Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về tầm quan trọng của tiền lương đối với năng suất lao động phần 1 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.71 KB, 6 trang )



1

L
ỜI NÓI ĐẦU
Trong quá trình phát triển chung của nhân loại,của mỗi đất nước .Vấn đề
đảm bảo cuộc sống cho người lao động cả về mặt vật chất lẫn tinh thần
không ngừng được nâng lên luôn là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu .Cũng như đối với Việt Nam chúng ta,vấn đề trả lương trong các
doanh nghiệp Nhà nước luôn được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm để
phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN.
Tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động mà người sử
nhập hợp lý giữa các ngành,các vùng trong nền kinh tế quốc dân và đảm bảo
thống nhất giữa ba lợi ích Nhà nước,doanh nghiệp và người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này trong các doanh nghiệp
Nhà nước và được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cán bộ ngân hàng,đặc biệt là
sự giúp đỡ nhiệt tình của cô giáo Vũ Hoàng Ngân .Tôi đã đi sâu vào nghiên
cứu đề tài: “Tiền lương thu nhập và tác động của nó đến năng suất lao
động hiện nay ở Việt Nam”
Tôi đã cố gắng đưa ra một cách khái quát và đầy đủ nhất về vấn đề.Song do
thời gian có hạn và là lần đầu viết về vấn đề này nên không thể tránh được
những thiếu sót ,rất mong được những ý kiến góp ý để tôi có thể nắm vững
hơn về vấn đề và hoàn thiện hơn trong những lần viết sau:
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Ngoài phần mở đầu và kết luận đề tài gồm ba phần chính như sau:
PHẦN 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG-THU NHẬP TRONG
DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
Giáo trình hướng dẫn tìm hiểu về tầm quan trọng
của tiền lương đối với năng suất lao động




2

PHẦN 2:THỰC TRẠNG TIỀN LƯƠNG THU NHẬP CỦA NGƯỜI LAO
ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC HIỆN NAY.
PHẦN 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC TRẢ
LƯƠNG NHẰM TẠO ĐỘNG LỰC CHO NGƯỜI LAO ĐỘNG



3

Phần thứ nhất
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG-THU NHẬP
TRONG DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC.

I./ THỰC CHẤT CỦA TIỀN LƯƠNG-THU NHÂP TRONG CÁC
DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
1. Khái niệm về tiền lương-thu nhập.
Tiền lương là số lượng tiền tệ mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động theo giá trị sức lao động mà anh ta đã hao phí.
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung,tiền lương được hiểu một cách thống
nhất như sau:”Về thực chất,tiền lương dưới CNXH là một phần thu nhập
quốc dân,biểu hiện dưới hình thức tiền tệ,được Nhà nước phân phối có kế
hoạch cho công nhân viên chức phù hợp với số lượng và chất lượng lao
động của mỗi người đã cống hiến.Tiền lương phản ánh việc trả công cho
công nhân viên chức,dựa trên nguyên tắc phân phối theo lao động nhằm tái
sản xuất sức lao động”.

Theo quan niệm này,tiền lương mang nặng tính chất bao cấp,bình quân
,dàn đều.Nó chưa đảm bảo được nguyên tắc phân phối tiền lương theo lao
động từ đó không khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn,tính chủ
động lao động sáng tạo của người lao động và coi nhẹ lợi ích thiết thực của
người lao động .Kết quả là không gắn được lợi ích của người lao động với
thành quả mà họ sáng tạo ra,không có trách nhiệm với công việc được giao.
.


4

Khi chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung,bao cấp sang nền kinh
tế thị trường,ở đây mọi người được tự do mua,bán sức lao động của mình,vì
thế sức lao động được nhìn nhận như một hàng hoá và tiền lương không phải
là cái gì khác,mà nó chính là giá cả sức lao động.
Thật vậy,sức lao động là cái vốn có của người lao động,người sử dụng
lao động lại có điều kiện và muốn sử dụng nó để tạo ra của cải vật chất.Do
vậy người sử dụng lao động phải trả cho người sở hữu sức lao động hay
người lao động một số tiền nhất định để đổi lấy quyền sử dụng sức lao động
của người lao động.Về phía người lao động ,họ muốn bán sức lao động để
lấy một khoản tiền nhất định để nuôi bản thân và gia đình.Vì vậy,giữa người
sử dụng lao động và người lao động nảy sinh quan hệ mua bán và cái được
trao đổi ,mua bán ở đây là sức lao động của người lao động và số tiền của
người lao động trả cho người lao động chính là giá cả của sức lao động hay
nói khác đi tiền lương chính là giá cả sửc lao động .
Lúc này ,Đảng và Nhà nước ta đã nhận định “tiền lương là giá cả của sức
lao động “Tiền lương là giá cả sức lao động ,được hình thành qua sự thoả
thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động thông qua hợp đồng
lao động ,phù hợp với các quan hệ của nền kinh tế thị trường đang trong quá
trình hoàn thiện theo định hướng XHCN”.

Điều đó có nghĩa là tiền lương phải được trả theo đúng giá trị sức lao
động,phải coi tiền lương như một động lực thúc đẩy từng cá nhân người lao
động hăng say làm việc,nhưng phải tránh tính chất bình quân.Có thể cùng
trình độ chuyên môn ,cùng bậc thợ nhưng tiền lương lại rất khác nhau do
hiệu quả sản xuất khác nhau hay do sức lao động khác nhau .
Quan điểm mới này về tiền lương đã tạo cho việc trả lương đúng với giá
trị sức lao động ,tiền tệ hoá tiền lương triệt để hơn ,xoá bỏ tính phân phối


5

cấp phát và trả lương bằng hiện vật.Đồng thời nó đã khắc phục quan điểm
coi nhẹ lợi ích cá nhân như trước kia , Tiền lương phải được sử dụng đúng
vai trò đòn bẩy kinh tế của nó kích thích người lao động gắn bó hăng say với
công việc.
Tóm lại tiền lương là một khỏan tiền mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động khi họ hoàn thành một công việc nào đó theo đúng số lượng
và chất lượng đã thoả thuận.Sức lao động là hàng hoá ,tiền lương là giá cả
sức lao động ,và người sử dụng sức lao động căn cứ vào số lượng và chất
lượng của người công nhân ,cũng như mức độ phức tạp,tính chất độc hại của
công việc để trả lương cho người lao động.
Thu nhập là khoản tiền mà người lao động trong doanh nghiệp được
người sử dụng lao động trả theo lao động và là khoản thu thường xuyên ,tính
bình quân tháng trong năm bao gồm: Tiền lương ,tiền thưởng,chia phần lợi
nhuận ,các khoản phụ cấp lương,những chi phí thường xuyên ổn định mà
người sử dụng lao động chi trực tiếp cho người lao động như tiền ăn giữa
ca,tiền ăn trưa,tiền xăm lốp xe và các khoản thu khác,trong đó tiền lương là
một phần chủ yếu trong thu nhập.
Về tiền lương tối thiểu,thì đó là mức lương”sàn” chung ,được xem là
"cái ngưỡng” cuối cùng trên phạm vi quốc gia,làm cơ sở cho việc xác định

tiền lương tối thiểu của từng ngành,nghề,khu vực kinh tế và vùng lãnh thổ
khác nhau,là căn cứ để định chính sách tiền lương.Với quan niệm như
vậy,mức lương tối thiểu được coi là yếu tố rất quan trọng của một chính sách
tiền lương,nó liên quan chặt chẽ với ba yếu tố:
+ Mức sống trung bình của dân cư một nước.
+ Chỉ số giá cả hàng hoá sinh hoạt .


6

+ Loại lao động và điều kiện lao động .
Mức lương tối thiểu đo lường giá loại sức lao động thông thường trong
điều kiện làm việc bình thường,yêu cầu một kỹ năng đơn giản với một
khung giá các tư liệu sinh hoạt hợp lý.Nghị định 197/CP của Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,ngày 31/12/1994 về việc thi hành Bộ luật lao
động,đã ghi:”Mức lương tối thiểu là mức lương để trả cho người lao động
làm công việc đơn giản nhất(không qua đào tạo) với điều kiện lao động và
môi trường lao động bình thường “.
Quĩ tiền lương:là tổng số tiền lương dùng để trả lương cho người lao động
phù hợp với số lượng và chất lượng lao động trong phạm vi doanh nghiệp.
Đơn giá tiền lương: Hiện nay có hai cách hiểu về đơn giá tiền lương.
Theo cách thứ nhất thì đơn giá tiền lương là lượng tiền chung để trả cho
người lao động khi họ hoàn thành một đơn vị sản phẩm hay công việc.Như
vậy,theo cách hiểu này,lượng tiền dùng để trả công này là trả cho người trực
tiếp làm ra sản phẩm hay hoàn thành công việc.Theo cách hiểu khác thì đơn
giá tiền lương là số tiền trả cho người lao động đã tham gia trực tiếp và gián
tiếp để làm ra sản phẩm hay hoàn thành công việc.
Như vậy đơn giá tiền lương này không phải chỉ áp dụng cho người trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm hay hoàn thành công việc mà cho mọi lao động có
tham gia vào việc hoàn thành nó như người quản lý,công nhân phụ trách kỹ

thuật
a. Tiền lương thực tế và tiền lương danh nghĩa .
Tiền lương danh nghĩa :Là lượng tiền mà người lao động nhận được từ
người sử dụng lao động theo lượng giá trị sức lao động đã bỏ ra.

×