/2010, Việt Nam đứng
thứ 59 trong tổng số 139 nước tham gia xếp hạng chỉ số cạnh tranh quốc gia.
- Ở hạng mục Yêu cầu cơ bản, Việt Nam đạt điểm số 4,4 và xếp hạng thứ 74; ở
hạng mục Các nhân tố cải thiện hiệu quả, điểm số dành cho Việt Nam là 4,2 tương
đương vị trí thứ 57; còn ở hạng mục Các nhân tố về sáng tạo và phát triển Việt
Nam đạt 3,7 điểm, xếp thứ 53.
- Khi đánh giá các yếu tố trong từng trụ cột, WEF xếp Việt Nam ở các vị trí khá
cao ở các yếu tố như: tiền lương và năng suất (hạng 4/139), mức độ tin tưởng của
dân chúng vào các chính trị gia (32), mức độ đáng tin cậy của lực lượng cảnh sát
(41), hệ thống điện thoại cố định (35), sự phủ sóng Internet tại trường học (49), tỷ
lệ tiết kiệm quốc gia (17), trình độ của người tiêu dùng (45), mức độ tham gia của

phụ nữ vào lực lượng lao động (20), khả năng huy động vốn qua thị trường chứng
khoán (35), FDI và chuyển giao công nghệ (31), quy mô thị trường nội địa (39),
quy mô thị trường nước ngoài (29) Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có rất nhiều
những yếu tố mà Việt Nam gần ở cuối bảng như: mức độ bảo vệ các nhà đầu tư
(133), gánh nặng thủ tục hành chính (120), năng lực kiểm toán và tiêu chuẩn báo
cáo (119), chất lượng cơ sở hạ tầng nói chung (123), cân bằng ngân sách chính
phủ (126), thời gian thành lập doanh nghiệp (118), quyền sở hữu của nước ngoài
(114), mức độ sẵn có của công nghệ tân tiến nhất (102)…
- Chính mức độ bảo vệ nhà đầu tư cũng là một yếu tố khiến Việt Nam bị giảm
điểm trong xếp hạng môi trường kinh doanh (Best countries for business) do tạp
chí Forbes công bố mới đây. Ở yếu tố đánh giá này trong xếp hạng của Forbes,
Việt Nam xếp 125/128 nền kinh tế được đưa vào báo cáo. Vị trí của Việt Nam
trong đánh giá môi trường kinh doanh của Forbes là 118.
- WEF cũng liệt kê những yếu tố gây cản trở nhiều nhất đối với hoạt động kinh
doanh tại các quốc gia được xếp hạng trong báo cáo. Đối với Việt Nam, 5 rào cản
hàng đầu bao gồm khả năng tiếp cận vốn, lạm phát, mức độ ổn định thấp của chính
sách, lực lượng lao động chưa được đào tạo đầy đủ, và cơ sở hạ tầng hạn chế.
- Tuy thăng hạng so với báo cáo năm ngoái, nhưng năng lực cạnh tranh của Việt
Nam theo WEF vẫn thấp hơn so với hầu hết các quốc gia khác trong khu vực
Đông Nam Á như Singapore (5,5 điểm/hạng 3), Malaysia (4,9 điểm/hạng 26),
Brunei (4,8 điểm/hạng 28), Thái Lan (4,5 điểm/hạng 38), Indonesia (4,4
điểm/hạng 44).
- Vấn đề tham nhũng và lậu thuế được đánh giá là những thách thức lớn nhất trong
quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam. Không chỉ vậy, theo các chuyên gia, mức
bảo hộ của các ngành hàng hoá hiện còn chưa linh động. Sau một thời gian dài cải
cách, đồ uống không cồn vẫn đang được bảo hộ tới 50%, đường 32,4%, gạch ốp
lát 48%, đồ nhựa 167% Trong khi đó tỷ trọng đầu tư trong nước và đầu tư nước
ngoài lại chiếm tương đối cao vào các mặt hàng này.
- Ước tính tổng số vốn đầu tư trực tiếp vào các ngành hàng thay thế nhập khẩu gấp
2 lần số đầu tư hướng ra xuất khẩu. Đây chính là một thách thức lớn trong tiến

trình hội nhập của Việt Nam.
- Ngoài ra một số mặt hàng trong nước chúng ta còn quá lệ thuộc vào nước ngoài:
Ví dụ 1: Việc không kiểm soát được giá thuốc. Nguyên nhân của việc không kiểm
soát được giá thuốc là do công nghiệp dược Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là
công nghiệp bào chế đơn giản với hàm lượng kỹ thuật thấp. Một số nhóm thuốc
quan trọng trong nước chưa sản xuất được. Trong khi đó, thị trường thuốc lại đang
bị các hãng dược nước ngoài thao túng bởi họ biết câu kết độc quyền hoặc tự đoạt
vị trí độc quyền.
Ví dụ 2: Sản xuất máy nông nghiệp còn lệ thuộc linh kiện nhập khẩu, khoảng 30%
máy nông nghiệp do Việt Nam sản xuất, nhưng linh kiện chủ yếu là hàng nhập.
Theo các chuyên gia chế tạo máy, Việt Nam hiện nay có khoảng 550.000 máy
phục vụ sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là máy nổ và máy phát điện, còn máy cày,
máy gặt đập và các dòng máy chuyên dùng khác không đáng kể… Nhóm máy
phục vụ sản xuất nông nghiệp được phân chia theo tỷ lệ: máy nhập từ Trung Quốc
chiếm khoảng 60%, máy do Việt Nam sản xuất chiếm khoảng 30%, còn lại là
nguồn máy cũ. Nếu phân tích chi tiết hơn, trong 30% thị phần của máy nông
nghiệp Việt, có nhiều dòng sản phẩm là kết quả của liên doanh 2.1.6.3. Đánh giá
về việc xây dựng cơ cấu xuất nhập khẩu cơ bản cân đối - Cơ cấu mặt hàng đa
dạng, phong phú với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm
ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế, đối tác cũng đa dạng và tránh chỉ tập trung quá
nhiều vào một vài mục tiêu.
- Nền kinh tế nước ta đang ở trong trạng thái nhập siêu, tình trạng này diễn ra liên
tục trong vài năm gần đây với tỉ lệ cao và chưa thấy được dấu hiệu của việc giảm
tỉ trọng nhập siêu. Điều này làm ảnh hưởng tới an toàn của hệ thống nền kinh tế về
dự trữ ngoại hối, những mặt hàng chúng ta nhập phần lớn là những mặt hàng xa xỉ,
nguyên vật liệu đầu vào phục vụ cho công cuộc công nghiệp hóa; do vậy, đây là
một trong những điều quan ngại cho tính an toàn và độc lập của nền kinh tế Việt
Nam.
Ví dụ: Năm 2009 nhập siêu 12,25 tỉ USD. Đến hết tháng 11/2010 nhập siêu 10,65
tỉ USD. Bộ Công thương ước tính nhập siêu năm 2010 sẽ khoảng 12 tỉ USD, nằm

trong khoảng an toàn cho phép là 20% kim ngạch xuất khẩu.
- Về mặt xuất khẩu, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực nông lâm thủy hải sản, một
số hàng hóa công nghiệp mang tính gia công. Tất cả những mặt hàng này có giá trị
thấp, hàm lượng chất xám không cao, có tính chất bào mòn tài nguyên quốc gia.
Ví dụ: dầu thô, gạo, gỗ, các loại thủy hải sản… Trừ dầu thô những mặt hàng xuất
khẩu còn lại của Việt Nam luôn gặp vấn đề về giá, những vụ kiện tụng về bán phá
giá tại nhiều thị trường trọng yếu khiến cho hàng hóa của Việt Nam luôn yếu thế
hơn so với các mặt hàng cùng chủng loại của các nước khác.
- Về nhập khẩu, xuất phát từ nền sản xuất nông nghiệp muốn chuyển đổi qua công
nghiệp hóa Việt Nam cần phải nhập nhiều công nghệ từ nước ngoài để kịp thời
phục vụ cho nền sản xuất hàng hóa trong nước; bên cạnh đó, văn hóa tiêu dùng
của người Việt Nam khiến cho lượng hàng hóa nhập vào Việt Nam nhiều hơn,
ngay cả đối với những mặt hàng mà trong nước có thể sản xuất được với chất
lượng tương đương.
2.1.6.4. Về đầu tư
- Đầu tư trực tiếp của nước ngoài trong một ngành kinh tế, nhất là những ngành
kinh tế quan trọng, chiếm một tỷ lệ không thể chi phối nền kinh tế; hạn chế hoặc
không cho phép đầu tư nước ngoài vào những ngành nhạy cảm. Đây là điểm mà
Việt Nam đang làm khá chặt. Trong lãnh thổ quốc gia, chúng ta đang độc quyền
một số lĩnh vực nhảy cảm như năng lượng, ngân hàng…
- Mặc dù VN đã là thành viên chính thức của WTO nhưng đối với một số lĩnh vực
thuộc cam kết nhà đầu tư nước ngoài cũng rất khó mở rộng hoạt động tại Việt
Nam. Điều này giúp cho Việt Nam đảm bảo được một số nguyên tắc an toàn cơ
bản trong việc bảo vệ tính ổn định của nền kinh tế. Ví dụ: trong ngành ngân hàng,
bán lẻ, giải trí có điều kiện (casino, hợp thức hóa cá cược)
2.1.6.5. Đảm bảo nền tài chính lành mạnh, đặc biệt giữ cân bằng cần thiết trong
cán cân thanh toán và có nguồn dự trữ quốc gia mạnh
- Đối với vấn đề này Việt Nam đang thực hiện khá yếu. Lạm phát năm 2010 dự
kiến vào khoảng 8%.
- Trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, trước sức ép phát triển mạnh nền kinh tế sản

xuất trong nước, nhu cầu về vốn tăng cao cộng với năng lực quản trị kém luôn
khiến cho hệ thống ngân hàng VN luôn ở trong tình trạng kém về thanh khoản, lãi
suất tăng cao. Điều này gây áp lực lớn hệ thống doanh nghiệp VN, đặc biệt là hệ
thống doanh nghiệp tư nhân; yếu tố cốt lõi cho sự phát triển nền kinh tế.
- Đầu năm 2010, Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cảnh báo dự trữ ngoại hối của Việt Nam
quá thấp, chỉ bằng 7 tuần nhập khẩu so với tiêu chuẩn quốc tế là 12 tuần. Đến
tháng 06/2010, Ngân hàng Nhà nước công bố số liệu dự trữ ngoại hối của Việt
Nam đạt 09 tuần nhập khẩu. Tuy nhiên con số này vẫn còn quá thấp.
Dự trữ ngoại hối của Việt Nam qua các năm (tỉ USD)
2008 2009 2010 (dự báo)
23 15.2 17.5
- Một số vấn đề khác liên quan đến độc lập tự chủ về kinh tế:
+ An ninh lương thực: Chúng ta có thể yên tâm về khoản này do là nước nông
nghiệp, xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Tuy nhiên, vẫn có những mối lo về việc giảm
diện tích đất nông nghiệp do các nguyên nhân: đô thị hóa, chuyển đổi mục đích sử
dụng đất, ngập mặn…
+ Nợ quốc tế: Năm 2010 dự kiến nợ quốc tế vào khoảng 38.8% GDP, vẫn ở mức
an toàn cho phép. Tuy nhiên vẫn có những mối lo ngại về tình hình nợ quốc tế như
sau:
- Nợ quốc tế vẫn tăng hằng năm, và mức độ tăng nhanh hơn mức độ tăng trưởng
GDP
- Cơ cấu nợ: gia tăng các khoản vay có lãi suất cao, đáo hạn sớm. Đây là các
khoản vay của các doanh nghiệp (chỉ có chính phủ có thể vay nợ với lãi suất thấp
và thời hạn trả nợ dài). Đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước dựa vào cam kết
bảo lãnh của chính phủ để đi vay.
- Từ 2009, Việt Nam bắt đầu trả nợ ODA cho Nhật Bản, mỗi năm khoảng 200-250
triệu USD. Con số này sẽ còn tăng trong tương lai.
- Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ theo định hướng XHCN trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế là một chủ trương đúng đắn và sáng tạo của Đảng ta. Trong
điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, việc thực hiện chủ trương này đứng trước nhiều

thời cơ, thuận lợi, thách thức và khó khăn đan xen nhau. Trên cơ sở tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước, cần tạo ra sự thống nhất cao
trong nhận thức, tư tưởng, trong việc hoạch định đường lối, chính sách và trong
việc tổ chức thực hiện - đó là những điều kiện vô cùng quan trọng, tiên quyết để
đảm bảo sự thành công việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ở nước ta.
2.2. Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa
dạng dựa trên sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu
toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng
2.2.1. Kinh tế thị trường
2.2.1.1. Khái niệm
- KTTT là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ cao, trong đó các quan hệ
kinh tế đều được lượng hóa bằng tiền tệ, các đối tượng của sản xuất đều là đối
tượng mua và bán, các doanh nghiệp đều có mục đích tự nhiên là tìm kiếm lợi ích
cho chính mình theo sự dẫn dắt của những tín hiệu thị trường.
2.2.1.2. Ưu điểm
- Kích thích các hoạt động của các chủ thể kinh tế và tạo điều kiện thuận lợi cho
hoạt động tự do của họ.
- Thích ứng tự phát giữa cung và cầu.
- Kích thích đổi mới kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất.
- Thực hiện phân phối các nguồn lực một cách tối ưu.
- Sự điều tiết của cơ quan Nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước
những điều kiện kinh tế biến đổi làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với
nhu cầu xã hội.
2.2.1.3. Hạn chế
- Cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm soát của cạnh tranh hoàn
hảo, khi xuất hiện cạnh tranh không hoàn hảo thì hiệu lực của cơ chế thị trường
giảm.
- Tài nguyên bị lạm dụng, gây ô nhiễm môi trường sống của con người, do đó hậu

quả kinh tế xã hội không được đảm bảo. Ví dụ như các vấn đề về lạm thác titan,
vàng dẫn đến hậu quả nghiêm trọng về môi trường, tình trạng ô nhiễm do hạ tầng
xử lí chất thải không theo kịp tốc độ phát triển công nghiệp, do mục tiêu lợi nhuận
dẫn đến việc gây ô nhiễm môi trường sống trầm trọng, điển hình là sự việc bức tử
sông Thị Vải của Vedan.
- Phân phối thu nhập không công bằng, phân hóa giàu nghèo gia tăng. Các chỉ số
thống kê cho thấy chênh lệch giữa nhóm giàu (20% tổng số hộ có thu nhập cao
nhất) và nhóm nghèo (20% tổng số hộ có thu nhập thấp nhất) ở nước ta tăng nhanh
qua các năm: 1990 là 4,1 lần, năm 1991 là 4,2 lần, năm 1993 là 6,2 lần, năm 1994
là 6,5 lần, năm 1995 là 7 lần, năm 1999 là 7,6 lần, năm 2004 là 8,1 lần và 2008 là
9,1 lần. Chênh lệch giàu nghèo ở nước ta cũng cần lưu ý những điểm sau:
Một là, chênh lệch giàu, nghèo ở nước ta tăng là kết quả tất yếu của sự chuyển đổi
cơ chế từ kế hoạch tập trung quan liêu và chế độ bao cấp bình quân hiện vật sang
cơ chế thị trường. Cơ chế thị trường đã loại bỏ dần tính bình quân bao cấp, khuyến
khích làm giàu bằng việc phát huy các nguồn lực về vốn, trình độ học vấn, trình độ
chuyên môn, sức lao động, kinh nghiệm làm ăn… Theo ý nghĩa này thì chênh lệch
giàu nghèo có tăng lên cũng không có gì đáng sợ, bởi nền kinh tế mà nước ta lựa
chọn là nền kinh tế thị trường.
Hai là, chênh lệch giàu, nghèo tăng tương đối nhanh trong thời gian qua (bình
quân mỗi năm tăng thêm gần 0,4 lần) và có xu hướng còn cao hơn trong thời gian
tới. Đây mới là điều đáng lưu ý, vì nền kinh tế thị trường mà nước ta lựa chọn là
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ba là, chênh lệch giàu, nghèo của nước ta tuy còn thấp hơn nhiều nước, nhưng nếu
xét từ xuất phát điểm của một nước vừa mới chuyển đổi từ cơ chế hiện vật mang
tính chất bình quân sang cơ chế thị trường thì không thể không đáng quan tâm.
Nước Mỹ đã trải qua hơn 200 năm phát triển tư bản và hiện đứng hàng đầu thế
giới về kinh tế, nhưng chênh lệch cũng mới chỉ có 9,1 lần; tài sản của tỉ phú Mỹ
chỉ chiếm 6,1% GDP. Nước Nga mới chuyển đổi 15 năm, nhưng tỉ phú Nga đã
chiếm tới 40% GDP. Ở Việt Nam, mới qua 20 năm đổi mới mà chênh lệch đã lên
tới 9,1 lần là điều không thể coi thường.

Bốn là, trong chênh lệch giàu, nghèo của nước ta còn chứa đựng những yếu tố bất
hợp lý ở cả hai đầu - đầu giàu và đầu nghèo. Ở "đầu giàu", có không ít hộ và người
có những khoản thu nhập bất chính (như do buôn lậu, gian lận thương mại, trốn
thuế, do tham nhũng, do cạnh tranh không lành mạnh như ăn cắp bản quyền, kinh
doanh kiểu chụp giật, lừa đảo…) hoặc những khoản thu nhập không chính đáng do
kẽ hở của chính sách được hưởng từ nhà đất, từ bao cấp… mà có. Ở "đầu giàu"
cũng còn tình trạng một số người làm ăn chân chính nhưng chưa thật yên tâm bỏ
vốn đầu tư trực tiếp do vẫn còn sợ "vỗ béo làm thịt", hoặc chưa được khuyến
khích để làm giàu chính đáng bằng vốn, bằng sức lao động, bằng trình độ kinh
nghiệm, hoặc đã xuất hiện tư tưởng thỏa mãn theo kiểu "giàu xổi" nên đã dồn cho
tiêu xài, nuông chiều con cái mà chưa dồn đầu tư trực tiếp cho sản xuất kinh
doanh.
Ở "đầu nghèo", bên cạnh không ít hộ nghèo do thiếu vốn, thiếu lao động, thiếu
việc làm, thiếu kinh nghiệm, do bị rủi ro ốm đau, tai nạn, thiên tai, do cơ cấu thu
nhập - vì lý do khách quan…, cũng có một số hộ còn do những nguyên nhân chủ
quan, thậm chí đáng phê phán như lười làm, chi tiêu lãng phí, vung tay quá trán,

×